Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Book of Common Prayer

Daily Old and New Testament readings based on the Book of Common Prayer.
Duration: 861 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Thánh Thi 31

Cầu Xin Chúa Cứu Giúp

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Chúa ôi, con nương náu nơi Ngài, xin đừng để con bị hổ thẹn;
Vì đức công chính của Ngài, xin giải cứu con.
Xin nghiêng tai nghe con;
Xin mau mau giải cứu con;
Xin làm vầng đá kiên cố che chở con;
Xin làm đồn lũy bảo vệ để cứu con,
Vì Ngài chính là vầng đá và đồn lũy của con;
Vì cớ danh Ngài, xin dẫn đưa con và dìu dắt con.
Xin cứu con ra khỏi bẫy lưới chúng gài bắt con,
Vì Ngài là sức mạnh của con.
Con xin phó thác linh hồn[a] con vào trong tay Ngài,
Vì Ngài đã mua chuộc con,
Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời thành tín của con.

Con[b] ghét những kẻ thờ lạy thần tượng hư không,
Nhưng con chỉ tin cậy Chúa.
Con sẽ vui mừng và hân hoan trong tình thương của Ngài,
Vì Ngài thấy nỗi sầu khổ của con;
Ngài biết rõ cảnh khốn khổ của linh hồn con.
Ngài chẳng phó con vào tay kẻ thù của con,
Nhưng Ngài đặt chân con vào nơi rộng rãi.

Xin thương xót con, Chúa ôi, vì con khốn khổ lắm;
Mắt con thẫn thờ vì sầu khổ,
Linh hồn và thân xác con cũng vậy.
10 Ðời con tiêu hao vì buồn khổ;
Những năm của đời con biến đi với tiếng thở dài;
Sức lực con trở nên yếu ớt vì tội lỗi con,
Và xương cốt con đều suy nhược.

11 Vì cớ mọi kẻ thù của con, con đã trở thành cớ cười chê cho
những người lân cận,
Một kẻ bị tởm cho những người quen biết;
Khi thấy con ngoài đường, họ vội vàng lẩn tránh.
12 Con bị bỏ quên như kẻ đã chết rồi, không ai nhớ đến nữa;
Con trở nên như cái bình đã vỡ.
13 Vì con đã nghe được những lời rỉ tai nói xấu của nhiều người,
Nên nỗi kinh hoàng đã vây quanh con tứ phía;
Chúng bàn luận với nhau chống lại con;
Chúng lập mưu với nhau cất lấy mạng sống con.

14 Dầu vậy con vẫn tin cậy Ngài, Chúa ôi;
Con nói rằng, “Ngài là Ðức Chúa Trời của con.”
15 Sinh mạng con ở trong tay Ngài;
Xin giải cứu con khỏi tay kẻ thù ghét con,
Và khỏi tay những kẻ bách hại con.
16 Xin tỏa sáng mặt Ngài trên tôi tớ Ngài;
Xin giải cứu con vì tình thương của Ngài.

17 Chúa ôi, xin đừng để con bị hổ thẹn, vì con kêu cầu Ngài;
Nhưng xin để kẻ gian ác phải bị hổ thẹn;
Xin bắt chúng phải lặng câm đi vào âm phủ.
18 Nguyện những môi nói dối phải câm nín,
Tức những kẻ ngạo mạn và khinh người trơ tráo nói nghịch người ngay lành.

19 Ôi, vĩ đại thay là lòng tốt của Ngài,
Mà Ngài đã dành sẵn cho những người kính sợ Ngài,
Và đã thực hiện cho những người tin cậy Ngài,
Trước mặt con cái loài người!
20 Ngài che giấu họ khỏi những âm mưu của loài người trong nơi hiện diện bí mật của Ngài;
Ngài bảo vệ họ khỏi những lưỡi vu cáo trong nơi Ngài ngự.

21 Chúc tụng Chúa!
Vì Ngài đã bày tỏ tình thương lạ lùng của Ngài với con khi con gặp khốn quẫn trong một thành bị vây.
22 Con đã nói trong lúc sợ hãi rằng, “Chắc con đã bị dứt khỏi mắt của Ngài rồi!”
Nhưng Ngài vẫn nghe tiếng cầu xin ơn thương xót của con khi con kêu cầu Ngài giúp đỡ.

