Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Sáng Thế 35-36

Chúa Tái Lập Giao Ước Với Gia-cốp

35 Đức Chúa Trời bảo Gia-cốp: “Con hãy lên định cư tại Bê-tên, và lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời là Đấng đã hiện ra gặp con lúc con đang chạy trốn Ê-sau, anh con!”

Gia-cốp thuật lại cho cả gia nhân quyến thuộc và căn dặn: “Hãy từ bỏ hết các thần ngoại bang, dọn mình cho thanh sạch và thay quần áo đi! Chúng ta hãy đứng dậy, lên Bê-tên; tôi sẽ lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời là Đấng nhận lời tôi trong ngày hoạn nạn và ở cùng tôi trong các chặng đường đời.” Họ liền nộp cho Gia-cốp các tượng thần đang cất giấu và các đôi bông tai họ đang đeo. Gia-cốp đem chôn hết dưới gốc cây sồi tại Si-chem. Gia đình Gia-cốp nhổ trại ra đi. Đức Chúa Trời làm cho dân các thành chung quanh khiếp sợ, không dám đuổi theo các con trai Gia-cốp.

Gia-cốp và cả gia đình đến Bê-tên mà người Ca-na-an gọi là Lu-xơ. Gia-cốp xây một bàn thờ và đặt tên nơi đó là Ên Bê-tên vì Đức Chúa Trời đã xuất hiện gặp ông tại đây trong ngày ông chạy trốn anh mình.

Đê-bô-ra, người vú của Rê-bê-ca qua đời và được an táng tại Bê-tên dưới gốc một cây sồi mang tên là A-long-ba-cúc.

Đức Chúa Trời lại xuất hiện, gặp Gia-cốp lần thứ nhì sau khi ông lìa xứ Pha-đan A-ram và ban phước cho người. 10 Ngài bảo: “Tên cũ của con là Gia-cốp, nhưng đừng dùng tên ấy nữa. Tên con sẽ là Y-sơ-ra-ên.” Và Ngài gọi ông là Y-sơ-ra-ên.

11 Chúa dạy tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Con hãy sinh sản bội phần, không những thành một dân tộc nhưng nhiều dân tộc. Dòng dõi con sẽ có nhiều vua chúa. 12 Ta sẽ cho con và dòng dõi con vùng đất Ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác.” 13 Rồi Đức Chúa Trời ngự lên khỏi nơi này.

14 Gia-cốp liền dựng tại đó một cây trụ đá, dâng tế lễ và tưới dầu vào. 15 Gia-cốp gọi địa điểm này, nơi ông nói chuyện với Đức Chúa Trời là Bê-tên.[a]

Ra-chên Sinh Bên-gia-min Và Qua Đời

16 Gia-cốp cùng gia đình bỏ Bê-tên ra đi. Khi gần đến Ép-ra-ta, Ra-chên chuyển bụng nhưng khó sinh. 17 Trong khi sinh khó khăn, Ra-chên nghe bà đỡ bảo: “Bà đừng sợ, vì bà sắp sinh một con trai nữa.” 18 Khi Ra-chên đang hấp hối, bà đặt tên con là Bên-ô-ni[b] nhưng Gia-cốp đặt tên con là Bên-gia-min.[c]

19 Ra-chên qua đời và được an táng trên đường đến Ép-ra-ta, cũng gọi là Bết-lê-hem.[d] 20 Gia-cốp dựng bia tại ngôi mộ Ra-chên, đến ngày nay vẫn còn.

21 Y-sơ-ra-ên tiếp tục cuộc hành trình, đi quá tháp Ê-đa, thì cắm trại để nghỉ chân. 22 Trong thời gian ở đó, Ru-bên vào ngủ với Bi-la, hầu thiếp của cha mình. Y-sơ-ra-ên nghe được điều đó.

23 Đây là tên mười hai con trai của Gia-cốp:

Các con của Lê-a:

Ru-bên, trưởng nam,

Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca và Sa-bu-luân.

24 Các con của Ra-chên:

Giô-sép và Bên-gia-min.

25 Các con của Bi-la, cô hầu của Ra-chên:

Đan và Nép-ta-li.

26 Các con của Xinh-ba, cô hầu của Lê-a:

Gát và A-se.

Đây là các con trai được sinh tại xứ Pha-đan A-ram.

