Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Revised Common Lectionary (Semicontinuous)

Daily Bible readings that follow the church liturgical year, with sequential stories told across multiple weeks.
Duration: 1245 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
I-sa 52:13-53:12

Tôi Tớ Của CHÚA

13 Kìa, tôi tớ Ta sẽ thành đạt,
    Sẽ được tán dương, được nâng lên rất cao.
14 Như nhiều người kinh hoàng về người,[a]
    Hình dung người bị hủy hoại đến nỗi không còn giống con người;
    Và dáng vẻ không còn giống con cái loài người nữa.
15 Cho nên người làm ngạc nhiên[b] nhiều quốc gia;
    Các vua sẽ câm miệng vì người;
Vì họ sẽ thấy điều chưa ai bảo cho mình biết,
    Hiểu điều mình chưa được nghe.

Tôi Tớ Chịu Khổ

53 Ai tin điều chúng tôi đã nghe?[c]
    Và cánh tay[d] của CHÚA đã bày tỏ cho ai?
Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cây non;
    Như cái rễ từ đất khô khan.
Người không có hình dung, cũng không uy nghi để chúng ta nhìn ngắm;
    Người cũng không có bề ngoài để chúng ta ưa thích.
Người bị người ta khinh bỉ và ruồng bỏ;
    Là người chịu đau khổ và biết sự đau ốm.
Như người mà người ta tránh mặt không muốn nhìn;[e]
    Người bị khinh bỉ; chúng ta cũng không xem người ra gì.
Thật, chính người đã mang những bệnh tật của chúng ta
    Và gánh những đau khổ của chúng ta.
Nhưng chúng ta lại tưởng
    Người bị Đức Chúa Trời đánh, phạt và bị khổ sở.
Chính người bị đâm vì sự vi phạm của chúng ta,
    Bị chà đạp vì sự gian ác của chúng ta.
Hình phạt người chịu để chúng ta được bình an,
    Vết thương người mang để chúng ta được chữa lành.
Tất cả chúng ta đều như chiên đi lạc,
    Mỗi người đi theo đường lối riêng của mình.
Nhưng CHÚA đã chất
    Tội lỗi của tất cả chúng ta trên người.
Người bị áp bức và khổ sở
    Nhưng không hề mở miệng.
Như chiên bị dẫn đi làm thịt,
    Như cừu câm nín đứng trước kẻ hớt lông;
    Người không hề mở miệng.
Người đã bị ức hiếp,[f] xử đoán và giết đi.[g]
    Những người đồng thời[h] với người có ai suy xét rằng
Người bị cắt đứt khỏi đất người sống
    Là vì tội lỗi dân Ta đáng bị đánh phạt.[i]
Người ta đã đặt mồ người chung với những kẻ ác
    Và khi chết[j] người được chôn với một người giàu có,
Dù người đã không hành động hung bạo
    Và miệng không hề lừa dối.
10 Nhưng CHÚA bằng lòng để người bị chà đạp và đau đớn[k]
    Khi người[l] dâng mạng sống mình làm tế lễ chuộc tội.
Người sẽ thấy dòng dõi mình, các ngày của người sẽ lâu dài
    Và nhờ tay người, ý của CHÚA sẽ được thành đạt.
11 Do sự thống khổ của linh hồn mình
    Người sẽ thấy ánh sáng.[m]
Nhờ sự hiểu biết của mình[n] người sẽ hài lòng. [o] Người công chính tức là tôi tớ Ta sẽ làm cho nhiều người được công chính
    Và người sẽ gánh lấy tội lỗi họ.
12 Cho nên Ta sẽ chia phần cho người cùng với những người vĩ đại[p]
    Và người sẽ chia chiến lợi phẩm với những kẻ mạnh.
Vì người đã đổ mạng sống mình cho đến chết,
    Bị liệt vào hàng tội nhân.
Nhưng thật ra chính người đã mang lấy tội lỗi của nhiều người
    Và cầu thay cho những kẻ tội lỗi.