23 Hãy yêu mến Chúa, hỡi tất cả thánh đồ của Ngài!
Chúa bảo vệ những người trung tín,
Nhưng Ngài báo trả thật đầy đủ cho kẻ kiêu ngạo.
24 Hãy mạnh mẽ và hãy vững lòng bền chí!
Hỡi tất cả những người trông cậy Chúa.

Thánh Thi 35

Xin Chúa Giải Cứu Khỏi Kẻ Thù

Thơ của Ða-vít

Chúa ôi, xin đối chọi với kẻ đối chọi con;
Xin đón đánh kẻ tiến đánh con;
Xin lấy mộc và khiên,
Và trỗi dậy để giúp đỡ con;
Xin lấy giáo và lao để đối phó với những kẻ đuổi bắt con;
Xin nói với linh hồn con rằng, “Ta là Ðấng Giải Cứu của ngươi.”

Xin khiến những kẻ tìm giết con phải bị hổ thẹn và sỉ nhục;
Xin làm cho những kẻ toan mưu ác hại con phải quay lưng bỏ chạy và bị nhục nhã ê chề.
Nguyện chúng như rác bay trước gió,
Bị thiên sứ của Chúa đùa đi!
Nguyện con đường của chúng trở nên tối tăm và trơn trợt,
Trong khi thiên sứ của Chúa truy kích chúng phía sau!

Vì chúng đã âm thầm giăng bẫy để gài bắt con vô cớ;
Chẳng có lý do gì mà chúng đã đào hầm đặt bẫy để hại con.
Nguyện sự hủy diệt ập đến trên chúng cách thình lình!
Nguyện chúng sa vào lưới do chính chúng đã giăng!
Nguyện chúng rơi vào hầm hủy diệt do tay chúng đã đào!

Bấy giờ linh hồn con sẽ vui mừng trong Chúa,
Sẽ hân hoan trong ơn cứu rỗi của Ngài.
10 Tất cả xương con sẽ nói, “Chúa ôi, nào ai giống như Ngài,
Ðấng giải cứu người khốn cùng khỏi tay kẻ mạnh hơn nó,
Ðấng cứu giúp người gặp hoạn nạn và khốn khó khỏi tay kẻ cướp bóc nó?”

11 Những kẻ làm chứng gian đứng dậy;
Chúng hạch hỏi con những điều con không hề biết.
12 Chúng lấy điều ác báo trả điều thiện con đã làm cho chúng;
Linh hồn con thật buồn đau chán ngán.
13 Còn con, khi chúng bị bịnh, con đã lấy vải thô làm y phục;
Con tự làm khổ mình bằng cách kiêng ăn;
Con cúi đầu cầu nguyện cho chúng thường xuyên.
14 Con đối với chúng như bạn bè hay anh chị em[a] ruột mình;
Như một người than khóc cho mẹ mình,
Con cúi xuống khóc than sầu thảm.

15 Nhưng khi con vấp ngã, chúng đã họp lại với nhau để ăn mừng;
Chúng đã họp với nhau để chống lại con;
Những kẻ tấn công đã thay phiên nhau đả kích con không ngớt;
Thế mà con chẳng hay biết gì cho đến khi mọi sự đã rồi.
16 Chúng tha hồ báng bổ nhạo cười con;
Chúng nghiến răng mình để chống lại con.

17 Chúa ôi, Ngài cứ để như vậy mà nhìn cho đến bao lâu nữa?
Xin cứu linh hồn con khỏi bị chúng tiêu diệt,
Xin cứu mạng báu con khỏi bầy sư tử!
18 Con sẽ dâng lên Ngài lời cảm tạ ở giữa đại hội;
Con sẽ ca ngợi Ngài trong cuộc hội họp đông người.

19 Xin đừng để những kẻ chống con cách sai trái có dịp vui mừng;
Xin đừng để những kẻ ghét con vô cớ có cơ hội nháy mắt biểu lộ niềm vui.
20 Vì chúng chẳng bàn luận để có hòa bình,
Nhưng chúng lập mưu để lừa gạt những người hiền hòa trong xứ, bằng cách đặt ra những lời dối gạt.
21 Chúng mở miệng khoác lác chống lại con;
Chúng bảo, “A ha! A ha! Mắt chúng ta đã thấy điều ấy rồi!”