27 Rốt cuộc, Gia-cốp về đến nhà cha tại Mam-rê, thành Ki-ri-át Ạc-ta, nay là Hếp-rôn, cũng là nơi ngụ của Áp-ra-ham và Y-sác ngày trước. 28 Y-sác hưởng thọ một trăm tám mươi tuổi rồi qua đời. 29 Ông sống trọn đời đến già và được hai con trai là Ê-sau và Gia-cốp an táng.

Dòng Dõi Ê-sau

36 Đây là dòng dõi của Ê-sau, tức Ê-đôm.

Ê-sau cưới vợ người Ca-na-an, A-đa, con gái của Ê-luân, người Hê-tít; Ô-hô-li-ba-ma, con gái của A-na, cháu của Xi-bê-ôn, người Hê-tít và Bách-mát, con gái của Ích-ma-ên, con của Nê-ba-út.

A-đa sinh Ê-li-pha, Bách-mát sinh Ru-ên. Ô-hô-li-ba-ma sinh Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra. Tất cả các con trai ấy đều sinh tại xứ Ca-na-an.

Ê-sau đưa vợ con, gia nhân và đem các bầy súc vật cùng tất cả tài sản gây dựng được tại xứ Ca-na-an qua vùng cách xa gia đình Gia-cốp vì cả hai anh em đều có quá nhiều tài sản không thể sống chung được nữa và xứ họ đang cư ngụ cũng không cung ứng nổi nhu cầu của hai gia đình đông đúc ấy. Vậy, Ê-sau, tức là Ê-đôm, ở trên núi Sê-i-rơ.

Dòng Dõi Của Các Con Ê-sau

Hậu tự của Ê-sau, tức là người Ê-đôm, sinh tại núi Sê-i-rơ gồm có:

10 Các con trai Ê-sau:

A-đa vợ người, sanh Ê-li-pha; Bách-mát, cũng vợ người, sanh Ru-ên.

11 Con trai của Ê-li-pha là

Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tham, Kê-nát;

12 Thim-na, người vợ lẽ của Ê-li-pha sinh A-ma-léc. Đó là cháu của A-đa, vợ Ê-sau.

13 Còn đây là gia tộc Ru-ên, con trai của Bách-mát:

Na-hát, Xê-ra, Sam-ma và Mích-xa. Ấy là các cháu của Bách-mát, cũng là vợ của Ê-sau.

14 Và mấy người này là con trai của Ô-hô-li-ba-ma, vợ của Ê-sau, con gái A-na, cháu ngoại Xi-bê-ôn. Nàng sanh cho Ê-sau

Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.

15 Các cháu nội của Ê-sau trở thành các tộc trưởng:

bộ tộc Thê-man, bộ tộc Ô-ma, bộ tộc Xê-phô, 16 bộ tộc Kê-na, bộ tộc Cô-ra, bộ tộc Ga-tham, bộ tộc A-ma-léc. Các bộ tộc ấy là hậu tự của Ê-li-pha, con trưởng nam của Ê-sau và A-đa.

17 Các bộ tộc do Ru-ên, thứ nam của Ê-sau và Bách-mát; sinh ra trong xứ Ca-na-an:

bộ tộc Na-hát, bộ tộc Xê-ra, bộ tộc Sam-ma, bộ tộc Mích-xa.

18 Các bộ tộc dòng thứ ba, do các con của Ê-sau và Ô-hô-li-ba-ma, con gái A-na:

bộ tộc Giê-úc, bộ tộc Gia-lam, bộ tộc Cô-ra.

19 Ấy là các con trai của Ê-sau, tức là Ê-đôm, và đó là các bộ tộc của họ.

20 Các sắc tộc bản xứ, là hậu tự của Sê-i-rơ, người Hô-rít:

sắc tộc Lô-than, sắc tộc Sô-banh, sắc tộc Xi-bê-ôn, sắc tộc A-na, 21 sắc tộc Đi-sôn, sắc tộc Ê-xe, sắc tộc Đi-san.

22 Con của Lô-than là

Hô-ri và Hê-man; em gái của Lô-than là Thim-na.

23 Con của Sô-banh là

Anh-nan, Ma-na-hát, Ê-ban, Sê-phô và Ô-nam.

24 Con của Xi-bê-ôn là

Ai-gia và An-na; An-na, cậu này đã tìm thấy các suối nước nóng trong sa mạc đang lúc chăn lừa cho cha mình.

