M’Cheyne Bible Reading Plan
Dòng Dõi Ru-bên
5 Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, vì người là trưởng nam nhưng đã làm ô uế giường của cha mình nên quyền trưởng nam của người bị trao cho các con của Giô-sép, con trai của Y-sơ-ra-ên; vì vậy người không được ghi trong gia phả như là trưởng nam. 2 Mặc dù Giu-đa hùng mạnh hơn các anh em mình và một nhà lãnh đạo ra từ người nhưng quyền trưởng nam thuộc về Giô-sép. 3 Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên là:
Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi.
4 Con trai của Giô-ên là:
Sê-ma-gia; con trai của Sê-ma-gia là Gót;
con trai của Gót là Si-mê-i; 5 con trai của Si-mê-i là Mi-ca;
con trai của Mi-ca là Rê-a-gia, con trai của Rê-a-gia là Ba-anh;
6 con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, người bị Tiếc-lác Phin-nê-se, vua A-si-ri bắt đi lưu đày, người là nhà lãnh đạo của bộ tộc Ru-bên.
7 Anh em của Bê-ê-ra theo họ hàng được liệt kê trong gia phả của dòng họ là:
Giê-i-ên, trưởng tộc, Xa-cha-ri, 8 Bê-la, con trai A-xa, cháu Sê-ma, chắt Giô-ên. Bê-la cư ngụ tại A-rô-e, cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn; 9 về phía đông người cư ngụ từ bờ sa mạc đến sông Ơ-phơ-rát vì bày súc vật của người tăng gia rất nhiều trong xứ Ga-la-át. 10 Trong thời vua Sau-lơ, họ tranh chiến với dân Ha-ga-rít và đánh bại chúng rồi cư ngụ trong khắp vùng của chúng ở phía đông Ga-la-át.
Dòng Dõi Gát
11 Các con trai của Gát cư ngụ đối diện với họ trong xứ Ba-san cho đến Sanh-ca.
12 Giô-ên là trưởng tộc, Sa-pham là phó rồi đến Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.
13 Họ hàng theo tông tộc gồm có bảy người: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be; 14 những người này là con cháu của A-bi-hai, A-bi-hai con của Hu-ri, Hu-ri con của Gia-ô-ra, Gia-rô-a con của Ga-la-át, Ga-la-át con của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con của Giê-si-sai, Giê-si-sai con của Giác-đô, Giác-đô con của Bu-xơ; 15 A-hi con của Áp-đi-ên, Áp-đi-ên con của Gu-ni; A-hi là trưởng tộc.
16 Những người này cư ngụ tại Ga-la-át, Ba-san, các làng của họ và trong mọi đồng cỏ của Sa-rôn, đến tận ranh giới nó.
17 Tất cả những người này đều được chép trong gia phả vào thời vua Giô-tham nước Giu-đa và thời vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên.
18 Những người Ru-bên, người Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se, là những người khỏe mạnh, biết sử dụng khiên, gươm, cung, thạo việc chinh chiến; có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người sẵn sàng để chiến đấu. 19 Họ giao chiến với dân Ha-ga-rít, dân Giê-tua, dân Na-phi và dân Nô-đáp. 20 Họ được giúp đỡ trong khi chiến đấu và dân Ha-ga-rít cùng những người theo chúng bị thua vì họ đã cầu khẩn Đức Chúa Trời trong khi chiến đấu và Ngài đáp lời họ vì họ tin cậy Ngài. 21 Họ bắt đi bày súc vật của người Ha-ga-rít: 50,000 lạc đà, 250,000 chiên, 2,000 lừa và 100,000 người; 22 Cũng có nhiều người chết vì Đức Chúa Trời chiến đấu trong trận chiến này. Họ cư ngụ thay vào chỗ đó cho đến khi bị lưu đày.
