Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Phục Truyền Luật Lệ 26

Luật về Sản Phẩm Ðầu Mùa

26 Khi anh chị em đã vào trong xứ mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, ban cho anh chị em để chiếm lấy làm sản nghiệp, khi anh chị em đã chiếm lấy và định cư trong đó, anh chị em hãy lấy một ít trong tất cả các sản phẩm đầu mùa của đất, tức các sản phẩm trong xứ mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, ban cho anh chị em; anh chị em hãy để chúng vào một cái giỏ, rồi mang giỏ ấy đến nơi Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, sẽ chọn để danh Ngài ngự. Anh chị em sẽ đến với vị tư tế đương chức lúc bấy giờ và nói với người ấy, ‘Hôm nay tôi xin tuyên bố với Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, rằng tôi đã đến được xứ mà Chúa đã thề với tổ tiên chúng ta để ban cho chúng ta.’

Khi vị tư tế lấy cái giỏ từ nơi tay anh chị em và đem đặt nó trước bàn thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, anh chị em hãy cất tiếng nói lên những lời nầy trước thánh nhan Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, ‘Tổ tiên của con là một người A-ram du mục, đã đi xuống Ai-cập và sống ở đó như một kiều dân, chỉ một ít người, nhưng tổ tiên của con đã trở thành một dân lớn, hùng cường, và đông đúc tại đó. Khi người Ai-cập hà hiếp và đàn áp chúng con, cưỡng bách chúng con làm nô dịch nhọc nhằn, chúng con đã kêu cầu với Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên chúng con; Chúa đã nghe tiếng cầu xin của chúng con và đã thấy cảnh lầm than, cực nhọc, và áp bức mà chúng con đã gánh chịu. Chúa đã đem chúng con ra khỏi Ai-cập bằng tay quyền năng và cánh tay vung thẳng ra của Ngài, bằng sự thể hiện những quyền năng kinh hoàng, và bằng những dấu kỳ và phép lạ. Ngài đã đem chúng con vào chốn nầy và ban cho chúng con xứ nầy, một xứ đượm sữa và mật. 10 Vì thế hôm nay, lạy Chúa, con xin mang đến dâng lên Ngài những sản phẩm đầu mùa của đất mà Ngài đã ban cho con.’

Anh chị em hãy để giỏ ấy trước thánh nhan Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, và sấp mình xuống thờ lạy trước thánh nhan Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em. 11 Sau đó anh chị em hãy cùng với những người Lê-vi và những kiều dân sống giữa anh chị em ăn mừng về mọi phước hạnh mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã ban cho anh chị em và gia đình anh chị em.

Luật về Của Một Phần Mười trong Năm Thứ Ba

12 Sau khi anh chị em đã đóng góp những phần mười của tất cả hoa lợi mình trong năm thứ ba, tức năm đóng góp một phần mười, để phân phát cho những người Lê-vi, những kiều dân, những cô nhi, và những góa phụ, hầu họ có thực phẩm mà ăn no trong các thành của anh chị em, 13 bấy giờ anh chị em hãy đến thưa trước thánh nhan Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em rằng, ‘Con đã lấy những phần thuộc về của thánh ra khỏi nhà con và đã trao chúng cho những người Lê-vi, kiều dân, cô nhi, và góa phụ, theo như mọi điều răn mà Ngài đã truyền cho con. Con đã không bỏ sót và cũng không quên điều răn nào của Ngài. 14 Con đã không ăn những của đó trong thời gian con thọ tang, con không đụng đến chúng khi con bị ô uế, và con cũng không đem chúng để cúng cho người chết. Con đã vâng lời Chúa, Ðức Chúa Trời của con, và làm y mọi điều Ngài đã truyền cho con. 15 Cầu xin Ngài từ nơi thánh của Ngài, từ thiên đàng, đoái xem chúng con và ban phước cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài và cho đất mà Ngài đã ban cho chúng con, như Ngài đã thề với tổ tiên chúng con, để nó luôn là một xứ đượm sữa và mật.’