25 Con của A-na là

Đi-sôn và Ô-bê-li-ba-ma.

26 Con của Đi-sôn là

Hem-đan, Ếch-ban, Ích-ran và Chê-ran.

27 Con của Ê-xe là

Binh-ban, Xa-van và A-can.

28 Con của Đi-san là

U-xơ và A-ran.

29 Còn đây là các sắc tộc dân Hô-rít:

sắc tộc Lô-than, sắc tộc Sô-banh, sắc tộc Xi-bê-ôn, sắc tộc A-na, 30 sắc tộc Đi-sôn, sắc tộc Ê-xe, sắc tộc Đi-san. Đó là các sắc tộc của dân Hô-rít, ở tại xứ Sê-i-rơ.

Các Vua Xứ Ê-đôm

31 Đây là tên các vua đã cai trị xứ Ê-đôm trước thời Y-sơ-ra-ên có vua cai trị.

32 Bê-la, con trai Bê-ô, trị vì xứ Ê-đôm; tên thành người là Đin-ha-ba.

33 Bê-la chết, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, lên kế vị.

34 Giô-báp chết, Hu-ram người Thê-man lên kế vị.

35 Hu-ram chết, Ha-đát, con trai Bê-đát, lên kế vị. Ấy là Vua này đánh thắng dân Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; và tên thành người là A-vít.

36 Ha-đát chết, Sam-la, người Ma-rê-ca lên kế vị.

37 Sam-la chết, Sau-lơ, người Rê-hô-bốt ở trên mé sông lên kế vị.

38 Sau-lơ chết, Ba-anh-Ha-nan, con trai Ạc-bồ, lên kế vị.

39 Ba-anh-Ha-nan chết, Ha-đa lên kế vị. Tên thành người là Ba-u; vợ người là Mê-hê-ta-bên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại Mê-sa-hạp.

40 Đây là tên các bộ tộc của Ê-sau, xứ họ ở được gọi theo tên bộ tộc:

bộ tộc Thim-na, bộ tộc Anh-va, bộ tộc Giê-thi, 41 bộ tộc Ô-hô-li-ba-ma, bộ tộc Ê-la, bộ tộc Phi-nôn, 42 bộ tộc Kê-na, bộ tộc Thê-man, bộ tộc Míp-xa, 43 bộ tộc Mạc-đi, bộ tộc I-ram.

Tất cả các bộ tộc ấy đều là dòng dõi của Ê-sau.

Mác 6

Đức Giê-su Trở Về Na-xa-rét(A)

Đức Giê-su rời khỏi nơi đó trở về quê hương, các môn đệ cùng theo Ngài. Đến ngày Sa-bát, Ngài bắt đầu giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe Ngài giảng nên ngạc nhiên hỏi: “Nhờ đâu ông này được như vậy? Sao ông ấy sáng suốt đến thế? Sao ông ấy có thể làm được những phép lạ như vậy? Ông này chẳng phải là người thợ mộc, con trai bà Ma-ri, anh em với Gia-cơ, Giô-sép, Giu-đa và Si-môn sao? Các em ông ấy chẳng ở giữa vòng chúng ta đây sao?” Vì thế họ bực tức với Ngài.

Đức Giê-su bảo họ: “Có tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương, giữa vòng bà con, và nhà mình đâu!” Tại đó Ngài không thể làm được việc quyền năng nào, ngoại trừ đặt tay chữa lành một vài người bệnh. Chúa ngạc nhiên vì lòng không tin của họ.

Công Tác Của Mười Hai Sứ Đồ(B)

Đức Giê-su đi khắp các làng quanh đó giảng dạy. Ngài gọi mười hai sứ đồ đến, sai họ đi từng toán hai người và ban cho họ quyền uy trên các tà linh.

Ngài truyền bảo họ đừng mang gì theo khi đi đường, ngoại trừ một cây gậy; không lương thực, không túi xách, không một đồng xu giắt lưng,[a] nhưng chỉ mang dép và đừng mặc hai áo choàng. 10 Ngài dặn: “Hễ nhà nào các con vào hãy cứ ở đó cho đến khi ra đi. 11 Nơi nào không tiếp hoặc không chịu nghe lời các con, hãy ra khỏi chỗ đó, phủi bụi nơi chân mình để làm bằng chứng cảnh cáo[b] họ.”