23 Người của nửa bộ tộc Ma-na-se rất đông, họ cư ngụ trong vùng từ Ba-san cho đến Ba-anh Hẹt-môn, Sê-nia và núi Hẹt-môn. 24 Đây là các tộc trưởng của họ: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Ách-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via và Giắt-đi-ên; họ là những trưởng tộc, dũng sĩ, can đảm và danh tiếng. 25 Nhưng chúng bất trung với Đức Chúa Trời của tổ tiên mình, chúng đi theo các thần của dân bản địa mà Đức Chúa Trời đã hủy diệt trước mặt chúng; 26 Nên Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên thúc đẩy tinh thần vua Phun của A-si-ri, vua Tiếc-lác Phin-nê-se của A-si-ri bắt dân Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se lưu đày sang Ha-la, Cha-bo, Ha-ra và vùng sông Gô-sen cho đến ngày nay.
Dòng Dõi Lê-vi
6 Các con trai của Lê-vi là:
Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.
2 Các con trai của Kê-hát là:
Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.
3 Các con của Am-ram là:
A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am;
các con trai của A-rôn là:
Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
4 Ê-lê-a-sa sinh Phi-nê-a;
Phi-nê-a sinh A-bi-sua.
5 A-bi-sua sinh Bu-ki;
Bu-ki sinh U-xi.
6 U-xi sinh Xê-ra-hi-gia;
Xê-ra-hi-gia sinh Ma-ra-giốt;
7 Mê-ra-giốt sinh A-ma-ria;
A-ma-ria sinh A-hi-túp;
8 A-hi-túp sinh Xa-đốc;
Xa-đốc sinh A-hi-ma-ách;
9 A-hi-ma-ách sinh A-xa-ria;
A-xa-ria sinh Giô-ha-nan; 10 Giô-ha-nan sinh A-xa-ria, người là thầy tế lễ trong đền thờ vua Sa-lô-môn đã xây tại Giê-ru-sa-lem.
11 A-xa-ria sinh A-ma-ria;
A-ma-ria sinh A-hi-túp;
12 A-hi-túp sinh Xa-đốc;
Xa-đốc sinh Sa-lum;
13 Sa-lum sinh Hinh-kia;
Hinh-kia sinh A-xa-ria;
14 A-xa-ria sinh Sê-ra-gia;
Sê-ra-gia sinh Giê-hô-gia-đát;
15 Giê-hô-gia-đát bị đi lưu đày khi CHÚA trao Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vào tay Nê-bu-cát-nết-sa.
16 Các con trai của Lê-vi là
Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri;
17 Đây là tên các con trai của Ghẹt-sôn:
Líp-ni và Si-mê-i.
18 Các con trai của Kê-hát
là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.
19 Các con trai của Mê-ra-ri là:
Mách-li và Mu-si.
Ấy là họ hàng dòng Lê-vi theo tông tộc mình.
20 Con trai của Ghẹt-sôn là:
Líp-ni; con trai của Líp-ni là Gia-hát;
con trai của Gia-hát là Xim-ma;
con trai của Xim-ma là Giô-a;
21 con trai Giô-a là Y-đô;
con trai Y-đô là Xê-ra;
con trai Xê-ra là Giê-a-trai.
22 Con cháu của Kê-hát là:
A-mi-na-đáp; con trai của A-mi-na-đáp là Cô-rê;
con trai của Cô-rê là Át-si; con trai của Át-si là Ên-ca-na;
23 con trai của Ên-ca-na là Ê-bi-a-sáp; con trai của Ê-bi-a-sáp là Át-si;
24 con trai của Át-si là Ta-hát; con trai của Ta-hát là U-ri-ên;
con trai của U-ri-ên là U-xi-gia; con trai của U-xi-gia là Sau-lơ.
25 Con cháu của Ên-ca-na là:
A-ma-sai và A-hi-mốt;
26 Về Ên-ca-na, con trai của Ên-ca-na là Xô-phai;
con trai của Xô-phai là Na-hát; 27 con trai của Na-hát là Ê-li-áp;
con trai Ê-li-háp là Giê-rô-ham; con trai của Giê-rô-ham là Ên-ca-na
và con trai của Ên-ca-na là Sa-mu-ên.