Khuyên Phải Luôn Vâng Giữ Luật Pháp của CHÚA

16 Chính hôm nay, Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã truyền cho anh chị em phải vâng giữ những luật lệ và mạng lịnh nầy; vậy anh chị em hãy chuyên cần vâng giữ chúng cách hết lòng và hết linh hồn mình. 17 Hôm nay anh chị em đã xác quyết rằng Chúa là Ðức Chúa Trời của anh chị em, để anh chị em đi trong các đường lối Ngài, vâng giữ các luật lệ Ngài, các điều răn Ngài, và các mạng lịnh Ngài, cùng vâng theo tiếng Ngài. 18 Hôm nay Chúa đã xác nhận anh chị em làm một dân thuộc riêng về Ngài, như Ngài đã hứa với anh chị em, để anh chị em vâng giữ các điều răn Ngài, 19 và để Ngài làm cho anh chị em trỗi cao hơn các dân khác mà Ngài đã dựng nên về phương diện được khen ngợi, được danh tiếng, và được tôn trọng, và để cho anh chị em trở thành một dân thánh thuộc riêng về Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, như Ngài đã hứa.”

Thánh Thi 117-118

Kêu Gọi Muôn Dân Ca Ngợi CHÚA

Hỡi các nước, hãy ca ngợi Chúa;
Hỡi muôn dân, khá tôn ngợi Ngài!
Vì tình thương của Ngài đối với chúng ta rất lớn,
Và đức thành tín của Chúa hằng còn đến đời đời.
Hãy ca ngợi Chúa!

Cảm Tạ Chúa vì Tình Thương của Ngài

Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài thật tốt,
Vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.
Nguyện dân I-sơ-ra-ên nói rằng,
“Tình thương của Ngài còn đến đời đời.”
Nguyện nhà A-rôn nói rằng,
“Tình thương của Ngài còn đến đời đời.”
Nguyện những người kính sợ Chúa nói rằng,
“Tình thương của Ngài còn đến đời đời.”

Trong cơn tuyệt vọng tôi kêu cầu với Chúa;
Chúa đáp lời tôi và đem tôi vào nơi tự do rộng rãi.
Chúa ở với tôi, tôi chẳng sợ;
Loài người làm gì được tôi?
Chúa ở với tôi, trong số những người giúp đỡ tôi,
Nên tôi sẽ nhìn những kẻ ghét tôi một cách đắc thắng.

Thà nương náu mình nơi Chúa,
Hơn là nhờ cậy loài người.
Thà nương náu mình nơi Chúa,
Hơn là nhờ cậy những người quyền thế đời này.

10 Tất cả dân ngoại đã bao vây để tiêu diệt tôi;
Nhân danh Chúa, tôi tiêu diệt chúng.
11 Chúng đã bao vây tôi, thật vậy, chúng đã bao vây tôi tứ phía;
Nhân danh Chúa, tôi tiêu diệt chúng.
12 Chúng đã bao vây tôi khác nào một đàn ong;
Chúng đã bị tắt rụi như ngọn lửa gai;
Nhân danh Chúa, tôi tiêu diệt chúng.

13 Người ta đã cố sức xô cho tôi ngã,
Nhưng Chúa đã giúp đỡ tôi.
14 Chúa là sức mạnh của tôi và bài ca của tôi;
Ngài là Ðấng Giải Cứu của tôi.

15 Trong các trại người ngay lành có tiếng reo mừng chiến thắng;
“Tay phải Chúa hành động mạnh mẽ!
16 Tay phải Chúa được tôn cao!
Tay phải Chúa hành động mạnh mẽ!”

17 Tôi sẽ không chết, nhưng sống,
Ðể thuật lại những công việc của Chúa.
18 Chúa đã sửa phạt tôi cách nghiêm khắc,
Nhưng Ngài không phó tôi cho tử thần.

19 Hãy mở cho tôi các cổng công chính,
Ðể tôi sẽ vào và cảm tạ Chúa.
20 Ðây là cổng của Chúa,
Ðể người ngay lành sẽ vào.

21 Con sẽ cảm tạ Ngài vì Ngài đã đáp lời con;
Ngài là Ðấng Giải Cứu của con.

22 Tảng đá bị thợ xây nhà loại ra
Ðã trở thành tảng đá góc nhà.
23 Ðây quả là công việc của Chúa;
Thật quá diệu kỳ đối với mắt chúng ta.

24 Ðây là ngày Chúa đã dựng nên;
Chúng ta hãy vui hưởng và hân hoan trong ngày ấy.