22 Chúa ôi, Ngài đã thấy hết rồi, xin Ngài đừng yên lặng nữa!
Chúa ôi, xin Ngài đừng ở xa con!
23 Xin trỗi dậy và đứng lên binh vực lẽ phải cho con;
Xin binh vực duyên cớ con, lạy Ðức Chúa Trời của con và Chúa của con.
24 Xin minh oan cho con theo đức công chính của Ngài, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con,
Và xin đừng để chúng vui mừng vì cớ con.
25 Xin đừng để chúng nói trong lòng rằng, “A ha! Khoái quá!”
Xin đừng để chúng nói, “Chúng ta đã nuốt trộng nó rồi!”

26 Nguyện những kẻ tụ tập nhau lại ăn mừng khi con gặp hoạn nạn bị xấu hổ và bối rối!
Nguyện những kẻ phách lối với con mặc lấy sỉ nhục và hổ ngươi!

27 Nguyện những người ủng hộ sự minh oan của con trỗi tiếng reo mừng và vui vẻ;
Nguyện họ nói không ngớt rằng,
“Hãy tán tụng Chúa,
Ðấng vui thích về sự hưng thịnh của tôi tớ Ngài.”

28 Lưỡi con sẽ rao truyền đức công chính của Ngài
Và ca ngợi Ngài suốt ngày.

Sáng Thế 11:27-12:8

Dòng Dõi Tê-ra

27 Ðây là dòng dõi của Tê-ra: Tê-ra sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran. Ha-ran sinh Lót. 28 Ha-ran qua đời trước Tê-ra cha của ông, tại quê hương của ông ở U-rơ, trong xứ của người Canh-đê. 29 Áp-ram và Na-hô đều cưới vợ. Vợ của Áp-ram tên Sa-rai, còn vợ của Na-hô tên Minh-ca con gái của Ha-ran. Ha-ran là cha của Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn và không con.

31 Tê-ra dẫn Áp-ram con trai của ông, Lót cháu nội của ông, tức con trai của Ha-ran, và Sa-rai vợ của Áp-ram, tức dâu của ông, ra khỏi U-rơ, xứ của người Canh-đê, để đến xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ định cư tại đó. 32 Tê-ra hưởng thọ hai trăm lẻ năm tuổi, rồi qua đời tại Cha-ran.

Áp-ram Ðược Chúa Chọn

12 Bấy giờ Chúa phán với Áp-ram, “Hãy rời khỏi xứ sở ngươi, bà con ngươi, và nhà cha ngươi, để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi trở nên một dân lớn. Ta sẽ ban phước cho ngươi và làm nổi danh ngươi. Ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, và sẽ nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa ngươi. Mọi dân trên thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.”

Áp-ram ra đi như Chúa đã phán với ông và Lót đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời khỏi Cha-ran. Áp-ram dẫn Sa-rai vợ ông và Lót cháu ông; họ đem theo mọi tài sản họ đã tạo được và mọi gia nhân họ có được tại Cha-ran và lên đường đi đến xứ Ca-na-an, và họ đã đến được xứ đó.

Áp-ram đi ngang qua xứ ấy và đến một nơi tại Si-chem, nơi có cây sồi của Mô-rê. Lúc ấy dân Ca-na-an đang sống trong xứ. Bấy giờ Chúa hiện ra với Áp-ram và phán, “Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi xứ nầy.” Ông bèn xây tại đó một bàn thờ để thờ phượng Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông.

Từ đó ông di chuyển về miền đồi núi ở phía đông của Bê-tên,[a] rồi hạ trại tại đó; đó là nơi phía tây có Bê-tên và phía đông có Ai. Tại đó ông xây một bàn thờ để thờ phượng Chúa và kêu cầu danh Chúa.

Hê-bơ-rơ 7:1-17

Tư Tế Mên-chi-xê-đéc

Vua Mên-chi-xê-đéc ở Sa-lem này là tư tế của Ðức Chúa Trời Tối Cao, là người đã ra nghinh đón Áp-ra-ham và chúc phước cho ông, sau khi ông đánh bại[a] các vua trở về. Áp-ra-ham đã lấy một phần mười của mọi chiến lợi phẩm chia cho vua ấy. Trước hết tên của vua là “Mên-chi-xê-đéc,” có nghĩa là “Vua Công Chính,” và cũng là vua của Sa-lem, có nghĩa là “Vua Hòa Bình.” Vua không cha, không mẹ, không gia phả, không ngày sinh, không ngày chết, nhưng giống như Con Ðức Chúa Trời, vua cứ làm tư tế đời đời.

Hãy xem, vua ấy cao trọng biết bao! Ngay cả tổ phụ Áp-ra-ham mà còn dâng một phần mười các chiến lợi phẩm cho vua ấy.

Các con cháu của Lê-vi, hễ ai nhận được chức vụ làm tư tế thì cứ theo điều lệ đã quy định trong Luật Pháp được quyền nhận một phần mười từ dân, tức từ các anh chị em của họ, dù họ cũng ra từ lòng Áp-ra-ham. Nhưng vua ấy, không thuộc về dòng tộc của họ, lại nhận một phần mười từ Áp-ra-ham, và vua ấy đã chúc phước cho ông, là người có lời hứa. Người bậc thấp được người bậc cao chúc phước là điều không ai thắc mắc. Ðàng này những tư tế nhận một phần mười là những phàm nhân phải qua đời, nhưng đàng kia, vua ấy lại được làm chứng là còn đang sống. Có thể nói rằng, qua Áp-ra-ham, ngay cả Lê-vi, người đã nhận một phần mười, cũng đã dâng một phần mười cho vua ấy, 10 vì Lê-vi còn ở trong lòng tổ phụ ông khi Mên-chi-xê-đéc ra đón gặp tổ phụ ông.

11 Vậy nếu nhờ chức vụ tư tế của người Lê-vi mà người ta được trở nên trọn vẹn –vì dân nhận được Luật Pháp trên căn bản của chức vụ tư tế ấy– thì tại sao cần phải dấy lên một tư tế khác theo dòng Mên-chi-xê-đéc, mà không là một người theo dòng A-rôn? 12 Vì khi có sự thay đổi về dòng tư tế, thì cũng cần phải thay đổi trong Luật Pháp.

Chức Vụ Tư Tế của Ðấng Christ Cao Trọng Hơn Chức Vụ Tư Tế của A-rôn

13 Về Ðấng mà những điều này luận đến lại thuộc về một chi tộc khác, một chi tộc chưa có ai được phục vụ nơi bàn thờ. 14 Vì rõ ràng rằng Chúa chúng ta đã xuất thân từ dòng dõi Giu-đa, mà về chi tộc ấy, Môi-se không nói chi về chức vụ tư tế cả.

15 Ðiều đó càng rõ ràng hơn khi một vị tư tế khác tương tự như Mên-chi-xê-đéc dấy lên, 16 Ðấng ấy không trở thành tư tế dựa trên những quy định trong Luật Pháp về huyết thống, nhưng dựa trên quyền năng của sự sống bất diệt. 17 Vì Ngài đã được chứng rằng,

“Con làm tư tế đời đời,
Theo dòng Mên-chi-xê-đéc.”Thi 110:4

Giăng 4:16-26

16 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Hãy đi, gọi chồng bà đến đây.”

17 Người đàn bà trả lời và nói, “Tôi không có chồng.”

Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Bà nói, ‘Tôi không có chồng’ là đúng lắm, 18 vì bà đã có năm đời chồng, còn người bà hiện đang chung sống không phải là chồng bà. Ðiều này bà nói thật đúng.”

19 Người đàn bà nói với Ngài, “Thưa ông, tôi nhận thấy rằng ông là một đấng tiên tri. 20 Tổ phụ chúng tôi thờ phượng trên núi này, còn quý ông lại bảo Giê-ru-sa-lem mới là nơi phải đến thờ phượng.”

21 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Này bà, hãy tin Ta, giờ đến khi các ngươi sẽ thờ phượng Cha không trên núi này và cũng không tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các ngươi thờ phượng Ðấng các ngươi không biết. Chúng ta thờ phượng Ðấng chúng ta biết, vì ơn cứu rỗi đến từ người Do-thái. 23 Nhưng giờ đến và bây giờ đã đến, khi những người thờ phượng thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và sự chân thật, vì Cha tìm kiếm những người thờ phượng Ngài như vậy. 24 Ðức Chúa Trời là thần linh, nên ai thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và sự chân thật.”

25 Người đàn bà nói với Ngài, “Tôi biết rằng Ðấng Mê-si-a, cũng gọi là Ðấng Christ, sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ báo cho chúng ta mọi sự.”

26 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Ta, người đang nói với ngươi, chính là Ðấng ấy.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang