Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
2 Các Vua 19

Ê-xê-chia Tham Khảo Với I-sa

19 Khi vua Ê-xê-chia nghe những lời đó, vua xé áo mình, mặc vải gai, rồi đi vào đền thờ CHÚA. Vua sai Ê-li-a-kim, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và những thầy tế lễ trưởng thượng, mặc vải gai mà đến gặp tiên tri I-sa, con trai A-mốt. Họ nói với ông: “Vua Ê-xê-chia có nói như vầy: Ngày nay là ngày khốn quẫn, ngày bị trách phạt, và ngày tủi nhục. Các thai nhi đã đến ngày chào đời mà không có sức để sanh ra. Có lẽ CHÚA là Đức Chúa Trời của ông đã nghe thấu tất cả những lời của Ráp-sa-kê, là kẻ được vua A-si-ri, chủ hắn, sai đến để phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống; ước gì CHÚA là Đức Chúa Trời của ông sẽ quở phạt những kẻ nói những lời Ngài đã nghe. Vậy xin ông hãy dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại.”

Khi các tôi tớ của vua Ê-xê-chia đến với I-sa, Tiên tri I-sa nói với họ: “Hãy về nói với chủ các ngươi: ‘CHÚA phán như vầy: Đừng sợ vì những lời các ngươi đã nghe, tức những lời các tôi tớ của vua A-si-ri đã xúc phạm đến Ta. Chính Ta sẽ đặt một thần linh trong nó, để nó sẽ nghe tiếng đồn mà rút về xứ mình. Ta sẽ làm cho nó bị giết chết bằng gươm trong xứ của nó.’ ”

San-chê-ríp Hăm Dọa Ê-xê-chia

Ráp-sa-kê rút về và thấy vua của A-si-ri đang tấn công Líp-na, vì ông có nhận được tin rằng vua của ông đã rời khỏi La-chi.

Khi vua của A-si-ri nghe được tin báo về vua Tiệt-ha-ca của Ê-thi-ô-bi: “Kìa, vua ấy đang kéo quân ra chống lại vua,” thì vua sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia rằng: 10 “Hãy nói với Ê-xê-chia, vua của Giu-đa như vầy: Chớ để Đức Chúa Trời của ngươi là Đấng ngươi nhờ cậy lừa gạt ngươi khi nói rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không rơi vào tay vua A-si-ri đâu. 11 Kìa, hãy xem những gì vua A-si-ri đã làm cho mọi nước: tiêu diệt tất cả. Còn ngươi, ngươi sẽ thoát được sao? 12 Những thần của các dân mà tổ tiên ta đã tiêu diệt như dân Gô-dan, Ga-ran, Rê-xép, và dân Ê-đen ở Tê-la-sa có giải cứu được họ chăng? 13 Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, vua của Hê-na, và vua của I-va bây giờ ở đâu?”

Ê-xê-chia Cầu Nguyện

14 Khi Ê-xê-chia nhận được thư từ tay các sứ giả thì đọc, rồi vua đi lên đền thờ CHÚA và mở bức thư ấy ra trước mặt CHÚA. 15 Ê-xê-chia cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đang ngự trên các chê-ru-bim. Chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của tất cả các nước trên thế gian. Chính Ngài đã dựng nên trời và đất. 16 Xin nghiêng tai và nghe, CHÚA ôi. Xin mở mắt và nhìn, CHÚA ôi. Xin nghe những lời của San-chê-ríp đã gửi đến để nhục mạ Đức Chúa Trời hằng sống.

17 Lạy CHÚA, thật sự là San-chê-ríp, vua của A-si-ri có hủy diệt các nước và xứ sở của họ, 18 có ném các thần tượng của họ vô lửa, vì chúng chẳng phải là thần, mà chỉ là sản phẩm của bàn tay loài người, chỉ là gỗ và đá, cho nên chúng đã bị hủy diệt. 19 Nhưng bây giờ, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng con, con cầu xin Ngài, xin cứu chúng con khỏi tay của vua ấy, để mọi nước trên đất sẽ biết rằng chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời mà thôi, CHÚA ôi.”

20 Bấy giờ I-sa, con trai A-mốt, gửi lời đến nói với vua Ê-xê-chia rằng: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta có nghe lời cầu nguyện của ngươi về việc vua San-chê-ríp của A-si-ri. 21 Đây là lời của CHÚA đã phán về hắn:

Trinh nữ ở Si-ôn khinh dể ngươi, nhạo báng ngươi;
    Sau lưng ngươi, con gái ở Giê-ru-sa-lem lắc đầu.
22 Ngươi đã nhục mạ và khinh bỉ ai?
    Ngươi đã lên giọng
Và giương mắt kiêu căng với ai?
    Ngươi nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ấy à!
23 Ngươi đã dùng các sứ giả mà phỉ báng CHÚA,
    Ngươi nói rằng: ‘Với nhiều xe chiến mã,
Ta đã lên những đỉnh cao các núi,
    Ta đã lên tận những nơi chót vót của núi Li-ban;
Ta đã đốn hạ những cây bá hương cao nhất, và những cây tùng tốt nhất;
    Ta đã vào tới giữa rừng sâu, vào tận chốn rừng rậm thâm u.
24 Ta đã đào giếng, và uống nước nơi xứ lạ.
    Ta đã làm khô cạn các sông suối ở Ai-cập bằng gót bàn chân ta.’
25 Ngươi há không nghe rằng Ta đã định từ lâu rồi sao?
    Những gì Ta đã định từ thời thái cổ, giờ đây Ta cho thực hiện,
Đó là ngươi phải biến những thành trì kiên cố
    Thành những đống vụn hoang tàn.
26 Dân cư ở những nơi đó đều yếu nhược,
    Khiếp sợ và bối rối;
Họ trở nên như cây cỏ ngoài đồng,
    Như cỏ non mới mọc,
Như cỏ mọc trên mái nhà,
    Héo khô trước khi chưa kịp lớn.
27 Nhưng Ta biết ngươi,
    Ta biết lúc ngươi đứng dậy và khi ngươi ngồi xuống,
    Ta biết lúc ngươi đi ra và khi ngươi đi vào,
    Ta cũng biết ngươi lúc ngươi nổi giận nghịch lại Ta.
28 Vì ngươi đã nổi giận nghịch lại Ta,
    Những lời ngạo mạn của ngươi đã thấu đến tai Ta,
Nên Ta sẽ xỏ vòng vào lỗ mũi ngươi,
    Tra hàm thiếc vào miệng ngươi;
Ta sẽ bắt ngươi phải trở về
    Trên con đường mà ngươi đã ra đi.

29 Hỡi Ê-xê-chia, đây sẽ là một dấu hiệu cho ngươi:

Năm nay ngươi sẽ ăn hoa màu tự mọc,
    Năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc lên từ các hoa màu ấy,
Năm thứ ba ngươi sẽ gieo, gặt,
    Trồng vườn nho và ăn trái.
30 Những gì còn sót lại của Giu-đa
    Sẽ đâm rễ và đơm bông kết trái;
31 Vì từ Giê-ru-sa-lem những người sống sót sẽ tràn ra,
    Từ núi Si-ôn sẽ tuôn ra một dòng người thoát nạn.

Lòng nhiệt thành của CHÚA Vạn Quân sẽ làm như vậy.”

32 Vậy nên, CHÚA phán về vua của A-si-ri như vầy:

“Nó sẽ không vào được thành này,
    Nó sẽ không bắn một mũi tên vào thành,
Nó sẽ không núp sau thuẫn khiên mà xông tới,
    Nó sẽ không đắp lũy tấn công thành.
33 Nó đã đi tới bằng đường nào, thì cũng sẽ trở về bằng đường đó;
    Nó sẽ không vào được thành này, CHÚA phán vậy.
34 Vì Ta sẽ bảo vệ thành và cứu thành này,
    Vì cớ Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.”

San-chê-ríp Thất Bại Và Bị Giết

35 Ngay trong đêm đó, một thiên sứ của CHÚA đi ra và giết chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân A-si-ri. Đến sáng, người ta thức dậy thì chỉ thấy toàn là xác chết. 36 Vua San-chê-ríp của A-si-ri rút lui về và ở tại Ni-ni-ve.

37 Khi vua đang quỳ lạy trước thần của mình trong đền thờ của Nít-róc, thì hai con trai của vua là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se dùng gươm đâm vua chết, rồi bỏ trốn sang xứ A-ra-rát. Con trai vua là Ê-sa-ha-đôn lên ngôi kế vị.

Hê-bơ-rơ 1

Ngày xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần, nhiều cách. Đến những ngày cuối cùng này, Đức Chúa Trời lại phán dạy chúng ta bởi Đức Con mà Ngài đã lập lên kế thừa vạn vật; cũng qua Con ấy, Ngài đã sáng tạo vũ trụ. Con là phản ảnh của vinh quang Ngài, là hình ảnh trung thực của bản thể Ngài. Dùng lời quyền năng mình, Ngài duy trì vạn vật. Sau khi hoàn thành cuộc thanh tẩy tội lỗi, Con ngồi bên phải Đấng Tôn Nghiêm trên các tầng trời. Con Ngài cao quý hơn các thiên sứ, như danh của Con thừa hưởng cũng cao hơn danh của các thiên sứ vậy.

Vì có bao giờ một thiên sứ nào được Đức Chúa Trời bảo:

“Ngươi là Con Ta,
    Ngày nay ta đã sinh ngươi”

hoặc

“Ta sẽ làm Cha người
    Và người sẽ làm Con Ta.”

Lại nữa, khi đưa Con Trưởng Nam vào trần gian, Đức Chúa Trời phán:

“Tất cả các thiên sứ của Đức Chúa Trời hãy thờ lạy Con!”

Nói về thiên sứ, Ngài bảo:

“Ngài sáng tạo các thiên sứ như gió
    Và các đầy tớ Ngài như ngọn lửa”

Nhưng nói về Con, Ngài phán:

“Hỡi Đức Chúa Trời, Ngôi Ngài tồn tại đời đời,
    Vương trượng công chính là vương trượng của vương quốc Ngài.
Chúa yêu chuộng công chính và ghét vô đạo.
    Nên Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Chúa[a] đã xức dầu vui mừng cho Chúa,
    Đặt Chúa cao cả hơn các đồng bạn Ngài.”[b]

10 Đức Chúa Trời cũng phán:

“Chúa ơi, ban đầu Chúa xây nền móng cho quả đất,
    Các tầng trời là công trình của bàn tay Chúa.
11 Trời đất sẽ tiêu tan nhưng Chúa vẫn vĩnh hằng.
    Tất cả đều sẽ cũ mòn như chiếc áo.
12 Chúa sẽ cuốn chúng lại như chiếc áo choàng,
    Chúng sẽ thay đổi như y phục
Nhưng Chúa vẫn y nguyên,
    Các năm của Chúa không bao giờ cùng.”

13 Có bao giờ Đức Chúa Trời phán bảo một thiên sứ:

    “Con hãy ngồi bên phải Ta
Cho đến khi ta bắt các kẻ thù Con
    Làm bệ dưới chân Con?”

14 Không phải tất cả các thiên sứ là các thần phục vụ được sai đi hầu việc những người sẽ được thừa hưởng ơn cứu rỗi sao?

Ô-sê 12

12 Ép-ra-im ăn gió
    Và đuổi theo gió đông suốt ngày;
    Cảnh lừa dối và bạo ngược ngày càng gia tăng;
Chúng kết ước với A-si-ri,
    Mang dầu ô-liu triều cống Ai-cập.
CHÚA kết án Giu-đa,
    Ngài sẽ trừng phạt Gia-cốp y theo lối sống nó,
    Ngài sẽ báo trả nó tùy theo việc nó làm.
Trong bụng mẹ, nó nắm gót anh mình,[a]
    Đến thời trai tráng, nó đấu tranh với Đức Chúa Trời.
Nó vật lộn với thiên sứ và thắng cuộc,
    Nó khóc lóc và xin thiên sứ ban phước;
Đức Chúa Trời gặp Gia-cốp tại Bê-tên,
    Và phán dạy nó tại đó.
Ngài là CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,
    Danh đáng ghi nhớ của Ngài là CHÚA.
Về phần các ngươi, hãy trở về với Đức Chúa Trời mình.
    Hãy yêu thương nhau cách chân thành,
    Hãy cư xử với nhau theo công lý,
    Hãy luôn luôn trông đợi Đức Chúa Trời mình.
Con buôn dùng cân gian xảo,
    Thích bóc lột.
Ép-ra-im khoe khoang:
    ‘A! Ta giàu có rồi! Ta tạo được tài sản cho mình!
Trong mọi công lao khó nhọc của Ta,
    Chưa hề tìm thấy một vi phạm nào có thể gọi là tội ác.’[b]
Nhưng Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi,
    Ngay từ bên đất Ai-cập.
Ta sẽ cho các ngươi trở về sống trong lều trại,
    Như trong các ngày lễ Lều Tạm.
10 Ta đã phán dạy qua các tiên tri,
    Chính Ta đã ban cho thêm nhiều khải tượng,
    Và dùng ngụ ngôn dạy dỗ qua các tiên tri.
11 Dân Ga-la-át đầy tội ác,
    Chắc chắn chúng sẽ thành số không;
Dân Ghinh-ganh cúng tế bò đực.
    Ngay cả bàn thờ của chúng sẽ như đá chất thành đống
    Trên luống cày nơi đồng ruộng.
12 Thế rồi Gia-cốp trốn qua cánh đồng Sy-ri,
    Và Y-sơ-ra-ên làm thuê để cưới vợ,
    Chăn bầy gia súc mới được vợ.
13 CHÚA dùng một nhà tiên tri đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập,
    Ngài cũng dùng tiên tri chăn giữ nó.
14 Ép-ra-im đã chọc giận CHÚA cách cay đắng,
    Nên CHÚA sẽ bắt nó chịu tội đổ máu,
    Và lấy sự sỉ nhục báo trả cho nó.

Thánh Thi 135-136

Các Công Việc Vĩ Đại Của Chúa

135 Ha-lê-lu-gia!
Hãy ca ngợi danh CHÚA,
    Hỡi các tôi tớ của CHÚA, hãy ca ngợi.
Các ngươi là người phụng sự trong đền CHÚA,
    Trong sân Đức Chúa Trời chúng ta,
Hãy ca tụng CHÚA vì Ngài là thiện.
    Hãy hát lên ca Ngợi Danh Ngài vì Danh Ngài êm dịu.[a]
CHÚA đã chọn Gia-cốp cho Ngài
    Và chọn Y-sơ-ra-ên làm tài sản của mình.
Vì tôi biết rằng CHÚA là vĩ đại
    CHÚA chúng ta lớn hơn tất cả các thần.
CHÚA làm tất cả những gì đẹp lòng Ngài,
    Ngài làm những việc ở trên trời, dưới đất,
    Trên biển và trong tất cả vực sâu.
Ngài làm mây bay lên từ tận cùng quả đất;
    Ngài làm chớp nhoáng trong cơn mưa;
    Ngài khiến gió đến từ trong kho mình.
Đánh chết các con đầu lòng của người Ai-cập,
    Từ con loài người đến con loài thú.
Hỡi Ai-cập, Ngài đã làm dấu lạ, phép mầu ở giữa ngươi
    Để phạt Pha-ra-ôn cùng cả quần thần người.
10 Ngài đánh bại nhiều nước
    Và giết nhiều vua mạnh mẽ;
11 Như Si-hôn vua của người A-mô-rít,
    Óc, vua của Ba-san
    Cùng tất cả các vương quốc vùng Ca-na-an;
12 Và Ngài ban đất ấy cho Y-sơ-ra-ên, dân của Ngài,
    Làm sản nghiệp.
13 Lạy CHÚA, Danh Ngài tồn tại đời đời;
    Lạy CHÚA, Danh tiếng Ngài sẽ được ghi nhớ từ đời nọ đến đời kia.
14 CHÚA sẽ bào chữa cho dân Ngài
    Và tỏ lòng thương xót các tôi tớ Chúa.
15 Những tượng thần của các nước làm bằng bạc và vàng;
    Là sản phẩm của tay người;
16 Chúng có miệng nhưng không nói được;
    Có mắt nhưng không thấy;
17 Có tai nhưng không nghe
    Và cũng chẳng có hơi thở trong miệng.
18 Những kẻ tạo nên các tượng thần
    Cùng tất cả những kẻ tin cậy các tượng ấy đều sẽ giống như chúng.
19 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy ca tụng CHÚA,
    Hỡi nhà A-rôn, hãy ca tụng CHÚA;
20 Hỡi nhà Lê-vi, hãy ca tụng CHÚA,
    Hỡi những người kính sợ CHÚA, hãy ca tụng Ngài.
21 Hãy ca tụng CHÚA, Đấng từ Si-ôn,
    Đấng ngự tại Giê-ru-sa-lem.
Ha-lê-lu-gia!

Bài Ca Cảm Tạ

136 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Hãy cảm tạ CHÚA của các chúa;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Chỉ một mình Ngài đã làm những phép lạ lớn lao;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Bởi sự hiểu biết, Ngài đã tạo ra các tầng trời;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Ngài trải đất ra trên nước;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Ngài tạo ra các nguồn sáng lớn;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Mặt trời cai trị ban ngày;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Mặt trăng và các ngôi sao cai trị ban đêm;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
10 Ngài đã đánh chết các con đầu lòng của người Ai-cập;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
11 Và đem người Y-sơ-ra-ên ra khỏi vòng dân ấy;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
12 Với bàn tay mạnh mẽ và cánh tay giương ra;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
13 Ngài rẽ đôi Biển Đỏ;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
14 Đem Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển ấy;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
15 Nhưng Ngài đánh đổ Pha-ra-ôn và đạo binh người xuống Biển Đỏ;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
16 Ngài đã dẫn dân Ngài đi qua sa mạc;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
17 Ngài đã đánh bại các vua lớn;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
18 Ngài giết chết các vua danh tiếng;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
19 Như Si-hôn, vua của người A-mô-rít;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
20 Óc, vua của Ba-san;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
21 Ngài ban đất của chúng nó cho dân Ngài làm sản nghiệp;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
22 Tức là sản nghiệp cho Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
23 Ngài nhớ đến sự thấp hèn của chúng tôi;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
24 Ngài giải cứu chúng tôi khỏi các kẻ thù;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
25 Ngài ban thực phẩm cho mọi sinh vật;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
26 Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời trên trời;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)