12 Các sứ đồ lên đường, truyền giảng Phúc Âm, kêu gọi người ta ăn năn hối cải. 13 Họ đuổi nhiều quỷ, xức dầu và chữa lành nhiều người bệnh.

Cái Chết Của Giăng Báp-tít(C)

14 Vua Hê-rốt nghe đồn về Đức Giê-su vì danh tiếng Ngài đồn ra khắp nơi. Một số người nói: “Giăng chết rồi mà nay sống lại, nên mới làm được những phép lạ ấy.”

15 Một số khác bảo: “Đấy là Ê-li,” một số khác nữa nói: “Đây là một tiên tri cũng như các tiên tri của Chúa.”

16 Nhưng khi nghe vậy, vua Hê-rốt bảo rằng: “Đây chính là Giăng mà ta đã truyền chém, nay sống lại.”

17 Số là vua Hê-rốt đã sai bắt Giăng xiềng vào ngục, vì cớ Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp, em vua và vua đã cưới nàng. 18 Vì Giăng đã can vua không nên lấy Hê-rô-đia, vợ Phi-líp, em mình, một việc làm trái luật. 19 Nên bà Hê-rô-đia căm giận muốn giết Giăng nhưng không làm gì được. 20 Vì vua Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là người chính trực và thánh thiện, nên tìm cách bảo vệ ông. Vua rất thích nghe lời Giăng, dù mỗi khi nghe, Vua thường bối rối.

21 Thời cơ đã đến: Nhân lễ sinh nhật, vua Hê-rốt mở tiệc thết triều thần, bá quan văn võ và các thân hào, nhân sĩ miền Ga-li-lê. 22 Con gái bà Hê-rô-đia vào trình diễn một vũ khúc làm vua Hê-rốt và các khách dự tiệc say mê, nên vua bảo nàng rằng: “Con muốn gì, cứ xin trẫm sẽ ban cho.” 23 Vua lại còn thề: “Con xin gì trẫm cũng ban, dù cả nửa giang san cũng được.”

24 Cô gái liền ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì đây?” Mẹ cô bảo: “Cái đầu của Giăng Báp-tít.”

25 Cô gái vội vã trở vào, tâu với vua: “Xin bệ hạ cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm.”

26 Vua rất buồn, nhưng đã lỡ thề trước mặt quan khách nên không thể từ chối. 27 Vua liền sai một đao phủ, truyền đem đầu Giăng đến. Người ấy vào ngục chém đầu Giăng, 28 rồi để đầu trên mâm mà đem cho cô gái, và cô gái trao lại cho mẹ. 29 Hay tin ấy, các môn đệ của Giăng đến lấy thi hài người về chôn cất.

Chúa Hóa Bánh Cho Năm Ngàn Người Ăn(D)

30 Các sứ đồ nhóm họp cùng Đức Giê-su và tường trình cho Ngài mọi điều họ đã thực hiện và dạy. 31 Ngài bảo họ rằng: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút.” Vì kẻ đi người lại đông đúc, đến nỗi họ không có thì giờ ăn uống.

32 Ngài và các môn đệ lên thuyền đi đến một nơi thanh vắng. 33 Nhiều người thấy vậy và nhận biết chỗ đó nên từ các thành thị kéo nhau chạy bộ tới trước. 34 Vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy đoàn dân đông đúc thì động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy họ nhiều điều.

35 Trời đã xế chiều, các môn đệ đến thưa với Ngài rằng: “Đây là nơi vắng vẻ và đã gần tối, 36 xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng xóm quanh đây mua gì để ăn.”

37 Nhưng Ngài đáp: “Chính các con hãy cho họ ăn.” Môn đệ thưa: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng đê-na-ri[c] bánh cho họ ăn sao?”

38 Ngài bảo: “Các con đi xem thử ở đây có bao nhiêu bánh?” Khi đã xem xét xong, họ thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá.”

39 Ngài truyền cho các môn đệ bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống từng nhóm, nhóm thì một trăm, nhóm thì năm mươi. 41 Đức Giê-su cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi bẻ bánh đưa cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng, Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn no nê. 43 Bánh và cá còn thừa đựng đầy mười hai giỏ. 44 Trong số người ăn có khoảng năm ngàn người đàn ông.

Chúa Đi Trên Mặt Biển(E)

45 Đức Giê-su liền truyền cho các môn đệ lên thuyền, qua phía thành Bết-sai-đa trước, rồi Ngài giải tán dân chúng. 46 Khi họ đã ra về, Ngài lên núi cầu nguyện.

47 Tối đến, thuyền ra giữa biển, còn một mình Ngài trên bờ. 48 Ngài thấy các môn đệ chèo chống vất vả vì gió ngược. Khoảng bốn giờ sáng đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến cùng họ và định vượt qua họ. 49 Các môn đệ thấy Ngài đi trên mặt biển thì tưởng là ma nên kêu la thất thanh, 50 vì ai nấy đều trông thấy và hoảng sợ.

Nhưng Ngài liền bảo họ: “Hãy yên tâm, Ta đây, đừng sợ!” 51 Ngài vừa bước lên thuyền với họ thì gió lặng yên. Mọi người đều kinh ngạc, 52 vì họ vẫn không hiểu phép lạ hóa bánh và lòng họ còn cứng cỏi.

Chúa Chữa Bệnh Tại Ghê-nê-sa-rết(F)

53 Qua bờ bên kia, Đức Giê-su và các môn đệ cặp bến Ghê-nê-sa-rết. 54 Vừa ra khỏi thuyền, dân chúng đã nhận biết Ngài. 55 Họ chạy ngược xuôi khắp vùng, hễ nghe Ngài ở đâu thì khiêng những người bệnh nằm trên cáng đến đó. 56 Bất cứ nơi nào Ngài đến, dù làng mạc, thành phố hay thôn quê, người ta đều đem người bệnh lại các khu họp chợ và nài xin Ngài cho họ chỉ sờ vào gấu áo Ngài. Bao nhiêu người sờ đến Ngài, đều được lành cả.

Gióp 2

Sa-tan Thách Đức Chúa Trời Thử Gióp Lần Thứ Hai

Một ngày kia, các thiên thần đến chầu CHÚA. Sa-tan cùng đến với chúng chầu CHÚA. CHÚA hỏi Sa-tan: “Ngươi từ đâu đến?” Sa-tan đáp lời CHÚA: “Tôi đi quan sát đây đó, qua lại khắp nơi trên trái đất.” CHÚA hỏi Sa-tan: “Ngươi có để ý Gióp, tôi tớ Ta không? Khắp thế giới không ai bằng Gióp, một người trọn lành và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và xa lánh điều ác. Hơn nữa, Gióp vẫn giữ được sự trọn lành, dù ngươi có xin Ta hại người vô cớ.” Sa-tan đáp lời CHÚA: “Da đền da. Người ta sẽ giao mọi sự mình có để đổi lấy mạng sống. Xin Chúa đưa tay ra hại đến chính xương thịt Gióp, chắc chắn ông sẽ nguyền rủa Chúa ra mặt!” Vậy CHÚA bảo Sa-tan: “Này, ngươi được quyền hại Gióp, nhưng ngươi không được đụng đến mạng sống người.”

Gióp Chịu Thử Thách Lần Thứ Hai

Sa-tan lui ra khỏi sự hiện diện của CHÚA và gây cho Gióp bị ung nhọt nhức nhối từ lòng bàn chân đến đỉnh đầu. Bấy giờ Gióp đang ngồi giữa đống tro. Gióp lượm một miếng sành để gãi mình. Vợ Gióp nói: “Ông vẫn giữ được sự trọn lành sao? Sao ông không nguyền rủa Đức Chúa Trời rồi chết đi?” 10 Nhưng Gióp đáp: “Bà nói như một người đàn bà ngu muội. Ơn phước Đức Chúa Trời ban, chúng ta nhận; còn tai họa, lẽ nào chúng ta không nhận?”

Trong mọi việc ấy, Gióp không hề nói phạm đến Đức Chúa Trời.

Ba Bạn Của Gióp Đến Chia Buồn Với Ông

11 Ba bạn của Gióp nghe tin ông bị tất cả những tai họa ấy. Họ hẹn nhau mỗi người từ quê mình cùng đến chia buồn với Gióp và an ủi ông. Ba bạn đó là Ê-li-pha người Thê-man, Binh-đát người Su-a, và Sô-pha người Na-a-ma. 12 Từ xa, họ ngước mắt lên, nhìn thấy Gióp, nhưng họ không nhận ra ông. Họ liền khóc lớn tiếng, mỗi người xé áo mình, hất bụi đất lên trời, và rải trên đầu mình. 13 Họ ngồi bệt xuống đất với Gióp suốt bảy ngày bảy đêm; không ai nói với ông một lời nào, vì họ thấy ông đau đớn quá nhiều.