Thánh Thi 22

Thánh Thi Đa-vít Cho Nhạc Trưởng Theo Điệu “Nai Hừng Đông”

22 Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi!
    Sao Ngài lìa bỏ tôi?
    Sao Ngài cách xa, không giải cứu tôi,
    Không nghe tiếng kêu gào của tôi?
Lạy Đức Chúa Trời của tôi, suốt ngày tôi kêu cầu nhưng Ngài không đáp lời,
    Ban đêm tôi cũng không yên nghỉ.[a]
Nhưng Ngài là Đấng thánh,
    Ngự trị giữa sự khen ngợi của Y-sơ-ra-ên.[b]
Tổ phụ chúng tôi đã tin cậy nơi Ngài,
    Họ đã tin cậy, nên Ngài giải cứu họ.
Họ đã cầu khẩn Ngài và được giải cứu,
    Họ đã tin cậy nơi Ngài và không bị hổ thẹn.
Nhưng tôi chỉ là con sâu, không phải người,
    Bị loài người chế nhạo, bị người ta khinh bỉ.
Tất cả những người thấy tôi đều chế nhạo,
    Họ trề môi, họ lắc đầu:
Nó nhờ cậy CHÚA,
    Để Ngài giải cứu nó.
Vì Ngài vui lòng vì nó,
    Hãy để Ngài cứu nó.
Nhưng chính Ngài là Đấng đem tôi ra khỏi lòng mẹ,
    Khiến tôi an toàn[c] ở trên vú mẹ tôi.
10 Từ lòng mẹ, tôi đã được giao cho Ngài,
    Ra khỏi lòng mẹ, Ngài là Đức Chúa Trời của tôi.
11 Xin đừng ở xa tôi,
    Vì hoạn nạn đang ở gần,
    Không ai giúp đỡ.
12 Có nhiều bò tót bao quanh tôi,
    Những con bò tót Ba-san mạnh mẽ vây lấy tôi.
13 Họ hả miệng lớn cùng tôi,
    Như sư tử cắn xé, gầm thét.
14 Tôi bị đổ ra như nước,
    Xương cốt tôi đều rã rời,
Tim tôi như sáp,
    Tan chảy trong ngực tôi.
15 Sức tôi khô cạn như mảnh sành,
    Lưỡi tôi dính vào cổ họng,
    Ngài để tôi nơi tro bụi của sự chết.
16 Vì đàn chó bao quanh tôi,
    Lũ người hung dữ vây phủ tôi,
    Chúng đâm thủng[d] chân tay tôi.
17 Tôi có thể đếm hết xương cốt tôi,
    Chúng nhìn chòng chọc, chúng nhìn tôi hau háu.
18 Chúng chia nhau quần áo tôi,
    Bắt thăm để lấy y phục tôi.
19 Nhưng Ngài, lạy CHÚA, xin đừng ở xa tôi,
    Ngài là sức mạnh của tôi,[e] xin mau mau tiếp cứu tôi.
20 Xin cứu linh hồn tôi khỏi gươm,
    Mạng sống tôi khỏi móng vuốt loài chó.
21 Xin giải cứu tôi khỏi miệng sư tử, và khỏi sừng bò rừng.
    Ngài đã đáp lời tôi.[f]
22 Tôi sẽ loan báo danh Ngài cho anh em tôi,
    Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa hội chúng.
23 Hỡi những người tôn kính CHÚA, hãy ca ngợi Ngài.
    Hỡi tất cả con cháu Gia-cốp, hãy tôn vinh Ngài.
    Hỡi tất cả dòng dõi Y-sơ-ra-ên, hãy kính sợ Ngài.
24 Vì Ngài đã không khinh bỉ, cũng chẳng ghê tởm
    Nỗi đau đớn của người khốn khổ.
Ngài cũng không tránh mặt người,
    Nhưng khi người kêu cầu với Ngài thì Ngài đáp lời.
25 Lời ca ngợi của tôi giữa hội chúng lớn đến từ Ngài,
    Tôi sẽ làm trọn những lời khấn nguyện của tôi trước mặt những người kính sợ Chúa.
26 Người nghèo[g] sẽ ăn và thỏa lòng,
    Người tìm kiếm CHÚA sẽ ca ngợi Ngài.
    Nguyện lòng các ngươi được sống mãi mãi.
27 Khắp cả trái đất
    Sẽ ghi nhớ và trở lại cùng CHÚA,
Tất cả gia tộc các nước
    Sẽ thờ phượng trước mặt Ngài.
28 Vì quyền cai trị thuộc về CHÚA,
    Ngài thống trị trên các nước.
29 Tất cả những người giàu có trên đất sẽ ăn uống[h] và thờ phượng.
    Mọi kẻ đi vào bụi đất sẽ quỳ lạy trước mặt Ngài,
    Những linh hồn không thể bảo tồn mạng sống mình.
30 Một dòng dõi sẽ phục vụ Ngài,
    Người ta sẽ truyền bá về CHÚA cho hậu thế.
31 Họ sẽ đến và rao truyền sự công chính của Ngài
    Cho thế hệ hậu sinh
    Rằng Ngài đã làm việc ấy.