25 Chúa ôi, con cầu xin Ngài, xin cứu chúng con;
Chúa ôi, con cầu xin Ngài, xin cho chúng con được thịnh vượng.

26 Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa ngự đến!
Từ trong nhà Chúa chúng tôi chúc phước cho anh chị em.
27 Chúa chính là Ðức Chúa Trời, Ðấng soi sáng chúng ta;
Xin lấy các sợi dây cột con vật hiến tế vào các sừng bàn thờ.

28 Ngài là Ðức Chúa Trời của con, con cảm tạ Ngài;
Ngài là Ðức Chúa Trời của con, con tôn cao Ngài.

29 Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài thật tốt,
Vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.

Ca Tụng Luật Pháp của CHÚA

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Ê-sai 53

53 Ai đã tin những gì chúng ta rao báo?[a]
Và cánh tay Chúa đã được bày tỏ cho ai?
Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một chồi non,
Như một cái rễ mọc lên nơi đất khô.
Khi chúng ta thấy Người, tướng mạo Người chẳng đẹp đẽ hay uy nghi;
Diện mạo Người chẳng có gì thu hút chúng ta.
Người đã bị người ta khinh khi và loại bỏ;
Một người kinh nghiệm đau khổ và quen thuộc với bịnh tật;
Một người mà ai thấy đều che mặt chẳng muốn nhìn.
Người đã bị khinh khi hất hủi,
Và chúng ta cũng chẳng coi Người ra gì.
Mà kỳ thật Người đã gánh lấy những bịnh tật của chúng ta;
Người đã mang lấy những đau khổ của chúng ta,
Trong khi chúng ta lại tưởng Người đã bị Ðức Chúa Trời đánh phạt, giáng họa, và làm cho khốn khổ.
Nhưng Người đã vì những vi phạm của chúng ta mà bị thương,
Vì những tội lỗi của chúng ta mà bị tan da nát thịt.
Nhờ hình phạt Người chịu chúng ta được bình an;
Nhờ thương tích Người mang chúng ta được chữa lành.
Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy;
Chúa đã chất tội lỗi của tất cả chúng ta trên Người.

Người đã bị áp bức và hành hạ,
Nhưng Người chẳng hề mở miệng.
Như chiên con bị đưa đi làm thịt,
Như con chiên im lặng trước thợ hớt lông,
Người chẳng hề mở miệng.
Sau khi bị xét xử cách bức hiếp và bất công,
Người đã bị đem đi hành quyết.
Nhưng trong thế hệ của Người nào có ai lên tiếng cho Người rằng,
Người đã bị dứt bỏ khỏi đất người sống,
Và bị đánh đập vì sự vi phạm của dân tôi chăng?
Người đã bị sắp đặt để chôn chung mộ với phường gian ác,
Nhưng lúc chết Người lại được chôn trong mộ của người giàu,
Bởi vì Người chẳng làm điều gì hung bạo,
Và trong miệng Người chẳng có lời gian dối nào.
10 Dầu vậy thánh ý của Chúa là để cho Người chịu tan da nát thịt;
Ngài để cho Người chịu đau khổ,
Hầu sau khi dâng mạng sống mình làm của lễ chuộc tội,
Người sẽ thấy dòng dõi mình, và những ngày của Người sẽ dài ra;
Thánh ý của Chúa nhờ tay Người sẽ thành tựu.
11 Người sẽ nhìn lại nỗi thống khổ của linh hồn mình và lấy làm mãn nguyện.

Nhờ kiến thức mình, Ðầy Tớ ngay lành của Ta sẽ làm cho nhiều người được xưng công chính,
Vì Người sẽ gánh lấy tội lỗi họ.

12 Vì thế Ta sẽ chia phần cho Người với những đại vĩ nhân;
Người sẽ chia chiến lợi phẩm với những người dũng mãnh,
Bởi vì Người đã đổ mạng sống mình ra cho đến chết,
Và đã bị liệt vào hàng tội phạm;
Mà kỳ thật Người đã mang lấy tội lỗi của nhiều người,
Và cầu thay cho những kẻ phạm tội.

Ma-thi-ơ 1

GIA PHẢ VÀ SỰ GIÁNG SINH CỦA ÐỨC CHÚA JESUS

(1:1 – 2:23)

Gia Phả của Ðức Chúa Jesus

(Lu 3:23-38; Ru 4:18-22; 1 Sử 3:10-17)

Ðây là gia phả của Ðức Chúa Jesus Christ, con cháu[a] Ða-vít, con cháu Áp-ra-ham.