Rô-ma 6

Chết Đối Với Tội Lỗi Và Sống Trong Chúa

Vậy chúng ta sẽ nói gì? Chúng ta cứ tiếp tục sống trong tội lỗi để ân sủng được dư dật sao? Không thể như vậy được. Chúng ta là những người đã chết đối với tội lỗi thì làm sao chúng ta lại cứ sống trong tội lỗi nữa? Anh chị em không biết rằng tất cả chúng ta đã được báp-tem vào trong Chúa Cứu Thế Giê-su là chúng ta được báp-tem vào trong sự chết của Ngài sao? Vậy, qua Báp-tem chúng ta được chôn với Ngài vào trong sự chết, cho nên cũng như Chúa Cứu Thế nhờ vinh quang của Cha được từ chết sống lại thì chúng ta cũng có thể sống trong đời sống mới thể ấy.

Vì nếu chúng ta kết hợp với Ngài trong sự chết giống như sự chết của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết hợp với Ngài trong sự sống lại của Ngài. Chúng ta biết điều này: Con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài để con người tội lỗi bị diệt đi, chúng ta không còn nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai chết rồi thì được thoát khỏi tội lỗi.

Nhưng nếu chúng ta cùng chết với Chúa Cứu Thế thì chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ sống với Ngài. Chúng ta biết rằng Chúa Cứu Thế đã từ chết sống lại, Ngài không còn chết nữa, sự chết không còn cai trị trên Ngài. 10 Bởi vì Ngài chết là chết cho tội lỗi một lần đầy đủ cả, nhưng Ngài sống là sống cho Đức Chúa Trời.

11 Vậy anh chị em cũng hãy coi mình thật sự chết đối với tội lỗi, và sống là sống cho Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su.

12 Vì thế đừng để cho tội lỗi thống trị trên thân thể hay chết của anh chị em khiến anh chị em phải tuân theo dục vọng của nó. 13 Đừng hiến chi thể anh chị em làm đồ dùng bất chính cho tội lỗi nữa, nhưng hãy hiến chính mình anh chị em cho Đức Chúa Trời như một người từ chết sống lại, và dâng chi thể anh chị em làm đồ dùng công chính cho Đức Chúa Trời. 14 Vì tội lỗi sẽ không còn thống trị anh chị em, bởi anh chị em không ở dưới Kinh Luật nhưng ở dưới ân sủng.

Nô Lệ Cho Sự Công Chính

15 Vậy thì sao? Chúng ta có thể cứ phạm tội bởi vì chúng ta không ở dưới Kinh Luật mà ở dưới ân sủng phải không? Không thể như vậy được. 16 Anh chị em không biết rằng anh chị em hiến mình làm nô lệ vâng phục ai thì anh chị em là nô lệ cho người mà anh chị em vâng phục sao? Hoặc nô lệ cho tội lỗi thì dẫn đến sự chết, hoặc cho sự vâng phục để đưa đến sự công chính sao? 17 Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, trước kia anh chị em là nô lệ cho tội lỗi nhưng anh chị em đã thành tâm vâng phục mẫu mực giáo huấn đã ký thác cho anh chị em, 18 được giải thoát khỏi tội lỗi anh chị em trở thành nô lệ cho sự công chính.

19 Tôi nói theo cách loài người bởi vì xác thịt yếu đuối của anh chị em. Anh chị em đã từng hiến chi thể mình làm nô lệ cho sự nhơ nhuốc, tội ác thêm tội ác thể nào thì bây giờ hãy hiến chi thể mình làm nô lệ cho sự công chính để được thánh hóa thể ấy.

20 Bởi vì khi anh chị em là nô lệ cho tội lỗi thì anh chị em được tự do đối với sự công chính. 21 Và bấy giờ anh chị em đã nhận được thành quả gì? Thành quả mà hiện nay anh chị em hổ thẹn. Vì cuối cùng của những điều đó là sự chết. 22 Nhưng bây giờ anh chị em đã được giải phóng khỏi tội lỗi và trở nên nô lệ cho Đức Chúa Trời thì thành quả anh chị em đạt được đưa đến thánh hóa, và chung cuộc là sự sống vĩnh phúc. 23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là sự sống vĩnh phúc trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)