Hê-bơ-rơ 10:16-25

16 “Đây là giao ước Ta sẽ thiết lập với họ,
    Sau thời kỳ đó, Chúa phán,
Ta sẽ đặt Kinh Luật ta trong lòng họ
    Và ghi khắc vào tâm trí họ.”

17 Ngài tiếp:

“Ta sẽ chẳng bao giờ nhớ lại tội lỗi họ
    Và các việc gian ác của họ nữa!”

18 Nơi nào tội lỗi đã được tha thứ, thì không còn dâng tế lễ đền tội nữa.

Lời Kêu Gọi Tiến Bước Trên Con Đường Đức Tin

19 Vậy, thưa anh chị em, vì chúng ta vững tâm bước vào Nơi Chí Thánh nhờ huyết Đức Giê-su, 20 qua con đường mới và sống mà Ngài đã mở xuyên qua bức màn, nghĩa là xuyên qua thân xác Ngài; 21 chúng ta lại có một vị thượng tế vĩ đại được lập lên trên Nhà của Đức Chúa Trời, 22 nên chúng ta hãy đến gần Chúa với lòng chân thành, trong niềm tin vững chắc, tấm lòng đã được tẩy sạch khỏi lương tâm ác, thân thể đã tắm rửa bằng nước tinh sạch. 23 Chúng ta hãy giữ vững không lay chuyển lời tuyên xưng về niềm hy vọng của chúng ta, vì Đấng đã hứa với chúng ta luôn luôn thành tín. 24 Chúng ta hãy lưu ý khích lệ nhau trong tình yêu thương và các việc lành. 25 Đừng bỏ sự nhóm họp với nhau như thói quen của vài người, nhưng hãy khuyến khích nhau; anh chị em nên làm như thế nhiều hơn khi thấy Ngày Chúa càng gần.

Hê-bơ-rơ 4:14-16

14 Vậy, vì chúng ta có vị thượng tế vĩ đại đã vượt qua các tầng trời là Đức Giê-su, Con Đức Chúa Trời, nên chúng ta hãy giữ vững niềm tin; 15 vì chúng ta không có một vị thượng tế chẳng có thể cảm thông sự yếu đuối chúng ta, nhưng vị thượng tế này đã chịu cám dỗ đủ mọi mặt cũng như chúng ta song không hề phạm tội. 16 Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngai ân sủng, để được thương xót và tìm được ân sủng có thể giúp đỡ chúng ta kịp thời.

Hê-bơ-rơ 5:7-9

Trong những ngày sống trong xác thịt, Đức Giê-su đã lớn tiếng dâng những lời cầu nguyện, nài xin với nước mắt lên Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng thành kính nên được nhậm lời. Dù là Con, Ngài cũng phải học tập vâng lời trong những điều thống khổ Ngài đã chịu. Khi hoàn tất rồi, Ngài trở nên nguồn cứu rỗi đời đời cho tất cả những người vâng phục Ngài,

Giăng 18-19

Chúa Bị Bắt(A)

18 Sau khi cầu xin những điều này, Đức Giê-su cùng các môn đệ băng qua khe Kít-rôn, tại đó có một khu vườn, Ngài và các môn đệ vào khu vườn.

Giu-đa, kẻ phản nộp Ngài cũng biết chỗ này, vì Chúa thường họp với các môn đệ tại đó. Giu-đa dẫn một đội lính và một số thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-si vào vườn, mang theo đèn đuốc và khí giới.

Đức Giê-su đã biết mọi việc sắp xảy đến cho Ngài, nên bước ra hỏi họ: “Các ngươi tìm ai?”

Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Ngài trả lời: “Chính Ta đây.” Giu-đa, kẻ phản nộp Ngài, cũng đang đứng đó với họ. Nghe Ngài bảo: “Chính Ta đây,” họ giật lùi, ngã nhào xuống đất.

Ngài lại hỏi họ một lần nữa: “Các ngươi tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.”

Đức Giê-su đáp: “Ta đã bảo các ngươi, chính Ta đây. Nếu các ngươi tìm bắt Ta hãy để những người này đi.” Việc này nhằm ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha ban cho Con, Con không để mất một ai cả.”

10 Si-môn Phê-rơ sẵn có thanh gươm, nên rút ra chém đứt vành tai bên phải của Man-chu, đầy tớ của vị trưởng tế.

11 Đức Giê xu bảo Phê-rơ: “Hãy nạp gươm vào vỏ; chén Cha đã ban cho Ta, Ta không uống sao?”

Bị Giải Đến An-ne

12 Thế rồi, đội lính và viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của giới chức Do Thái bắt Đức Giê-su trói lại. 13 Họ giải Ngài đến An-ne trước, vì ông là nhạc phụ của Cai-pha, vị trưởng tế đương nhiệm. 14 Chính Cai-pha trước đây đã bàn với giới thẩm quyền Do Thái: “Thà để một người chết thay cho toàn dân vẫn hơn.”

Phê-rơ Chối Chúa(B)

15 Si-môn Phê-rơ và một môn đệ nữa đi theo Ngài. Môn đệ kia nhờ quen biết vị trưởng tế nên vào được trong sân dinh với Đức Giê-su, 16 còn Phê-rơ đứng ngoài cửa. Môn đệ quen biết vị trưởng tế ra nói với cô gái giữ cửa, rồi đưa Phê-rơ vào trong.

17 Cô gái giữ cửa hỏi Phê-rơ: “Ngươi cũng thuộc nhóm môn đệ của người ấy phải không?” Phê-rơ trả lời: “Không phải tôi!”

18 Các gia nhân và đám thuộc hạ đốt một đống lửa rồi đứng sưởi vì trời giá lạnh; Phê-rơ cũng đứng sưởi với họ.

Vị Trưởng Tế Tra Hỏi Chúa Giê-su(C)

19 Vị trưởng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ của Ngài và những giáo lý Ngài dạy dỗ.

20 Đức Giê-su đáp: “Ta đã tuyên bố công khai cho cả thiên hạ. Ta thường dạy dỗ trong các hội đường hay trong đền thờ, nơi tập họp của người Do Thái. Ta chẳng nói điều gì lén lút cả. 21 Sao ông lại hạch hỏi Ta? Hãy tra hỏi những người nghe Ta, xem Ta bảo họ những gì. Chính họ biết rõ những điều Ta dạy dỗ.”

22 Nghe Đức Giê-su nói vậy, một tên thuộc hạ đang đứng bên cạnh vả mặt Ngài mắng rằng: “Sao ngươi dám trả lời vị trưởng tế như vậy?”

23 Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta sai, hãy chỉ ra Ta sai chỗ nào, còn nếu Ta nói phải, sao lại đánh Ta?” 24 Rồi An-ne sai giải Đức Giê-su vẫn còn bị trói, sang trưởng tế Cai-pha.

Phê-rơ Lại Chối Chúa(D)

25 Đang khi Si-môn Phê-rơ đứng sưởi tại đó, mấy người kia hỏi: “Ngươi cũng thuộc nhóm môn đệ của ông ta phải không?” Nhưng Phê-rơ chối: “Không phải tôi!”

26 Một gia nhân của vị trưởng tế, có họ hàng với người bị Phê-rơ chém đứt tai, nói: “Chính ta đã chẳng thấy ngươi ở trong khu vườn với ông ta đó sao!” 27 Phê-rơ lại chối một lần nữa; tức thì gà gáy.

Gặp Phi-lát(E)

28 Chúng giải Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh thống đốc. Lúc ấy trời còn sớm. Họ không dám vào trong dinh vì sợ bị ô uế, không ăn lễ Vượt Qua được. 29 Cho nên Phi-lát đi ra bên ngoài hỏi: “Các ngươi tố cáo người này tội gì?”

30 Họ trả lời: “Nếu hắn không làm ác, chúng tôi đã chẳng giải đến nộp quan.”

31 Phi-lát bảo họ: “Thế thì hãy chiếu luật của các ngươi mà xử tội hắn đi!” Những người Do Thái thưa lại: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai hết.” 32 Việc này xảy ra để ứng nghiệm điều Đức Giê-su đã bảo trước Ngài phải chết cách nào.

33 Phi-lát trở vào trong dinh gọi Đức Giê-su hỏi: “Có phải ngươi là Vua dân Do Thái không?”

34 Đức Giê-su trả lời: “Ông hỏi Ta như vậy hay có ai trình với ông về Ta?”