Áp-ra-ham sinh I-sác; I-sác sinh Gia-cốp; Gia-cốp sinh Giu-đa và các anh em ông ấy. Giu-đa bởi Ta-ma sinh Pa-rê và Xê-ra. Pa-rê sinh Hê-rôn; Hê-rôn sinh A-ram; A-ram sinh A-mi-na-đáp; A-mi-na-đáp sinh Nát-sôn; Nát-sôn sinh Sanh-môn. Sanh-môn bởi Ra-háp sinh Bô-a. Bô-a bởi Ru-tơ sinh Ô-bết. Ô-bết sinh Giê-se; Giê-se sinh Vua Ða-vít.

Ða-vít bởi vợ của U-ri-a sinh Sa-lô-môn. Sa-lô-môn sinh Rê-hô-bô-am; Rê-hô-bô-am sinh A-bi-gia; A-bi-gia sinh A-sa. A-sa sinh Giê-hô-sa-phát; Giê-hô-sa-phát sinh Giô-ram; Giô-ram sinh U-xi-a. U-xi-a sinh Giô-tham; Giô-tham sinh A-kha; A-kha sinh Ê-xê-chia. 10 Ê-xê-chia sinh Ma-na-se; Ma-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-a. 11 Giô-si-a sinh Giê-khô-ni-a và các anh em ông ấy vào thời bị lưu đày qua Ba-by-lôn.

12 Sau khi bị đày qua Ba-by-lôn, Giê-khô-ni-a sinh Sa-la-thi-ên; Sa-la-thi-ên sinh Xê-ru-ba-bên; 13 Xê-ru-ba-bên sinh A-bi-út; A-bi-út sinh Ê-li-a-kim; Ê-li-a-kim sinh A-xô. 14 A-xô sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khim; A-khim sinh Ê-li-út; 15 Ê-li-út sinh Ê-lê-a-xa; Ê-lê-a-xa sinh Ma-than; Ma-than sinh Gia-cốp; 16 Gia-cốp sinh Giô-sép chồng của Ma-ry; Ma-ry là người đã sinh Ðức Chúa Jesus cũng gọi là Ðấng Christ.[b]

17 Như vậy, từ Áp-ra-ham đến Ða-vít tất cả là mười bốn đời, từ Ða-vít đến khi bị lưu đày qua Ba-by-lôn mười bốn đời, và từ khi bị lưu đày qua Ba-by-lôn đến Ðấng Christ mười bốn đời.

Sự Tích Chúa Giáng Sinh

(Lu 2:1-7)

18 Sự giáng sinh của Ðức Chúa Jesus Christ đã xảy ra như thế này: Ma-ry mẹ Ngài đã đính hôn với Giô-sép, nhưng trước khi hai người đến với nhau, nàng đã thụ thai bởi Ðức Thánh Linh. 19 Giô-sép chồng nàng, một người có tình nghĩa[c] và không muốn cho nàng mang tiếng xấu, nên định kín đáo từ hôn với nàng. 20 Tuy nhiên, đang khi Giô-sép suy nghĩ về việc ấy, này, một thiên sứ của Chúa hiện đến với chàng trong chiêm bao, bảo rằng, “Hỡi Giô-sép, con cháu[d] Ða-vít, chớ ngại lấy Ma-ry làm vợ, vì thai nhi trong dạ nàng đã được thụ thai bởi Ðức Thánh Linh. 21 Nàng sẽ sinh một con trai; ngươi phải đặt tên con trai ấy là Jesus,[e] vì chính con trai ấy sẽ cứu dân Ngài ra khỏi tội.”

22 Mọi việc ấy đã xảy ra để làm ứng nghiệm lời Chúa đã phán qua đấng tiên tri rằng,

23 “Này, một trinh nữ sẽ thụ thaiÊ-sai 7:14 và sinh một con trai;
Và người ta sẽ gọi con trai ấy là Em-ma-nu-ên,”Ê-sai 8:8,10
nghĩa là, “Ðức Chúa Trời ở cùng chúng ta.”

24 Sau khi thức dậy Giô-sép làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dạy. Chàng đem vợ về 25 nhưng không ăn ở[f] với nàng cho đến khi nàng sinh con trai đầu lòng, và chàng đặt tên con trai đó là Jesus.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang