Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Xuất Hành 29

Biệt Riêng Ra Thánh Các Thầy Tế Lễ

29 Đây là điều con phải làm để biệt riêng ra thánh cho họ, để cho họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ: bắt một con bò đực tơ và hai con cừu đực không khuyết tật, dùng bột mì mịn nhưng không dùng men, để làm bánh lạt, bánh ngọt pha dầu và bánh kẹp tẩm dầu. Để các bánh này vào một cái giỏ để dâng cùng với con bò và hai con cừu. Sau đó con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước tắm rửa họ. Lấy bộ áo lễ gồm có áo dài, áo khoác ngoài ê-phót, cái ê-phót và bảng đeo ngực để mặc cho A-rôn. Dùng đai thắt lưng đã được dệt cách khéo léo để giữ ê-phót cho chặt. Lấy khăn đội đầu đội lên đầu người và gắn cái thẻ thánh lên khăn. Lấy dầu xức cho người bằng cách đổ dầu lên đầu. Cũng mặc áo dài cho các con trai A-rôn, đội khăn lên đầu họ. Sau đó lấy dây thắt lưng thắt cho A-rôn và các con trai người. Họ sẽ giữ chức vụ tế lễ theo một mạng lệnh đời đời. Đó là cách con biệt riêng ra thánh cho A-rôn và các con trai người.

10 Dắt con bò đực đến trước Trại Hội Kiến, rồi A-rôn và các con trai sẽ đặt tay trên đầu con bò. 11 Giết con bò trước sự hiện diện của CHÚA tại cửa vào Trại Hội Kiến. 12 Con lấy ngón tay, nhúng vào huyết bò và bôi lên các sừng bàn thờ và đổ phần huyết còn lại nơi chân bàn thờ. 13 Lấy hết mỡ bọc ruột, mỡ bọc gan, hai quả thận với mỡ bọc quanh đem đốt trên bàn thờ. 14 Nhưng thịt, da và phân bò phải đem đốt bên ngoài trại quân. Đó là tế lễ chuộc tội.

15 Dắt một con cừu đực đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. 16 Giết cừu và lấy huyết cừu rảy khắp xung quanh bàn thờ. 17 Chặt cừu ra từng miếng; rửa bộ lòng và chân rồi đem để chung với đầu và các miếng khác. 18 Sau đó đem đốt cả con cừu trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, một tế lễ có mùi thơm, dùng lửa dâng cho CHÚA.

19 Dắt con cừu thứ hai đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. 20 Giết cừu, lấy huyết cừu bôi lên trái tai bên phải, trên ngón cái bàn tay phải và trên ngón cái bàn chân phải của A-rôn và của các con trai người. Rồi lấy huyết cừu rảy khắp các phía của bàn thờ. 21 Lấy một ít huyết trên bàn thờ trộn với một ít dầu xức, đem rảy trên A-rôn và trên quần áo người, trên các con trai A-rôn và trên quần áo họ. Như vậy A-rôn, các con trai người với quần áo của họ đều trở nên thánh.

22 Vì đây là con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, nên con lấy mỡ cừu, gồm cả mỡ đuôi và mỡ bọc bộ lòng, phần bọc lá gan, hai trái thận với mỡ bọc quanh, cái đùi phải; 23 cũng lấy trong giỏ bánh không men ở trước mặt CHÚA một ổ bánh, một bánh ngọt pha dầu và một bánh kẹp, 24 rồi đem đặt các món này vào tay A-rôn và tay các con trai người để họ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA, làm tế lễ đưa qua đưa lại. 25 Sau đó con lấy các món ấy từ tay họ và đem đốt trên bàn thờ cùng với tế lễ thiêu có mùi thơm dâng lên CHÚA, và là một tế lễ dùng lửa dâng cho CHÚA. 26 Sau khi con lấy cái ngực con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, đưa qua đưa lại cái ngực ấy trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại, rồi cái ngực đó sẽ thuộc phần con.

27 Con làm nên thánh các phần của con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, là các phần thuộc về A-rôn và các con trai người, tức là cái ức đã đưa qua đưa lại với cái đùi đã trình dâng. 28 Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến và được chia cho A-rôn và các con trai người. Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên đóng góp khi họ dâng tế lễ cầu an cho CHÚA.

