Old/New Testament
Y-sơ-ra-ên Được Chúa Giúp
41 “Hỡi các hải đảo, hãy im lặng trước mặt Ta.
Hãy để cho các nước phục hồi năng lực;
Hãy để chúng đến gần và nói đi.
Chúng ta hãy cùng nhau đến gần để tranh cãi.[a]
2 Ai đã đánh thức người[b] từ phương đông?
Trong sự công chính, kêu gọi người đến chân mình?
Trao các nước cho người,
Chà đạp các vua dưới chân.
Trao phó chúng nó cho gươm người như bụi đất?
Phó chúng nó cho cung người như rơm rác gió thổi bay đi?
3 Người săn đuổi chúng, vượt qua một cách an toàn
Con đường mà chân ngươi chưa hề bước đến.
4 Ai đã thực hiện và làm điều này?
Ai đã gọi các thế hệ từ ban đầu?
Chính Ta là CHÚA, là đầu tiên và cũng sẽ hiện diện
Cho đến cuối cùng. Chính Ta là Đấng ấy.”
5 Các hải đảo thấy và sợ hãi,
Các đầu cùng trái đất run rẩy;
Chúng tiến lại gần và đến.
6 Mỗi người giúp kẻ lân cận mình
Và nói với anh em mình: “Hãy can đảm lên.”
7 Thợ mộc khuyến khích thợ vàng;
Thợ gò bằng búa
Khích lệ thợ đập đe;
Thợ hàn lại bảo: “Thế là tốt;”
Rồi họ dùng đinh đóng để nó khỏi ngã.
8 “Nhưng ngươi, hỡi Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta.
Hỡi Gia-cốp, kẻ ta chọn lựa;
Là dòng dõi Áp-ra-ham, bạn Ta.
9 Ta đã nắm lấy ngươi từ đầu cùng trái đất,
Kêu gọi ngươi từ các góc đất,
Và bảo ngươi: ‘Ngươi là tôi tớ Ta,’
Ta đã chọn ngươi và không bỏ ngươi.
10 Đừng sợ vì Ta ở cùng ngươi.
Chớ kinh hoàng vì Ta là Đức Chúa Trời ngươi.
Ta sẽ thêm sức cho ngươi, giúp đỡ ngươi.
Ta sẽ gìn giữ ngươi bằng tay phải công chính[c] của Ta.
11 Này, tất cả những kẻ giận ngươi
Sẽ bị hổ thẹn và nhục nhã.
Những kẻ chống nghịch ngươi
Sẽ như không và bị hủy diệt.
12 Những kẻ tranh đấu chống lại ngươi,
Ngươi sẽ tìm chúng nhưng không thấy.
Những kẻ tranh chiến nghịch cùng ngươi
Sẽ như không có gì cả.
13 Vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,
Đấng nắm tay phải ngươi
Và phán cùng ngươi: Đừng sợ,
Chính Ta sẽ giúp đỡ ngươi.
14 Hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người[d] Y-sơ-ra-ên: Đừng sợ.
Ta sẽ giúp đỡ ngươi.”
Ngài là Đấng cứu chuộc ngươi,
Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, CHÚA phán như thế.
15 “Này, Ta sẽ làm cho ngươi thành một công cụ đập lúa mới,
Bén và có nhiều răng.
Ngươi sẽ đập các núi và đánh tan chúng.
Ngươi sẽ làm các đồi trở thành như rơm rạ.[e]
16 Ngươi sẽ sàng sảy chúng rồi gió thổi đi;
Một cơn gió lốc sẽ làm chúng tan tác.
Còn ngươi sẽ vui mừng trong CHÚA;
Và tôn vinh trong Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
17 Những kẻ nghèo nàn và thiếu thốn tìm kiếm nước
Nhưng không có;
Lưỡi họ khô vì khát.
Ta là CHÚA, sẽ đáp lời chúng;
Ta là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ không từ bỏ họ.
18 Ta sẽ làm cho các sông chảy ra trên đồi trọc;
Các suối ở giữa những thung lũng;
Biến sa mạc thành hồ nước;
Đất khô hạn thành những mạch nước.
19 Ta sẽ trồng cây tùng, cây xiêm,
Cây hải đào và cây ô-liu trong sa mạc.
Ta sẽ trồng chung với nhau trong sa mạc
Cây thông, cây huyền và cây bách.
20 Để người ta thấy và biết,
Để cùng nhau suy gẫm và hiểu rằng:
Bàn tay CHÚA đã làm điều này
Và Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã sáng tạo nó.”
21 CHÚA phán: “Hãy trình vụ kiện của các ngươi.”
Vua của Gia-cốp phán: “Hãy đưa ra những lý lẽ hùng biện.”
22 “Hãy để chúng đến[f]
Và nói cho chúng ta biết điều gì sẽ xảy đến.
Hãy nói cho chúng ta biết những điều đã xảy ra từ trước
Để chúng ta suy tư
Và biết kết cục của chúng;
Hãy công bố cho chúng ta biết những việc sẽ đến.
23 Hãy nói cho chúng ta biết những điều sẽ xảy ra sau này
Để chúng ta biết các ngươi là các thần.
Phải, hãy ban phước hay giáng họa[g] đi
Để chúng ta kinh ngạc hay cùng nhau chiêm ngưỡng.[h]
24 Này, các ngươi chẳng ra gì;
Công việc của các ngươi là vô ích;
Kẻ chọn các ngươi là ghê tởm.
25 Ta đã đánh thức người từ phương bắc; người đã đến.
Từ phương đông, người đã kêu cầu danh Ta.
Người chà đạp[i] những kẻ lãnh đạo như bùn đất;
Như thợ gốm nặn đất sét.
26 Ai đã nói điều đó từ ban đầu để chúng ta biết?
Ai đã bảo từ trước để chúng ta nói rằng: ‘Người là đúng.’
Không ai nói điều gì,
Không ai công bố gì,
Không ai nghe tiếng nào từ các ngươi cả.
27 Việc đầu tiên là đối với Si-ôn,[j] hãy nhìn xem, hãy nhìn xem chúng
Và Ta sẽ sai một người báo tin mừng đến Giê-ru-sa-lem.
28 Ta tìm xem nhưng không có ai,
Không một cố vấn nào giữa vòng những người này
Để khi Ta hỏi, họ có thể đáp một lời.
29 Kìa, tất cả chúng nó đều là hư ảo,
Công việc chúng nó là hư không;
Hình tượng chúng nó là gió và trống không.”
Đầy Tớ CHÚA
42 “Đây[k] là tôi tớ Ta, người Ta nâng đỡ,
Ta đã chọn và linh hồn Ta vui thích.
Ta đã đặt thần Ta trên người,
Người sẽ đem lại công bình[l] cho các nước.
2 Người sẽ chẳng khóc lóc, kêu la;
Không để ngoài đường phố nghe tiếng mình.
3 Người sẽ không bẻ gẫy cây sậy đã giập,
Không dập tắt tim đèn gần tàn.
Người sẽ trung kiên đem lại công bình.[m]
4 Người sẽ không kiệt sức, cũng chẳng ngã lòng
Cho đến khi thiết lập công bình trên đất.
Các hải đảo trông đợi luật pháp của người.”
5 Đức Chúa Trời, tức là CHÚA,
Đấng sáng tạo các tầng trời và giương ra;
Đấng trải đất và các vật đến từ đất ra;
Đấng ban hơi thở cho dân trên ấy
Và thần linh cho những người bước đi trên đó, phán như vầy:
6 Ta là CHÚA, Ta đã gọi ngươi trong sự công chính.
Ta sẽ nắm tay ngươi,
Gìn giữ ngươi. Ta sẽ lập ngươi
Làm giao ước của dân,
Làm ánh sáng cho các nước.
7 Để mở mắt cho những kẻ mù;
Đem tù nhân ra khỏi ngục tối;
Đem những kẻ ngồi nơi tối tăm ra khỏi nhà tù.
8 “Ta là CHÚA, ấy là Danh Ta.
Ta sẽ không ban vinh quang của Ta cho ai khác,
Cũng không nhường sự ca ngợi Ta cho các tượng thần.
9 Kìa, những điều trước tiên đã ứng nghiệm,
Và Ta công bố cho các ngươi những điều mới;
Trước khi chúng xảy ra,
Ta bảo trước cho các ngươi biết.”
Thánh Ca Ngợi Khen
10 Hãy hát cho CHÚA một bài ca mới.
Những lời ca tụng Ngài đến từ đầu cùng trái đất.
Các ngươi là những người đi biển[n] cùng các sinh vật trong biển;
Các hải đảo và dân cư trên ấy.
11 Hỡi sa mạc và các thành trong ấy hãy cất tiếng lên,
Hỡi các làng nơi Kê-đa tọa lạc,
Hỡi dân cư Sê-la hãy vui mừng ca hát,
Hãy reo hò từ các đỉnh núi.
12 Hãy dâng vinh quang cho CHÚA,
Hãy công bố sự ca ngợi nơi các hải đảo.
13 CHÚA tiến lên như dũng sĩ,
Như chiến sĩ giục lòng hăng say.
Ngài thét lên, phải, Ngài hô lớn;
Ngài anh dũng chiến thắng các kẻ thù.
14 “Ta đã giữ im lặng từ lâu,
Ta đã nín lặng và tự kiềm chế mình.
Nhưng bây giờ Ta rên la, Ta thở hổn hển,
Đứt quãng như đàn bà sinh đẻ.
15 Ta sẽ làm cho đồi núi hoang vu,
Tất cả cây cỏ khô héo.
Ta sẽ làm sông ngòi thành những đảo,
Ao hồ đều khô cạn.
16 Ta sẽ dắt những kẻ mù bằng con đường mà chúng chưa biết;
Dẫn họ đi trên các nẻo mà chúng chưa hay.
Ta sẽ biến bóng tối trước mặt họ thành ánh sáng,
Những nơi gồ ghề thành bằng phẳng.
Ta sẽ làm những việc này
Và không bỏ qua.
17 Còn những kẻ tin tưởng thần tượng,
Những người nói với tượng đúc rằng: Các ngài là thần của chúng tôi,
Đều sẽ bị thối lui và hoàn toàn hổ thẹn.
18 Hỡi những kẻ điếc, hãy nghe;
Hỡi những kẻ mù, hãy nhìn để thấy.
19 Ai là người mù? Nếu không phải là tôi tớ của Ta.
Ai là người điếc như sứ giả Ta sai đi?
Ai là người mù như người tận hiến[o] cho ta?
Mù loà như tôi tớ CHÚA?
20 Người nhìn nhiều điều nhưng không chú ý,
Tai người mở ra nhưng không nghe.”
21 CHÚA, vì sự công chính của mình,
Vui lòng làm cho Kinh Luật vĩ đại và vinh quang.
22 Nhưng ấy là một dân bị cướp giật, bị chiếm đoạt.
Tất cả chúng nó đều bị sập hố,
Bị nhốt trong ngục sâu.
Chúng trở thành con mồi
Nhưng không ai giải cứu,
Thành vật bị cướp đoạt
Nhưng không ai nói: “Hãy trả lại đây.”
23 Ai trong vòng các ngươi sẽ lắng tai nghe điều này?
Ai sẽ chú ý và lắng nghe từ nay về sau?
24 Ai đã trao Gia-cốp cho kẻ chiếm đoạt
Và phó Y-sơ-ra-ên cho kẻ cướp?
Không phải CHÚA là Đấng
Mà chúng ta phạm tội nghịch cùng sao?
Đường lối Ngài chúng nó chẳng đi theo
Và Kinh Luật Ngài chúng nó không tuân giữ.
25 Cho nên Ngài đổ cơn thịnh nộ
Và chiến tranh dữ dội trên nó.
Lửa cháy xung quanh nhưng nó không biết;
Lửa thiêu đốt nó nhưng nó vẫn không để tâm đến.
Lời Chào Thăm
1 Chúng tôi là Phao-lô, Sinh-vanh và Ti-mô-thê,
Kính gửi Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca ở trong Đức Chúa Trời, là Cha và ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su.[a] Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng và bình an.[b]
Đức Tin Và Gương Tốt
2 Chúng tôi hằng cảm tạ Đức Chúa Trời về tất cả anh chị em, thường nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. 3 Trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, chúng tôi nhớ đến công việc anh chị em làm do đức tin, lao khổ anh chị em chịu vì tình yêu thương và lòng kiên trì của anh chị em nhờ hy vọng nơi Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta.
4 Thưa anh chị em, là những người được Đức Chúa Trời yêu quý, chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em. 5 Vì Phúc Âm chúng tôi đã truyền cho anh chị em không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng quyền năng, nhờ Đức Thánh Linh và đầy lòng tin quyết. Anh chị em biết rõ, khi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã sống như thế nào để lợi ích cho anh chị em.
6 Anh chị em cũng đã bắt chước chúng tôi và theo gương Chúa. Dù gặp nhiều hoạn nạn, anh chị em đã đón tiếp Lời Chúa với niềm vui của Đức Thánh Linh. 7 Vì vậy anh chị em trở thành gương tốt cho tất cả tín hữu ở miền Ma-xê-đoan và A-chai. 8 Thật vậy, từ nơi anh chị em Lời Chúa đã vang ra không những ở miền Ma-xê-đoan và A-chai mà thôi nhưng niềm tin anh chị em đặt nơi Đức Chúa Trời cũng được lan truyền khắp mọi nơi, cho nên chúng tôi không cần phải nói thêm gì nữa. 9 Vì chính họ thuật lại thể nào anh chị em đã tiếp đón chúng tôi, thể nào anh chị em đã quay về với Đức Chúa Trời và từ bỏ thần tượng để phục vụ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, 10 Và để chờ đợi Con Ngài từ trên trời là Con mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng giải cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)