28 Các con trai của Sa-mu-ên là:
Va-sê-ni, con trưởng nam, con thứ là A-bi-gia.
29 Con cháu của Mê-ra-ri là:
Mách-li; con trai Mách-li là Líp-ni;
con trai của Líp-ni là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là U-xa;
30 con trai của U-xa là Si-mê-a; con trai của Si-mê-a là Ha-ghi-gia;
con trai của Ha-ghi-gia là A-sai-gia.
31 Đây là những người vua Đa-vít cử ra đặt trách về việc ca hát trong đền của CHÚA sau khi Rương Giao Ước đặt ở đó. 32 Họ phục vụ trong việc ca hát trước đền tạm, tức là Trại Hội Kiến, cho đến khi Sa-lô-môn xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Họ thi hành phận sự theo các quy luật đã định.
33 Đây là những người phục vụ cùng con cháu họ:
Con cháu Kê-hát là:
Hê-man, một ca sĩ,
con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của Sa-mu-ên;
34 Sa-mu-ên là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giê-rô-ham;
Giê-rô-ham là con trai của Ê-li-ên; Ê-li-ên là con trai của Thô-a;
35 Thô-a là con trai của Xu-phơ; Xu-phơ là con trai của Ên-ca-na;
Ên-ca-na là con trai của Ma-hát; Ma-hát là con trai của A-ma-sai;
36 A-ma-sai là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giô-ên;
Giô-ên là con trai của A-xa-ria; A-xa-ria là con trai của Xô-phô-ni;
37 Xô-phô-ni là con trai của Ta-hát; Ta-hát là con trai của Át-si;
Át-si là con trai của Ê-bi-a-sáp; Ê-bi-a-sáp là con trai của Cô-rê;
38 Cô-rê là con trai của Dít-sê-ha; Dít-sê-ha là con trai của Kê-hát;
Kê-hát là con trai của Lê-vi; Lê-vi là con trai của Y-sơ-ra-ên.
39 Anh em của Hê-man là A-sáp, phục vụ bên phải người.
A-sáp là con trai của Bê-rê-kia; Bê-rê-kia là con trai của Si-mê-a;
40 Si-mê-a là con trai của Mi-ca-ên; Mi-ca-ên là con trai của Ba-sê-gia;
Ba-sê-gia là con trai của Manh-ki-gia; 41 Manh-ki-gia là con trai của Ét-ni;
Ét-ni là con trai của Xê-ra; Xê-ra là con trai của A-đa-gia;
42 A-đa-gia là con trai của Ê-than; Ê-than là con trai của Xim-ma;
Xim-ma là con trai của Si-mê-i; 43 Si-mê-i là con trai của Gia-hát;
Gia-hát là con trai của Ghẹt-sôn; Ghẹt-sôn là con trai của Lê-vi.
44 Con cháu của Mê-ra-ri, anh em người phục vụ bên trái, là
Ê-than con trai của Ki-si, Ki-si con trai của Áp-đi,
Áp-đi con trai của Ma-lúc; 45 Ma-lúc con trai của Ha-sa-bia;
Ha-sa-bia con trai của A-ma-xia; A-ma-xia con trai của Hinh-kia;
46 Hinh-kia con trai của Am-si; Am-si con trai của Ba-ni;
Ba-ni con trai của Sê-me; 47 Sê-me con trai của Mách-li;
Mách-li con trai của Mu-si; Mu-si con trai của Mê-ra-ri;
Mê-ra-ri con trai của Lê-vi.
48 Những người Lê-vi anh em của chúng được giao cho mọi công việc phục vụ trong đền tạm, nhà của Đức Chúa Trời. 49 Nhưng A-rôn và con cháu người dâng tế lễ trên bàn thờ tế lễ thiêu hay trên bàn thờ dâng hương, làm mọi phận sự Nơi Chí Thánh và dâng tế lễ chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên, theo như mọi điều Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, đã truyền.
Dòng Dõi A-rôn
50 Đây là con cháu A-rôn:
Ê-lê-a-sa con trai của người; Phi-nê-a con trai của Ê-lê-a-sa;
A-bi-sua con trai của Phi-nê-a; 51 Bu-ki con trai của A-bi-sua;
U-xi con trai của Bu-ki; Xê-ra-hi-gia con trai của U-xi;
52 Mê-ra-giốt con trai của Xê-ra-hi-gia; A-ma-ria con trai của Mê-ra-giốt;
A-hi-túp con trai của A-ma-ria; 53 Xa-đốc con trai của A-hi-túp;
A-hi-ma-ách con trai của Xa-đốc.
54 Đây là những địa điểm định cư trong địa phận cho con cháu A-rôn theo họ hàng Kê-hát vì phần họ được bóc thăm trước.
55 Họ được ban cho Hếp-rôn trong phần đất của Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh. 56 Nhưng các cánh đồng trong thành và các làng thì ban cho Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê.
57 Con cháu A-rôn được ban cho các thành trú ẩn: Thành Hếp-rôn, Líp-na với các đồng cỏ của nó, Gia-tia và Ếch-tê-mô-a cùng các đồng cỏ của nó, 58 Hi-lên với các đồng cỏ của nó, Đê-bia cùng các đồng cỏ nó, 59 A-san và các đồng cỏ nó, Bết-sê-mết cùng các đồng cỏ nó; 60 từ bộ tộc Bên-gia-min họ được ban cho thành Ghê-ba và các đồng cỏ nó, A-lê-mết và các đồng cỏ nó, A-na-tốt và các đồng cỏ nó.
Tất cả là mười ba thành cho họ hàng chúng.
61 Con cháu còn lại của Kê-hát bắt thăm được mười thành từ dòng họ mình, từ nửa bộ tộc mình và nửa bộ tộc Ma-na-se.
62 Con cháu Ghẹt-sôn theo họ hàng được mười ba thành từ bộ tộc Y-sa-ca, bộ tộc A-se, bộ tộc Nép-ta-li và Ma-na-se trong vùng Ba-san.
63 Con cháu Mê-ra-ri theo họ hàng được mười hai thành từ bộ tộc Ru-bên, bộ tộc Gát và Sa-bu-luân.
64 Người Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành cùng với đồng cỏ của chúng. 65 Từ các bộ tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min họ được các thành kể trên.
66 Một số người thuộc họ Kê-hát được các thành trong bộ tộc Ép-ra-im;
67 Họ được ban cho các thành trú ẩn: Thành Si-chem với các đồng cỏ nó trên núi Ép-ra-im, Ghê-xe với các đồng cỏ nó, 68 Giốc-mê-am với các đồng cỏ nó, Bết-hô-rôn với các đồng cỏ nó, 69 A-gia-lôn với các đồng cỏ nó, Gát-rim-môn với các đồng cỏ nó; 70 Những người con cháu còn lại của dòng họ Kê-hát cũng được thành A-ne cùng các đồng cỏ nó và Bi-li-am cùng các đồng cỏ nó từ nửa bộ tộc Ma-na-se.
71 Con cháu Ghẹt-sôn
từ họ hàng của nửa bộ tộc Ma-na-se được Gô-lan trong vùng Ba-san và các đồng cỏ nó, Ách-ta-rốt với các đồng cỏ nó.
72 Từ bộ tộc Y-sa-ca
họ được Kê-đe với các đồng cỏ nó, Đô-bê-rát với các đồng cỏ nó, 73 Ra-mốt cùng các đồng cỏ nó, A-nem cùng các đồng cỏ nó.
74 Từ bộ tộc A-se
họ được Ma-sanh cùng các đồng cỏ nó, Áp-đôn cùng các đồng cỏ nó, Hu-cô cùng các đồng cỏ nó, 75 Rê-hốp cùng các đồng cỏ nó.
76 Từ bộ tộc Nép-ta-li
họ được Kê-đe trong vùng Ga-li-lê cùng với các đồng cỏ nó, Ham-môn cùng các đồng cỏ nó, Ki-ri-a-tha-im cùng các đồng cỏ nó.
77 Con cháu còn lại của Mê-ra-ri nhận được từ bộ tộc Sa-bu-luân thành Ri-mô-nô cùng các đồng cỏ nó, Tha-bô cùng các đồng cỏ nó.
78 Từ bộ tộc Ru-bên, phía bên kia sông Giô-đanh, tức phía đông sông Giô-đanh ở khoảng Giê-ri-cô họ được Bết-se trong sa mạc với các đồng cỏ nó, Gia-xa cùng các đồng cỏ nó, 79 Kê-đê-mốt với các đồng cỏ nó, Mê-phát với các đồng cỏ nó.
80 Từ bộ tộc Gát
họ được Ra-mốt ở vùng Ga-la-át với các đồng cỏ nó, Ma-ha-na-im với các đồng cỏ nó, 81 Hết-rôn với các đồng cỏ nó và Gia-ê-xe cùng các đồng cỏ nó.
Vai Trò Của Kinh Luật Môi-se
10 Kinh Luật chỉ là cái bóng của những việc tốt lành sắp đến, chứ không phải là thực thể của sự vật, nên chẳng bao giờ làm cho những người đến gần để thờ phượng được toàn hảo bằng cách cứ tiếp tục dâng cùng một thứ sinh tế năm này sang năm khác. 2 Nếu được, thì họ đã chấm dứt việc dâng tế lễ rồi, vì người thờ phượng tất đã được thanh tẩy một lần đủ cả, đâu còn ý thức mình có tội nữa! 3 Nhưng các tế lễ đó hằng năm nhắc nhở về tội lỗi, 4 vì không thể nào dùng huyết bò đực và dê đực mà cất bỏ tội lỗi được.
5 Vậy nên, khi vào trần gian, Chúa Cứu Thế đã tuyên bố:
“Chúa không muốn sinh tế, lễ vật
Nhưng đã chuẩn bị một thân thể cho tôi,
6 Chúa chẳng bằng lòng
Tế lễ thiêu hay sinh tế chuộc tội.
7 Bấy giờ, tôi nói: ‘Đây, tôi đến; trong Kinh Sách đã chép về tôi.’
Lạy Đức Chúa Trời, tôi đến để thực hành ý định của Ngài.”
8 Trước hết, Ngài nói Chúa không muốn cũng chẳng bằng lòng sinh tế, lễ vật, tế lễ thiêu, hay sinh tế chuộc tội, là những điều phải dâng hiến theo Kinh Luật. 9 Rồi Ngài tiếp: “Đây, tôi đến để thực hành ý định của Chúa.” Ngài dẹp bỏ điều trước để thiết lập điều sau. 10 Theo ý định ấy, chúng ta được thánh hóa nhờ sự dâng hiến thân thể của Chúa Cứu Thế Giê-su một lần đầy đủ tất cả.
11 Một bên, các thượng tế đứng phụng vụ ngày này qua ngày khác, dâng cùng một thứ sinh tế không có khả năng cất bỏ tội lỗi. 12 Bên kia, một Đấng dâng chỉ một sinh tế chuộc tội cho đến đời đời, rồi ngự trị bên phải Đức Chúa Trời. 13 Từ đó, Ngài chờ đợi cho đến khi các kẻ thù nghịch bị làm bệ dưới chân Ngài. 14 Vì dâng một tế lễ duy nhất, Ngài làm hoàn hảo vĩnh viễn những người được thánh hóa.
15 Đức Thánh Linh cũng xác chứng điều này với chúng ta, vì sau khi phán:
16 “Đây là giao ước Ta sẽ thiết lập với họ,
Sau thời kỳ đó, Chúa phán,
Ta sẽ đặt Kinh Luật ta trong lòng họ
Và ghi khắc vào tâm trí họ.”
17 Ngài tiếp:
“Ta sẽ chẳng bao giờ nhớ lại tội lỗi họ
Và các việc gian ác của họ nữa!”
18 Nơi nào tội lỗi đã được tha thứ, thì không còn dâng tế lễ đền tội nữa.
Lời Kêu Gọi Tiến Bước Trên Con Đường Đức Tin
19 Vậy, thưa anh chị em, vì chúng ta vững tâm bước vào Nơi Chí Thánh nhờ huyết Đức Giê-su, 20 qua con đường mới và sống mà Ngài đã mở xuyên qua bức màn, nghĩa là xuyên qua thân xác Ngài; 21 chúng ta lại có một vị thượng tế vĩ đại được lập lên trên Nhà của Đức Chúa Trời, 22 nên chúng ta hãy đến gần Chúa với lòng chân thành, trong niềm tin vững chắc, tấm lòng đã được tẩy sạch khỏi lương tâm ác, thân thể đã tắm rửa bằng nước tinh sạch. 23 Chúng ta hãy giữ vững không lay chuyển lời tuyên xưng về niềm hy vọng của chúng ta, vì Đấng đã hứa với chúng ta luôn luôn thành tín. 24 Chúng ta hãy lưu ý khích lệ nhau trong tình yêu thương và các việc lành. 25 Đừng bỏ sự nhóm họp với nhau như thói quen của vài người, nhưng hãy khuyến khích nhau; anh chị em nên làm như thế nhiều hơn khi thấy Ngày Chúa càng gần.
26 Sau khi nhận biết chân lý, nếu chúng ta còn cố ý phạm tội, thì không còn sinh tế nào chuộc tội được nữa, 27 Chỉ còn sợ sệt chờ đợi sự xét đoán và lửa hừng sắp thiêu đốt những kẻ chống nghịch. 28 Ai bất chấp luật Môi-se nếu có hai hay ba người chứng thì bị xử tử không thương xót. 29 Huống hồ kẻ chà đạp Con Đức Chúa Trời, coi thường huyết giao ước đã thánh hóa mình và xúc phạm Thánh Linh ban ân sủng, thì anh chị em tưởng kẻ ấy không đáng bị hình phạt nặng nề hơn sao? 30 Vì chúng ta biết Đấng đã phán: “Sự báo thù thuộc về Ta; chính Ta sẽ báo ứng,” lại bảo: “Chúa sẽ xét đoán dân Ngài.” 31 Sa vào tay Đức Chúa Trời Hằng Sống là một điều khủng khiếp!
32 Nhưng anh chị em hãy nhớ lại những ngày trước kia, khi mới được soi sáng, anh chị em đã kiên trì trong một cuộc chiến đấu lớn lao, nhiều đau khổ, 33 khi thì công khai chịu sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì chia sẻ nỗi niềm của những người gặp cảnh ngộ ấy. 34 Thật thế, anh chị em đã cùng chịu đau khổ với các tù nhân, vui mừng chấp nhận khi bị tịch thu tài sản vì biết rằng mình có tài sản tốt hơn và còn mãi.
35 Vậy, anh chị em đừng bỏ lòng tin tưởng chắc chắn của mình, là điều đem lại giải thưởng lớn. 36 Anh chị em cần kiên trì để sau khi làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, anh chị em sẽ hưởng được điều Ngài đã hứa. 37 Vì còn ít lâu, chỉ ít lâu thôi,
Thì Đấng ngự đến sẽ tới nơi, không trì hoãn.
38 Nhưng “người công chính của ta sẽ sống bởi đức tin,”
Nếu lui bước đi thì
Linh hồn ta chẳng vui về người.
39 Nhưng chúng ta không phải là những người chịu lui bước để rồi bị hư vong, nhưng là những người giữ đức tin để được sự sống.[a]
Kết Án Các Phụ Nữ Sống Xa Hoa Hưởng Thụ Trên Xương Máu Người Nghèo
4 Hãy lắng nghe lời này, Hỡi các bò cái Ba-san trên đồi Sa-ma-ri!
Các ngươi áp bức người nghèo, giày xéo người cùng khốn,
Các ngươi bảo chồng mình: “Hãy mang đến. Chúng ta hãy uống!”
2 CHÚA lấy chính sự thánh khiết Ngài mà thề:
“Này, trong những ngày đến,
Các ngươi sẽ bị giải đi bằng móc sắt,
Và con cháu các ngươi bằng móc câu,
Ai nấy trong các ngươi
3 Đều sẽ đi thẳng trước mặt mình
Qua những chỗ bị phá vỡ trên tường thành,
Và bị ném đến Hạt-môn,”
CHÚA phán vậy.
Y-sơ-ra-ên Ngoan Cố
4 “Hãy đến Bê-tên mà phạm tội,
Hãy xuống Ghinh-ganh mà phạm tội nhiều thêm.
Hãy dâng sinh tế mỗi buổi sáng,
Dâng phần mười cứ mỗi ba ngày.
5 Hãy đốt bánh có men dâng lễ cảm tạ,
Hãy rao to, hãy công bố các lễ vật tự nguyện.
Vì, hỡi dân Y-sơ-ra-ên,
Các ngươi vẫn ưa thích làm như vậy.”
CHÚA phán vậy.
6 “Ta đã giáng nạn đói
Xuống khắp các thành của các ngươi,
Làm cho mọi nơi các ngươi ở đều thiếu bánh;
Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta.”
CHÚA phán vậy.
7 “Chính Ta đã giữ mưa lại, không cho mưa xuống,
Trong khi còn ba tháng mới đến mùa gặt,
Và Ta đã cho mưa xuống thành này,
Nhưng không mưa xuống thành kia.
Ruộng này được mưa,
Còn ruộng kia không mưa lại khô héo.
8 Dân chúng từ hai ba thành đi lảo đảo đến thành kia tìm nước uống,
Nhưng không đã khát;
Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”
CHÚA phán vậy.
9 “Ta khiến gió nóng và sâu bọ
Phá hại mùa màng các ngươi.
Châu chấu thường xuyên ăn sạch
Vườn ăn trái, vườn nho,
Cây vả, và cây ô-liu của các ngươi;
Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”
CHÚA phán vậy.
10 “Ta sai dịch lệ hành hạ các ngươi
Như đã từng hành hạ Ai-cập.
Ta dùng gươm giết chết thanh niên các ngươi.
Ngựa chiến các ngươi bị bắt đi.
Ta khiến mùi hôi tanh từ đội quân các ngươi xông vào mũi các ngươi;
Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”
CHÚA phán vậy.
11 “Ta hủy diệt một số người trong các ngươi
Như Ta đã hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
Các ngươi khác nào que củi cháy lấy ra khỏi lửa;
Dù vậy, các ngươi vẫn không quay về với Ta,”
CHÚA phán vậy.
12 “Vì thế, hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ trừng phạt ngươi như vầy,
Vì Ta sẽ trừng phạt ngươi như vậy,
Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy chuẩn bị để gặp Đức Chúa Trời ngươi!”
13 Kìa, Đấng dựng nên núi
Và tạo ra gió,
Đấng tỏ cho loài người biết ý định Ngài,
Đấng biến rạng đông thành bóng tối,
Đấng bước đi trên các đỉnh cao trên đất,
Danh Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân!
Cả Vũ Trụ Ca Ngợi Đức Chúa Trời
148 Ha-lê-lu-gia!
Từ các tầng trời, hãy ca ngợi CHÚA;
Hãy ca ngợi Ngài trên các nơi cao.
2 Hỡi tất cả thiên sứ, hãy ca ngợi Ngài;
Hỡi cả thiên binh, hãy ca ngợi Ngài.
3 Hỡi mặt trời, mặt trăng, hãy ca ngợi Ngài;
Hỡi tất cả ngôi sao sáng, hãy ca ngợi Ngài.
4 Hỡi các tầng trời cao nhất,
Và nước trên các tầng trời, hãy ca ngợi Ngài;
5 Nguyện tất cả đều ca ngợi danh CHÚA
Vì cớ Ngài ra lệnh, chúng liền được tạo nên.
6 Ngài thiết lập chúng đến mãi mãi vô cùng;
Ngài đã ban quy luật thì không thể bị bãi bỏ được.
7 Hãy ca ngợi CHÚA;
Từ quả đất, các quái vật của biển và mọi vực sâu,
8 Lửa và mưa đá, tuyết và mây,
Bão tố vâng theo lệnh Ngài.
9 Các núi và mọi đồi,
Cây ăn trái và mọi cây tùng,
10 Thú rừng và mọi loài súc vật,
Loài bò sát và chim,
11 Các vua trên đất và tất cả các dân,
Các hoàng tử cùng tất cả những người lãnh đạo trên đất,
12 Các thanh niên cùng thiếu nữ,
Những cụ già và trẻ con;
13 Nguyện tất cả đều ca ngợi danh CHÚA,
Vì chỉ một mình danh Ngài được tôn cao;
Sự vinh hiển Ngài trổi cao hơn cả trời đất.
14 Ngài đã nâng chiếc sừng của dân Ngài lên;
Là sự ca ngợi của tất cả những người kính sợ Ngài;
Tức là dân Y-sơ-ra-ên, một dân thân mật với Ngài.
Ha-lê-lu-gia!
Bài Hát Ca Ngợi Chiến Thắng
149 Ha-lê-lu-gia!
Hãy hát một bài ca mới cho CHÚA;
Hãy hát ca ngợi Chúa giữa hội những người kính sợ Ngài.[a]
2 Nguyện Y-sơ-ra-ên vui vẻ trong Đấng Tạo Hóa mình;
Nguyện con dân Si-ôn vui mừng nơi Vua mình.
3 Nguyện chúng nó nhảy múa để ca ngợi danh Chúa;
Đánh trống cơm, khảy đàn hạc, hát ca ngợi Ngài.
4 Vì CHÚA vui lòng nơi con dân Ngài;
Ngài lấy sự cứu rỗi[b] trang sức cho những kẻ khiêm nhường.[c]
5 Nguyện những người kính sợ Chúa vui mừng trong vinh hạnh này;
Họ sẽ ca hát vui vẻ ngay trên giường mình[d]
6 Nguyện lời tung hô Đức Chúa Trời nơi miệng[e] họ;
Một thanh gươm hai lưỡi nơi tay họ;
7 Để trả thù các nước
Và trừng phạt các dân;
8 Để trói các vua chúng nó bằng xiềng
Và cột những kẻ quý tộc của họ bằng xích sắt;
9 Để thi hành án phạt đã ghi cho chúng.
Đây là sự vinh quang cho tất cả những người kính sợ CHÚA.
Ha-lê-lu-gia!
Ca Ngợi Chúa
150 Ha-lê-lu-gia!
Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời trong đền thánh Ngài;
Hãy ca ngợi Chúa quyền năng trong nơi cao cả Ngài.[f]
2 Hãy ca ngợi Chúa vì những việc quyền năng Ngài;
Hãy ca ngợi Chúa vì Ngài vô cùng vĩ đại.
3 Hãy dùng kèn để ca ngợi Chúa;
Hãy dùng đàn hạc, đàn lia mà ca ngợi Ngài.
4 Hãy đánh trống cơm, nhảy múa để ca ngợi Chúa;
Hãy khảy đàn, thổi sáo mà ca ngợi Ngài.
5 Hãy khua chiêng vang dội để ca ngợi Chúa;
Hãy đánh phèn la lớn tiếng mà ca ngợi Ngài.
6 Hỡi mọi loài sinh vật[g] hãy ca ngợi CHÚA.
Ha-lê-lu-gia!
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)