35 Phi-lát nói: “Ta là người Do Thái sao? Dân tộc ngươi và các thượng tế đã nộp ngươi cho ta. Ngươi đã làm gì vậy?”

36 Đức Giê-su đáp: “Vương quốc Ta không thuộc thế gian này. Nếu vương quốc Ta thuộc thế gian này, các môn đệ Ta đã chiến đấu để Ta khỏi bị nộp vào tay người Do Thái. Không, vương quốc Ta không thuộc thế gian này.”

37 Phi-lát liền hỏi Ngài: “Vậy ngươi là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ông vừa bảo Ta là vua. Lý do Ta được sinh ra và lý do Ta đến thế gian này là để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe theo tiếng Ta.”

38 Phi-lát hỏi: “Chân lý là gì?” Nói xong, Phi-lát trở ra bên ngoài bảo các người Do Thái: “Ta không tìm được lý do nào để buộc tội người này cả. 39 Nhưng theo tục lệ của các ngươi, ta thường phóng thích cho các ngươi một tù nhân trong dịp lễ Vượt Qua này. Các ngươi muốn ta phóng thích vua dân Do Thái cho các ngươi không?”

40 Họ lại la lớn phản đối: “Không, đừng tha hắn. Xin tha cho Ba-ra-ba.” Ba-ra-ba là một tên cướp.

Phi-lát Tra Vấn Chúa

19 Đoạn Phi-lát ra lệnh giải Đức Giê-su đi và sai đánh đòn Ngài. Quân lính bện một mão gai đội lên đầu Ngài, khoác áo choàng màu đỏ sẫm[a] cho Ngài; rồi lần lượt tiến đến trước Ngài chế giễu: “Muôn tâu vua Do Thái.” Họ cũng vả vào mặt Ngài.

Phi-lát bước ra ngoài một lần nữa, nói với đoàn dân: “Này ta sẽ đưa người ấy ra đây cho các ngươi biết ta không tìm được lý do nào để tuyên án cả.” Thế là Đức Giê-su bị giải ra, đầu đội mão gai, mình khoác áo đỏ sẫm. Phi-lát bảo họ: “Kìa, hãy nhìn người này.”

Vừa khi các thượng tế và đám thuộc hạ thấy Ngài, họ la hét: “Đóng đinh hắn! Đóng đinh hắn!” Phi-lát bảo: “Thế thì các ngươi tự bắt người mà đóng đinh đi. Ta không thấy người này có tội gì cả.”

Đám đông la ó: “Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết, vì hắn tự cho mình là Con Đức Chúa Trời.”

Phi-lát nghe như thế càng thêm sợ hãi.

Ông ta trở vào nội điện, hỏi Đức Giê-su: “Ngươi từ đâu đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Phi-lát nói với Ngài: “Ngươi không chịu nói với ta sao? Hãy nhớ là ta có quyền tha mạng hay đóng đinh ngươi.”

11 Đức Giê-su trả lời: “Ông chỉ có quyền trên Ta khi Đức Chúa Trời ban cho ông quyền đó. Vì vậy người nộp Ta cho ông còn nặng tội hơn.”

12 Từ đấy, Phi-lát tìm cách tha Đức Giê-su, nhưng đám người Do Thái la hét: “Nếu thống đốc tha hắn thì thống đốc không phải là bạn của Sê-sa. Bất kỳ người nào tự xưng là vua đều chống nghịch Sê-sa.”

13 Khi Phi-lát nghe những lời này, ông đưa Đức Giê-su ra ngoài, và ngồi xử tại chỗ gọi là Nền Lát Đá (tiếng Do Thái là Ga-ba-tha). 14 Hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của Lễ Vượt Qua, khoảng giữa trưa. Phi-lát nói với dân chúng: “Nhìn đây, Vua của các ngươi.”

15 Họ gào thét: “Đóng đinh hắn đi!” Phi-lát hỏi họ: “Các ngươi muốn ta đóng đinh Vua của các ngươi sao?” Các thượng tế trả lời: “Chúng tôi không có một vua nào ngoài Sê-sa.”

16 Vậy, Phi-lát giao Đức Giê-su cho họ đóng đinh.

Đức Giê-su Bị Đóng Đinh(F)

Họ liền giải Đức Giê-su đi.

17 Ngài đi ra, vác cây thập tự đi đến chỗ tên là Cái Sọ, tiếng Do Thái gọi là Gô-gô-tha. 18 Tại đó, họ đóng đinh Ngài. Họ cũng đóng đinh hai người khác hai bên, còn Đức Giê-su ở chính giữa.

19 Phi-lát cho viết một tấm bảng treo lên cây thập tự, ghi rằng: “GIÊ-SU NGƯỜI NA-XA-RÉT, VUA DÂN DO THÁI.” 20 Nhiều người Do Thái đọc bảng này vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh gần thành phố. Bảng này được ghi bằng các thứ tiếng Do Thái, La Tinh và Hy Lạp. 21 Các thượng tế thưa cùng Phi-lát: “Xin đừng ghi ‘Vua dân Do Thái’ nhưng đổi lại ‘Người này nói: Ta là Vua Do Thái.’ ”

22 Phi-lát trả lời: “Điều ta đã viết đã được viết rồi.”

23 Toán lính đóng đinh Đức Giê-su xong, lấy quần áo Ngài chia làm bốn phần, mỗi người một phần. Còn áo trong của Ngài, vì dệt nguyên tấm, không có đường may, nên họ bảo nhau:

24 “Đừng xé áo ra nhưng chúng ta hãy bắt thăm xem ai được.” Như vậy để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:

“Chúng chia nhau quần áo tôi
    Và bắt thăm lấy áo trong của tôi.”[b]

Bọn lính đã làm đúng những điều đó.

25 Mẹ của Đức Giê-su và dì của Ngài, Ma-ri vợ của Cơ-lê-ô-ba, cùng Ma-ri Ma-đơ-len đứng gần cây thập tự của Chúa. 26 Đức Giê-su thấy mẹ Ngài và môn đệ Ngài yêu quý đứng đó thì thưa với mẹ: “Xin mẹ nhận người này làm con, hãy nhìn con trai của bà!” 27 Rồi Ngài bảo môn đệ ấy: “Hãy nhìn mẹ của con!” Từ lúc ấy, môn đệ này rước bà về ở với mình.

28 Đức Giê-su biết mọi việc đã hoàn tất để ứng nghiệm Kinh Thánh thì bảo: “Ta khát.” 29 Tại đó có một bình đầy giấm,[c] nên người ta lấy một miếng bọt biển nhúng giấm, gắn vào đầu một cành bài hương đưa lên tận miệng Ngài. 30 Sau khi nếm giấm, Đức Giê-su thốt lên: “Xong rồi.” Đoạn, Ngài gục đầu xuống, trút linh hồn.

31 Vì hôm đó nhằm ngày Chuẩn Bị lễ Vượt Qua, các nhà lãnh đạo Do Thái không muốn xác chết còn trên cây thập tự trong ngày Sa-bát, và vì là ngày Sa-bát trọng đại, nên họ xin Phi-lát cho đánh gãy ống chân những người bị đóng đinh để hạ xác xuống. 32 Quân lính đến đánh gãy ống chân người thứ nhất, rồi đến người kế đang cùng bị đóng đinh với Ngài. 33 Khi đến gần Đức Giê-su, thấy Ngài đã chết rồi, họ không đánh gãy chân Ngài. 34 Nhưng một tên lính lấy giáo đâm vào hông Ngài, tức thì máu và nước chảy ra. 35 Người chứng kiến việc này đã làm chứng. Lời chứng của người là xác thực và người ấy biết mình nói sự thật để anh chị em cũng tin. 36 Những điều này hoàn thành để ứng nghiệm lời Kinh Thánh:

“Không một cái xương nào của Người bị gãy.”[d] 37 Và một câu Kinh Thánh khác cũng chép:

“Người ta sẽ nhìn xem Người họ đã đâm.”[e]

Chôn Đức Giê-su(G)

38 Sau đó Giô-sép, người A-ri-ma-thê, —là môn đệ kín giấu của Đức Giê-su vì sợ người Do Thái—đến xin Phi-lát cho đem xác Đức Giê-su về. Phi-lát cho phép nên ông đến lấy xác Ngài. 39 Ni-cô-đem, người trước kia đã đến thăm Đức Giê-su ban đêm, cùng đi với Giô-sép, mang theo khoảng một trăm cân[f] nhựa thơm trộn với lô hội. 40 Hai người đưa xác Đức Giê-su về liệm bằng vải gai tẩm hương liệu theo tục lệ ướp xác của người Do Thái. 41 Tại khu vườn nơi Đức Giê-su bị đóng đinh, có một hang mộ mới chưa đặt xác ai. 42 Vì hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của người Do Thái và ngôi mộ lại ở gần, nên họ đặt xác Ngài tại đó.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)