29 Bộ áo thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho con cháu, để họ mặc khi được xức dầu và được tấn phong. 30 Người con trai kế vị A-rôn làm thầy tế lễ sẽ mặc bộ áo thánh này trong bảy ngày khi đến Trại Hội Kiến và thi hành chức vụ trong Nơi Thánh.

31 Đem con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh và nấu thịt nó trong một Nơi Thánh. 32 A-rôn và các con trai người phải ăn thịt con cừu đó với bánh trong giỏ tại cửa vào Trại Hội Kiến. 33 Họ phải ăn các món này là tế lễ chuộc tội và họ được phong chức và được biệt riêng ra thánh. Không một ai khác được ăn các món này, vì là thức ăn thánh. 34 Nếu thịt và bánh còn thừa đến sáng hôm sau, phải đem đốt hết và không được ăn, vì là các món thánh.

35 Con phải thực hiện cho A-rôn và các con trai người tất cả mọi điều Ta truyền bảo con và lễ tấn phong họ sẽ kéo dài trong bảy ngày. 36 Mỗi ngày phải dâng một con bò làm tế lễ chuộc tội. Làm cho bàn thờ tinh sạch bằng cách làm lễ chuộc tội, và thánh hóa bàn thờ bằng cách xức dầu. 37 Trong bảy ngày con làm lễ chuộc tội và thánh hóa bàn thờ. Sau đó bàn thờ sẽ trở nên rất thánh và bất cứ cái gì đụng đến bàn thờ đều trở nên thánh.

38 Đây là những thứ con phải thường xuyên dâng mỗi ngày trên bàn thờ: hai cừu con một tuổi. 39 Dâng một con vào buổi sáng và một con vào chạng vạng tối. 40 Cùng với con cừu thứ nhất, con dâng một phần mười ê-pha[a] bột mịn trộn với một phần tư hin[b] dầu ép từ trái ô-liu, và một phần tư hin rượu nho để làm lễ tưới rượu.[c] 41 Dâng con cừu thứ hai vào lúc chạng vạng tối, với tế lễ chay và lễ tưới rượu cũng giống như dâng vào buổi sáng: đó là tế lễ dùng lửa dâng có mùi thơm lên CHÚA.

42 Từ thế hệ này sang thế hệ khác, tế lễ thiêu phải được dâng thường xuyên tại cửa vào Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA. Tại đó Ta sẽ gặp và trò chuyện với con; 43 tại đó Ta cũng sẽ gặp dân Y-sơ-ra-ên và vinh quang Ta sẽ làm cho nơi này nên thánh.

44 Như vậy Ta sẽ thánh hóa Trại Hội Kiến và bàn thờ, cũng thánh hóa A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. 45 Ta sẽ ở giữa dân Y-sơ-ra-ên và sẽ là Đức Chúa Trời của họ. 46 Họ sẽ biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi Ai-cập để Ta có thể ở giữa họ. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ.

Giăng 8

Người Phụ Nữ Ngoại Tình

Trong khi đó Đức Giê-su lên núi Ô-liu. Lúc trời vừa sáng, Ngài trở vào đền thờ. Cả đoàn dân đều đến với Ngài và Ngài ngồi xuống dạy dỗ họ. Các giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si giải đến một người đàn bà ngoại tình bắt đứng giữa họ. Họ nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, nên chiếu theo luật Môi-se, những hạng đàn bà ấy phải bị ném đá xử tử, còn Thầy thì dạy thế nào?” Họ nói vậy cốt gài bẫy Chúa để có lý do cáo tội Ngài.

Nhưng Đức Giê-su cúi xuống, lấy ngón tay viết lên mặt đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài đứng lên bảo: “Người nào trong các ngươi chưa từng phạm tội, hãy ném đá người này trước đi!” Rồi Ngài lại cúi xuống viết lên mặt đất.

Nghe vậy, họ lần lượt bỏ đi từng người một, người cao tuổi đi trước, để Ngài ở lại một mình với người đàn bà đang đứng đó. 10 Đức Giê-su đứng lên hỏi: “Hỡi người nữ, những kẻ kiện cáo ngươi đâu cả rồi? Không ai kết tội ngươi sao?”

11 Người đàn bà trả lời: “Thưa ông, không ai cả!” Đức Giê-su bảo: “Ta cũng không kết tội ngươi đâu; hãy đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”

12 Đức Giê-su lại phán cùng họ rằng: “Ta là sự sáng của thế giới, người nào theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống.”

13 Những người Pha-ri-si bắt bẻ: “Chính ông tự làm chứng về mình, nên lời chứng đó không xác thực.”

14 Đức Giê-su đáp lại: “Cho dù Ta tự làm chứng về mình, lời chứng của Ta vẫn xác thực vì Ta biết mình từ đâu đến và đang về đâu; còn các ông không biết Ta từ đâu đến hay đang về đâu. 15 Chính các ông xét xử theo cách người phàm, còn Ta chẳng xét đoán ai. 16 Nhưng dù Ta có xét xử đi nữa thì sự xét xử của Ta vẫn xác thực, vì không phải một mình Ta, nhưng cùng với Cha là Đấng đã sai Ta đến. 17 Và như trong Kinh Luật của các ông có chép lời chứng của hai người là hợp lệ. 18 Chính Ta tự làm chứng cho Ta và Cha là Đấng đã sai Ta cũng làm chứng cho Ta nữa!”

19 Họ hỏi lại Ngài: “Cha của ông đâu?” Đức Giê-su đáp: “Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta, các ông hẳn đã biết Cha Ta rồi!” 20 Đức Giê-su nói những lời này đang khi dạy trong đền thờ, chỗ kho bạc; và không một ai bắt Ngài vì giờ của Ngài chưa đến.

21 Đức Giê-su lại bảo họ: “Chính Ta sẽ ra đi còn các ông sẽ tìm kiếm Ta, nhưng các ông sẽ chết trong tội lỗi mình. Các ông không thể đến được nơi Ta sắp đi!”

22 Thế là người Do Thái bảo nhau: “Liệu ông ấy sắp tự tử hay sao mà nói: Nơi Ta đi, các ngươi sẽ không thể nào đến được?”

23 Ngài giải thích: “Các ông xuất thân từ hạ giới, còn Ta từ thượng giới; các ông từ thế gian này mà ra, còn Ta thì không phải từ thế gian này. 24 Vậy Ta bảo các ông rằng các ông sẽ chết mất trong tội lỗi mình, vì nếu các ông không chịu tin Ta là Đấng Hằng Hữu, thì các ông sẽ chết mất trong tội lỗi mình!”

25 Họ thắc mắc: “Ông là ai?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đã chẳng từng bảo các ông từ lúc ban đầu sao? 26 Ta có nhiều điều để nói và xét xử các ông, nhưng vì Đấng đã sai Ta là chân thật, nên Ta chỉ cần thuật lại cho thế gian những gì Ta đã nghe nơi Ngài!”

27 Họ không hiểu Đức Giê-su đã nói về Chúa Cha cho họ. 28 Đức Giê-su tiếp lời: “Khi nào các ông treo Con Người lên, lúc ấy các ông mới biết rõ Ta chính là Đấng Hằng Hữu. Ta không tự mình làm một việc gì cả, nhưng chỉ truyền lại những gì Cha Ta đã dạy bảo Ta. 29 Và Đấng sai Ta lúc nào cũng ở với Ta; Ngài chẳng bao giờ bỏ Ta một mình, vì Ta luôn làm đẹp lòng Ngài.” 30 Khi Ngài nói những lời này, nhiều người tin theo Ngài.

31 Đức Giê-su bảo những người Do Thái vừa tin theo Ngài rằng: “Nếu các ngươi kiên trì trong đạo Ta dạy thì các ngươi mới thật là môn đệ của Ta. 32 Các ngươi sẽ hiểu biết chân lý và chính chân lý đó sẽ giải phóng các ngươi!”

33 Họ gạn hỏi Ngài: “Chúng tôi là dòng giống Áp-ra-ham, chưa từng làm nô lệ ai, sao Thầy lại bảo chúng tôi sẽ được giải phóng?”

34 Đức Giê-su đáp lại: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Người nào phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. 35 Làm thân nô lệ thì không ở đời trong nhà, làm con mới được ở luôn! 36 Vậy, nếu Đức Con giải phóng các ngươi, thì các ngươi mới thật sự được tự do. 37 Ta biết rõ các ngươi là dòng giống Áp-ra-ham, vậy mà các ngươi lại tìm cách giết Ta, chỉ vì lòng các ngươi không dành một chỗ nào cho đạo Ta cả! 38 Ta truyền lại những gì Ta thấy nơi Cha, còn các ngươi thì làm những gì nghe được nơi cha mình.”

39 Họ đáp: “Cha chúng tôi chính là Áp-ra-ham!” Đức Giê-su nói: “Nếu thật là con cháu Áp-ra-ham, các ngươi hẳn đã hành động như Áp-ra-ham rồi! 40 Đàng này các ngươi lại tìm cách giết Ta, người đã nói cho các ngươi sự thật nghe được từ Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham chẳng làm chuyện đó bao giờ! 41 Các ngươi thường làm những việc cha mình chuyên làm!” Họ cãi: “Chúng tôi đây sinh ra đâu phải là thứ con hoang. Cha duy nhất của chúng tôi là Đức Chúa Trời.”

42 Đức Giê-su tiếp: “Nếu Đức Chúa Trời thật là Cha của các ngươi, hẳn các ngươi đã yêu thương Ta vì chính Ta đã xuất thân từ Đức Chúa Trời và đang ở đây. Ta không tự mình đến đây nhưng chính Ngài đã sai Ta. 43 Tại sao Ta nói mà các ngươi không hiểu? Chỉ tại các ngươi không hiểu nổi đạo Ta! 44 Chính các ngươi xuất thân từ cha mình là quỷ vương và các ngươi làm theo dục vọng của cha mình. Từ ban đầu đến nay, hắn vẫn là tay giết người. Hắn không chịu đứng về phía sự thật, vì trong người hắn làm gì có sự thật! Khi hắn nói dối là hắn làm theo bản tính hắn, vì hắn chính là kẻ nói dối và là ông tổ của nói dối! 45 Còn Ta đây nói lên sự thật, thế mà các ngươi lại không chịu tin Ta. 46 Có ai trong vòng các ngươi vạch tội Ta được không? Ta nói sự thật mà các ngươi vẫn không tin Ta? 47 Người nào thuộc về Đức Chúa Trời thì nghe theo lời của Đức Chúa Trời. Sở dĩ các ngươi không nghe chỉ vì các ngươi không thuộc về Đức Chúa Trời.”

48 Mấy người Do Thái gạn hỏi: “Chúng tôi bảo ông chính là hạng người Sa-ma-ri và đang bị quỷ ám, không đúng sao?”

49 Đức Giê-su trả lời: “Ta đây chẳng có một quỷ nào ám cả mà chỉ đang suy tôn Cha Ta, còn các ngươi cứ nhục mạ Ta. 50 Chính Ta không tìm vinh quang cho riêng mình, đã có Đấng lo tìm và định liệu cho Ta. 51 Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết!”

52 Người Do Thái liền tiếp: “Bây giờ chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám thật rồi! Áp-ra-ham đã chết, các tiên tri của Chúa cũng không còn, vậy mà ông lại nói người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết. 53 Chẳng lẽ ông hơn cả tổ Áp-ra-ham của chúng ta và các tiên tri đã qua đời rồi sao? Ông tự cho mình là ai?”

54 Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta tự tôn vinh ta thì chẳng vinh quang gì! Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là Đấng các ngươi vẫn xưng tụng là Đức Chúa Trời của mình, 55 nhưng các ngươi có biết Ngài đâu, còn chính Ta mới thật biết Ngài! Nếu Ta bảo Ta không biết Ngài, thì Ta cũng dối trá như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài và vâng giữ đạo Ngài. 56 Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươi từng hớn hở trông mong được thấy ngày của Ta, người đã thấy và mừng rỡ!”

57 Mấy người Do Thái nói với Ngài: “Ông chưa đầy năm mươi tuổi mà đã thấy Áp-ra-ham rồi sao?”

58 Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Trước khi có Áp-ra-ham Ta hằng hữu!”

59 Họ liền lượm đá để ném Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh mặt, rời khỏi đền thờ.

Châm Ngôn 5

Lời Khuyên Về Sự Cám Dỗ Tình Dục

Hỡi con ta, hãy chú ý đến sự khôn ngoan ta,
    Hãy lắng tai nghe sự sáng suốt của ta;
Để con nắm giữ sự thận trọng,
    Và môi con gìn giữ sự hiểu biết.
Vì môi của người đàn bà lạ[a] tiết ra mật ngọt;
    Miệng nó dịu ngọt hơn dầu.
Nhưng rốt cuộc đắng như ngải cứu,
    Sắc như gươm hai lưỡi.
Chân nó đi đến sự chết,
    Bước nó dẫn xuống Âm Phủ.
Nó không cân nhắc con đường sự sống,
    Đường lối nó lầm lạc mà nó không biết.
Hỡi các con ta, giờ đây hãy nghe ta;
    Chớ từ bỏ những lời của miệng ta.
Hãy giữ đường lối con cách xa nó;
    Chớ đến gần cửa nhà nó.
E rằng con sẽ tiêu phí danh dự[b] con cho những kẻ khác,
    Các năm tháng đời con cho kẻ bạo tàn;
10 E những người lạ sẽ hưởng trọn công sức của con,
    Và công lao con sẽ vào nhà người xa lạ.
11 Rốt cuộc con sẽ rên siết khi xác thịt
    Và thân thể tiêu mòn.
12 Bấy giờ con sẽ nói: “Sao tôi đã ghét sự giáo huấn;
    Lòng tôi đã khinh lời quở trách.
13 Tôi đã không vâng lời các thầy giáo;
    Tôi đã không lắng tai nghe những người dạy dỗ tôi.
14 Tôi gần như hoàn toàn bị hủy hoại
    Ở giữa buổi hội và dân chúng.”[c]
15 Hãy uống nước từ hồ chứa của con;
    Và nước chảy từ giếng của con;
16 Lẽ nào các nguồn nước của con chảy ra ngoài đường,
    Các dòng suối của con chảy ở nơi phố chợ?
17 Chúng thuộc về riêng con;
    Không thể chung với những người khác.
18 Nguyện nguồn nước của con được phước;
    Hãy vui thích với người vợ từ thuở thanh xuân;
19 Như con hươu đáng yêu, như con nai duyên dáng;[d]
    Nguyện ngực nàng làm con vui thỏa luôn luôn
    Và tình yêu nàng làm con say mê mãi mãi.
20 Hỡi con ta, tại sao con say mê người đàn bà lạ?
    Tại sao con ôm ấp người đàn bà xa lạ?
21 Vì các đường lối của người ta đều ở trước mắt CHÚA
    Và Ngài xem xét mọi lối đi của nó.
22 Kẻ ác sẽ bởi tội lỗi mình sập bẫy;
    Và bị các dây tội lỗi mình trói buộc.
23 Nó sẽ chết vì thiếu sự giáo huấn
    Và lầm lạc vì quá ngu dại.

Ga-la-ti 4

Dưới Kinh Luật Hay Trong Ân Sủng

Tôi muốn nói rằng: Bao lâu người thừa kế còn vị thành niên thì không khác gì một nô lệ dù người là chủ mọi tài sản; Người phải ở dưới quyền các giám hộ và quản lý cho đến ngày người cha đã định. Chúng ta cũng vậy, khi còn vị thành niên, chúng ta phải làm nô lệ cho các thần linh trong vũ trụ.[a] Nhưng đến đúng thời kỳ viên mãn Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến, do một người nữ sinh ra, sinh ra dưới Kinh Luật, để chuộc những người ở dưới Kinh Luật và để chúng ta nhận được ơn làm con nuôi. Vì anh chị em là con nên Đức Chúa Trời sai Thánh Linh của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: A-ba, Cha ơi! Như vậy, nhờ ơn Đức Chúa Trời anh chị em không còn là nô lệ nữa mà là con, nếu đã là con thì cũng là người thừa kế.[b]

Phao-lô Quan Tâm Đến Người Ga-la-ti

Trước kia, khi chưa biết Đức Chúa Trời anh chị em đã làm nô lệ cho những vị mà tự bản chất không phải là thần. Nhưng hiện nay, anh chị em đã biết Đức Chúa Trời, hay anh chị em đã được Đức Chúa Trời biết đến thì đúng hơn, sao còn quay trở lại với các thần hèn yếu, nghèo nàn kia,[c] anh chị em muốn làm nô lệ chúng một lần nữa sao? 10 Anh chị em còn giữ các ngày, tháng, mùa, năm ư? 11 Tôi lo sợ cho anh chị em, e rằng tôi đã lao lực luống công vô ích vì anh chị em.

12 Thưa anh chị em, tôi nài xin anh chị em, hãy trở nên giống như tôi vì tôi cũng như anh chị em. Anh chị em đã không làm hại gì tôi cả. 13 Anh chị em biết rằng qua sự đau yếu trong thân thể mà tôi đã truyền giảng Phúc Âm cho anh chị em lần đầu tiên. 14 Mặc dù tình trạng sức khỏe[d] của tôi là một thử thách cho anh chị em, anh chị em đã không khinh khi, không phỉ nhổ; trái lại anh chị em đã tiếp tôi như một thiên sứ của Đức Chúa Trời, như chính Chúa Cứu Thế Giê-su vậy. 15 Thế thì niềm vui ấy của anh chị em đâu rồi? Vì tôi làm chứng cho anh chị em rằng: Nếu có thể được thì anh chị em cũng móc mắt hiến cho tôi. 16 Vậy mà bây giờ tôi đã trở nên kẻ thù của anh chị em vì nói sự thật cho anh chị em hay sao?

17 Những người đó nhiệt thành đối với anh chị em không phải là có ý tốt, nhưng chỉ muốn ngăn cách anh chị em với chúng tôi để anh chị em nhiệt thành với họ. 18 Nhiệt thành là điều tốt, miễn là vì mục đích tốt, lúc nào cũng thế chứ không phải chỉ khi tôi có mặt với anh chị em. 19 Các con bé nhỏ của ta, vì các con mà ta lại chịu cơn đau chuyển dạ sinh ra một lần nữa cho đến khi Chúa Cứu Thế được thành hình trong các con. 20 Ta mong được có mặt với các con lúc này và thay đổi cách nói vì ta lấy làm bối rối về các con.

Hai Giao Ước

21 Hãy nói cho tôi biết, những người muốn sống dưới Kinh Luật, anh chị em chưa nghe Kinh Luật dạy sao? 22 Vì Kinh Thánh chép rằng: Áp-ra-ham có hai con trai, một đứa do một nữ nô lệ sinh ra, một đứa do một phụ nữ tự do. 23 Nhưng con của nữ nô lệ thì sinh ra theo xác thịt, còn con của người nữ tự do thì sinh ra theo lời hứa.

24 Điều này là một biểu tượng:[e] Hai người đàn bà đó tượng trưng cho hai giao ước, một là giao ước tại núi Si-nai thì sinh ra làm nô lệ, ấy là nàng A-ga. 25 Và A-ga tức là núi Si-nai thuộc miền Ả-rập, tương ứng với thành Giê-ru-sa-lem hiện nay đang cùng với con dân nó làm nô lệ. 26 Nhưng Giê-ru-sa-lem thiên thượng thì tự do, ấy là mẹ chúng ta. 27 Vì Kinh Thánh chép:

“Hãy vui lên! Hỡi phụ nữ hiếm hoi,
    Không sinh con!
Hỡi phụ nữ chưa hề đau đẻ!
    Hãy cất tiếng reo hò!
Vì con cái của phụ nữ bị bỏ còn đông hơn
    Con cái của phụ nữ có chồng.”[f]

28 Về phần chúng ta, thưa anh chị em, cũng như Y-sác, chúng ta là con cái theo lời hứa. 29 Nhưng cũng như lúc bấy giờ, đứa con sinh ra theo xác thịt bắt bớ đứa con sinh ra theo Thánh Linh,[g] thì bây giờ cũng vậy. 30 Tuy nhiên Kinh Thánh nói gì? “Hãy đuổi người nữ nô lệ và con nó đi; vì con trai của người nữ nô lệ không được thừa kế với con trai của người nữ tự do.”[h] 31 Như vậy, thưa anh chị em, chúng ta không phải là con cái của người nữ nô lệ nhưng là con cái của người tự do.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)