Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Giô-suê 14-15

Chia Đất Phía Tây Sông Giô-đanh

14 Đây là địa phận mà dân Y-sơ-ra-ên nhận làm cơ nghiệp trong đất Ca-na-an, theo sự phân chia của thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Họ bắt thăm chia đất cho chín bộ tộc rưỡi như CHÚA đã dùng Môi-se truyền bảo. Môi-se đã cấp cơ nghiệp cho hai bộ tộc rưỡi tại phía đông sông Giô-đanh nhưng không cấp cơ nghiệp nào cho người Lê-vi cả, vì dòng dõi của Giô-sép đã trở thành hai bộ tộc là Ma-na-se và Ép-ra-im. Người Lê-vi không nhận được phần đất nào nhưng chỉ được các thành để cư trú và các đồng cỏ cho bày bò bày chiên của họ. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên chia đất đúng như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.

Ca-lép Được Đất Hếp-rôn

Lúc ấy, người Giu-đa đến gần Giô-suê tại Ghinh-ganh, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít nói: “Ông biết điều CHÚA đã phán về tôi và về ông qua Môi-se, người của Đức Chúa Trời, tại Ca-đê Ba-nê-a. Khi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, ở Ca-đê Ba-nê-a sai tôi đi thám sát đất nước này, tôi được bốn mươi tuổi. Tôi trở về báo cáo cách trung thực đúng theo lòng tôi, nhưng các anh em tôi là những người cùng đi với tôi đã làm cho lòng dân rã rời chán nản. Tuy nhiên, tôi đã hết lòng theo CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi. Hôm ấy, Môi-se đã thề với tôi: ‘Vùng đất nào bàn chân ngươi đạp đến sẽ là cơ nghiệp của ngươi và con cháu ngươi đời đời, vì ngươi đã hết lòng theo CHÚA là Đức Chúa Trời ta.’

10 Đúng như lời CHÚA đã phán hứa, Ngài đã gìn giữ tôi còn sống suốt bốn mươi lăm năm từ lúc Ngài phán dạy Môi-se điều ấy suốt thời gian Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong sa mạc; CHÚA đã bảo tồn mạng sống tôi cho đến bây giờ, và ngày nay tôi được tám mươi lăm tuổi. 11 Ngày nay tôi vẫn còn mạnh khỏe như ngày Môi-se sai tôi ra đi; tôi vẫn còn tràn đầy sinh lực xung phong ra trận như ngày trước. 12 Bây giờ xin ông cấp cho tôi xứ đầy đồi núi này mà CHÚA đã hứa ban cho tôi hôm ấy. Chính ông đã nghe báo cáo rằng dân khổng lồ A-na-kim vẫn còn ở đó, và các thành của họ đều rộng lớn và kiên cố, nhưng nhờ CHÚA giúp đỡ, tôi sẽ đánh đuổi chúng ra như Ngài đã phán.” 13 Giô-suê bèn chúc phước cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và cấp cho ông miền Hếp-rôn làm cơ nghiệp. 14 Vậy, Hếp-rôn thuộc quyền sở hữu của Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, từ đó đến nay, vì người đã hết lòng theo CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 15 (Hếp-rôn vốn được gọi là Ki-ri-át A-ra-ba, theo tên của A-ra-ba, là người khổng lồ nổi danh nhất trong vòng người A-na-kim).

Từ đó, đất nước được thái bình, không còn chiến tranh.

Chia Đất Cho Giu-đa

15 Phần đất chia cho bộ tộc Giu-đa theo từng gia tộc, trải dài đến lãnh thổ Ê-đôm và tận sa mạc Xin ở miền cực nam.

Địa giới miền nam bắt đầu từ vịnh ở phía nam, cuối Biển Mặn, vượt qua phía nam đèo Bò-cạp, thẳng đến Xin, vòng lên phía nam Ca-đê Ba-nê-a, đi ngang Hết-rôn lên đến A-đa, vòng quanh Cát-ca, chạy dọc Át-môn, đổ vào suối Ai-cập rồi chấm dứt ở bờ biển. Đây là địa giới phía nam.

Địa giới phía đông là Biển Mặn cho đến vàm sông Giô-đanh.

Địa giới phía bắc khởi từ vịnh Biển Mặn ở vàm sông Giô-đanh, lên Bết Hốt-la, đi về phía bắc Bết A-ra-ba đến tảng đá Bô-han (tên con trai của Ru-bên). Đến đây, địa giới lên Đê-bia, từ thung lũng A-cô quay về hướng bắc đến Ghinh-ganh, đối ngang đèo A-đu-mim phía nam dòng suối; chạy dọc theo mé nước Ên-sê-mết, giáp Ên-rô-ghên; từ đó chạy lên thung lũng Bên Hi-nôm, dọc theo triền núi trên thành Giê-bu (tức là Giê-ru-sa-lem); leo lên đỉnh đồi phía tây thung lũng Hi-nôm tại điểm cuối phía bắc của thung lũng Rê-pha-im. Từ đỉnh đồi, địa giới hướng về suối nước Nép-thô-ách, giáp các thành trên núi Ếp-rôn rồi xuống hướng Ba-la (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim); 10 từ Ba-la vòng qua hướng tây đến núi Sê-i-rơ, chạy dọc triền phía bắc ngọn núi Giê-a-rim (tức là Kê-sa-lôn), xuống thẳng tới Bết Sê-mết và vượt qua Thim-na. 11 Địa giới chạy về triền núi phía bắc của Éc-rôn, quay về phía Siếc-rôn, đi dọc theo núi Ba-la đến tận Giáp-nê-ên rồi giáp biển.

12 Địa giới phía tây là bờ Biển Lớn.

Đó là địa giới bao quanh đất của người Giu-đa, theo từng gia tộc.

13 Theo lệnh CHÚA, Giô-suê cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, một phần đất giữa người Giu-đa: Ki-ri-át A-ra-ba tức là Hếp-rôn (A-ra-ba là tổ phụ của A-nác). 14 Ca-lép đánh đuổi ra khỏi Hếp-rôn ba người khổng lồ A-na-kim là Sê-nai, A-hi-man và Thanh-mai đều là con của A-nác. 15 Từ đó, ông lên đánh dân thành Đê-bia (trước kia gọi là Ki-ri-át Sê-phe). 16 Ca-lép nói: “Ta sẽ gả Ạc-sa, con gái ta, cho người nào tấn công và chiếm được Ki-ri-át Sê-phe.” 17 Ốt-ni-ên, con trai Kê-na (Kê-na là em Ca-lép), chiếm được thành nên Ca-lép gả Ạc-sa, con gái mình, cho Ốt-ni-ên làm vợ.

18 Khi về nhà Ốt-ni-ên, nàng thúc giục chồng xin cha mình cho một đám ruộng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn cha giúp con điều chi?” 19 Nàng thưa: “Xin cha cho con một ân huệ. Vì cha đã cho con đất ở miền nam nên xin cha cũng cho con luôn các suối nước.” Vậy, Ca-lép cho nàng các dòng suối trên và dưới.

20 Đây là cơ nghiệp của bộ tộc Giu-đa theo từng gia tộc:

21 Các thành cực nam đất Giu-đa giáp ranh Ê-đôm tại nam bộ là:

Cáp-sê-ên, Ê-đê, Gia-gua, 22 Ki-na, Đi-mô-na, A-đê-a-đa, 23 Kê-đe, Hát-so, Gít-nan, 24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, 25 Hát-so Ha-đa-tha, Kê-ri-giốt Hết-rôn (tức là Hát-so), 26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, 27 Hát-sa-ga-đa, Hết-môn, Bết Pha-lê, 28 Hát-sa Su-anh, Bê-e Sê-ba, Bi-sốt-gia, 29 Ba-la, Y-đim, Ê-xem, 30 Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma, 31 Xiếc-lác, Mát-ma-na, San-sa-na, 32 Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in, và Rim-môn: cộng lại là hai mươi chín thành với các làng phụ cận.

33 Tại miền chân núi phía tây:

Ết-tha-ôn, Xô-rê-a, Át-na, 34 Xa-nô-ách, Ên Ga-nim, Tháp-bu-ách, Ê-nam, 35 Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ka, 36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, Ghê-đê-ra và Ghê-đê-rô-tha-im: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.

37 Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh Gát, 38 Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên, 39 La-ki, Bốt-cát, Éc-lôn, 40 Cáp-bôn, Lách-ma, Kít-lít, 41 Ghê-đê-rốt, Bết Đa-gôn, Na-a-ma và Ma-kê-đa: cộng lại là mười sáu thành với các làng phụ cận.

42 Líp-na, Ê-the, A-san, 43 Díp-tách, Át-na, Nết-síp, 44 Kê-i-la, Ạc-xíp, và Ma-rê-sa: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận.

45 Éc-rôn với các khu định cư và các làng quanh thành; 46 phía tây Éc-rôn, tất cả lãnh thổ quanh vùng Ách-đốt với các làng phụ cận; 47 Ách-đốt với các khu định cư và các làng quanh thành; Ga-xa với các khu định cư và các làng của nó, đến tận dòng suối Ai-cập và bờ Biển Lớn.

48 Trong vùng đồi núi:

Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô, 49 Đa-na, Ki-ri-át Sa-na (tức là Đê-bia), 50 A-náp, Ết-thê-mô, A-nim, 51 Gô-sen, Hô-lôn, Ghi-lô: cộng lại là mười một thành với các làng phụ cận.

52 A-ráp, Ru-ma, Ê-sê-an, 53 Gia-num, Bết Tháp-bu-ách, A-phê-ca, 54 Hum-ta, Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), và Si-lô: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận.

55 Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Gia-ta, 56 Gít-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-ách, 57 Ca-in, Ghi-bê-a và Thim-na: cộng lại là mười thành với các làng phụ cận.

58 Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô, 59 Ma-a-rát, Bết A-nốt và Ên-thê-côn: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận.

60 Ki-ri-át Ba-anh, tức là Ki-ri-át, Giê-a-rim và Ráp-ba: cộng lại là hai thành với các làng phụ cận.

61 Trong sa mạc:

Bết A-ra-ba, Mi-đin, Sê-ca-ca, 62 Níp-san, Yết Ha-mê-lách và Ên-ghê-đi: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận.

63 Người Giu-đa không trục xuất được dân Giê-bu-sít đang ở tại Giê-ru-sa-lem nên người Giê-bu-sít sống chung với người Giu-đa cho đến ngày nay.

Thánh Thi 146-147

Lời Ca Ngợi Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi

146 Ha-lê-lu-gia!
Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi CHÚA.
    Suốt đời, tôi sẽ ca ngợi CHÚA;
    Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ hát ca ngợi Đức Chúa Trời tôi bấy lâu.
Chớ tin cậy vua chúa hay người phàm;
    Ở nơi họ không có sự cứu rỗi.
Khi tâm linh[a] lìa khỏi thân xác[b] thì nó trở về bụi đất;
    Ngay chính ngày ấy, các kế hoạch của nó đều tiêu tan.
Phước cho người nào có Đức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡ
    Và biết trông cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời mình;
Là Đấng tạo nên trời, đất, biển
    Và muôn vật trong biển;
    Ngài gìn giữ sự chân thật[c] đời đời.
Ngài xét xử công bình cho người bị áp bức,
    Ban bánh cho kẻ đói,
CHÚA trả tự do cho người bị tù đày.
    CHÚA mở mắt những kẻ mù;
CHÚA nâng những kẻ phải cúi đầu đứng dậy;
    CHÚA yêu mến những người công chính.
CHÚA bảo vệ kiều dân;
    Nâng đỡ những cô nhi và quả phụ
    Nhưng bẻ gẫy đường lối những kẻ ác.
10 CHÚA sẽ cai trị muôn đời;
    Hỡi Si-ôn, Đức Chúa Trời ngươi sẽ cai trị đời đời.
Ha-lê-lu-gia!

Ca Ngợi Chúa Toàn Năng

147 Ha-lê-lu-gia!
Thật là tốt đẹp khi ca tụng Đức Chúa Trời chúng ta;
    Thật là thích thú và hợp lý khi ca ngợi Ngài.
CHÚA xây dựng Giê-ru-sa-lem;
    Ngài tập họp lại những kẻ tha hương lưu lạc của Y-sơ-ra-ên.
Ngài chữa lành những tấm lòng tan vỡ,
    Băng bó những vết thương của họ.
Ngài định số lượng các tinh tú,
    Đặt tên cho tất cả các ngôi sao.
CHÚA của chúng ta vĩ đại và đầy quyền năng;
    Sự hiểu biết của Ngài thật vô hạn.
CHÚA nâng đỡ những kẻ khốn cùng,
    Nhưng đánh đổ những kẻ ác xuống đất.
Hãy ca hát cảm tạ CHÚA,
    Hãy gảy đàn hạc và ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta.
Ngài che phủ các tầng trời bằng mây,
    Cung cấp mưa trên đất
    Và làm cỏ mọc trên các đồi;
Ngài ban thực phẩm cho thú vật,
    Ngay cả cho các chim quạ con khi chúng kêu la.
10 Chúa không vui vì sức mạnh của ngựa,
    Cũng không thích vì đôi chân mạnh[d] của một người;
11 Nhưng CHÚA vui lòng về người kính sợ Ngài,
    Là người trông cậy nơi tình yêu thương của Ngài.
12 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca tụng CHÚA;
    Hỡi Si-ôn, hãy ca ngợi Đức Chúa Trời ngươi.
13 Vì Ngài làm cho then cổng ngươi vững chắc;
    Chúc phước cho con cái ở giữa ngươi.
14 Ngài cho biên giới ngươi được bình an;
    Đổ đầy cho ngươi thóc lúa tốt nhất.
15 Ngài truyền lệnh ra trên đất;
    Lệnh Ngài được thi hành[e] tức khắc.
16 Ngài cho tuyết phủ như tấm lông chiên;
    Ngài rải sương mai như tro bụi.
17 Ngài đổ băng giá xuống như đá sỏi;
    Ai có thể chịu nổi cơn giá lạnh của Ngài?
18 Ngài truyền lệnh tuyết liền tan ra;
    Ngài làm gió thổi, nước bèn chảy.
19 Ngài truyền lời Ngài cho Gia-cốp,
    Các quy luật và phán quyết cho Y-sơ-ra-ên.
20 Ngài không làm như vậy với một nước nào khác;
    Chúng không hề biết các phán quyết của Ngài.
Ha-lê-lu-gia!

Giê-rê-mi 7

Bài Giảng Tại Đền Thờ

Đây là lời CHÚA truyền cho Giê-rê-mi: “Con hãy đứng tại cổng đền thờ CHÚA loan báo lời này:

‘Hỡi hết thảy những người Giu-đa bước vào các cổng này để thờ phượng CHÚA, hãy lắng nghe lời Ngài.’ ” CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Các ngươi hãy sửa đổi lối sống và việc làm của mình, rồi Ta sẽ cho các ngươi sống tại nơi này. Các ngươi đừng tin cậy những lời giả dối mà tiếp tục rêu rao: ‘Đây là đền thờ CHÚA, đền thờ CHÚA, đền thờ CHÚA!’ Nhưng nếu các ngươi thật lòng sửa đổi lối sống và việc làm mình, nếu các ngươi thật lòng đối xử với nhau cách công bình, nếu các ngươi không hiếp đáp ngoại kiều, cô nhi và quả phụ, nếu các ngươi không làm đổ máu vô tội tại nơi này, nếu các ngươi không đi theo các thần khác để tự chuốc họa vào thân, thì Ta sẽ cho các ngươi sống tại nơi này, trong xứ mà Ta ban cho tổ phụ các ngươi từ nghìn xưa cho đến đời đời. Thế mà các ngươi vẫn tiếp tục tin cậy những lời giả dối, không giúp ích chi.

Các ngươi trộm cắp, giết người, gian dâm, thề dối, cúng tế thần Ba-anh, đi theo các thần khác mà các ngươi chưa hề biết, 10 rồi các ngươi đến đứng trước mặt Ta, tại trong đền thờ này, là nơi mang danh Ta, và nói: ‘Chúng ta an toàn rồi!’—an toàn để tiếp tục làm những việc gớm ghiếc kia ư? 11 Các ngươi xem đền thờ này, là nơi mang danh Ta, như sào huyệt bọn cướp sao? Này, chính Ta đây, Ta đã nhìn thấy hết mọi sự.” Đấy là lời CHÚA.

12 “Các ngươi hãy đi đến Si-lô, nơi Ta đặt danh Ta từ ban đầu, và xem điều gì Ta đã làm cho nó, vì tội ác của dân Y-sơ-ra-ên Ta.” 13 CHÚA phán: “Và bây giờ, vì các ngươi đã làm tất cả những việc ấy, và dù Ta đã nhiều lần khuyên bảo các ngươi, các ngươi không chịu nghe, dù Ta đã kêu gọi các ngươi, các ngươi vẫn không đáp lời Ta, 14 cho nên điều gì Ta đã làm cho Si-lô, Ta cũng sẽ làm cho đền thờ này, là đền thờ mang danh Ta, là đền thờ mà các ngươi tin cậy, và Ta cũng sẽ làm y như vậy cho nơi mà Ta ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi. 15 Và Ta sẽ đuổi các ngươi đi khuất mặt Ta, như Ta đã đuổi hết thảy anh em các ngươi, hết thảy dòng giống Ép-ra-im.

CHÚA Cấm Giê-rê-mi Cầu Thay

16 Về phần con, đừng cầu thay cho dân này. Con cũng đừng vì chúng cất tiếng kêu xin hay cầu khẩn. Con đừng nài nỉ Ta, vì Ta sẽ không nghe con đâu. 17 Con có thấy điều gì chúng nó làm trong các thành xứ Giu-đa, và các đường phố thành Giê-ru-sa-lem không? 18 Con lượm củi, cha nhóm lửa, đàn bà thì nhồi bột làm bánh dâng nữ vương trên trời. Chúng cũng dâng rượu cho các thần khác. Hậu quả đương nhiên là chúng xúc phạm đến Ta.” 19 CHÚA phán hỏi: “Có phải chúng làm cho Ta bị tổn thương, hay chúng tự làm cho chúng bị tổn thương, và do đó chuốc lấy tủi nhục?”

20 Vì thế, CHÚA phán như vầy: “Này, Ta sẽ trút cơn thịnh nộ Ta xuống nơi này, trên người và thú, trên cây cối ngoài đồng và hoa quả của đất. Cơn thịnh nộ Ta sẽ cháy phừng, và không tắt.”

Dân Chúng Không Vâng Lời CHÚA

21 CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: “Hãy dâng tế lễ toàn thiêu kèm với các sinh tế! Hãy ăn thịt sinh tế! 22 Khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, nào Ta có phán bảo hoặc truyền dạy chúng về tế lễ toàn thiêu hoặc sinh tế đâu? 23 Ta chỉ truyền dạy chúng mỗi điều này: ‘Hãy vâng theo tiếng Ta, rồi Ta sẽ là thần các ngươi, và các ngươi là dân Ta. Hãy sống theo trọn đường lối Ta chỉ dạy, để các ngươi được phúc.’ 24 Nhưng chúng không nghe, không chú ý. Chúng sống theo ý riêng, theo lòng gian ác, cứng cỏi của chúng. Chúng đã lùi lại phía sau thay vì tiến tới phía trước. 25 Từ ngày tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập cho đến ngày nay, Ta tiếp tục nhẫn nại sai tất cả các đầy tớ Ta, các tiên tri, đến với chúng. 26 Nhưng chúng cứng cổ, không nghe Ta, không chú ý, lại làm điều ác tệ hơn tổ phụ chúng.

27 Con sẽ nói với chúng mọi điều này, nhưng chúng sẽ không nghe con. Con sẽ gọi chúng, nhưng chúng sẽ không đáp lời con. 28 Con hãy nói với chúng: ‘Đây là một dân không chịu vâng theo tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời mình, cũng không chịu sửa sai. Lòng thành tín đã tiêu tan, đã biến mất trên môi miệng chúng.’ ”

Tội Ác Tại Thung Lũng Hin-nôm

29 Hãy cạo đầu, vứt tóc! Hãy cất tiếng khóc than trên các đồi trọc! Vì CHÚA đã từ, Ngài đã bỏ thế hệ chọc Ngài giận.

30 CHÚA phán: “Vì dân Giu-đa đã làm điều ác trước mặt Ta, chúng đã đặt những vật gớm ghiếc ngay trong đền thờ mang dang Ta, do đó, làm ô uế đền thờ. 31 Chúng tiếp tục xây miếu tại Tô-phết, trong thung lũng Ben Hin-nôm, để thiêu con trai và con gái chúng trong lửa. Đó là điều Ta chẳng hề truyền dạy, cũng chẳng hề nghĩ đến.” 32 CHÚA phán: “Vì thế cho nên sẽ có ngày không ai còn nhắc đến Tô-phết hoặc thung lũng Ben Hin-nôm nữa, nhưng chỉ nói đến thung lũng Tàn Sát, vì họ sẽ chôn người chết tại Tô-phết cho đến khi không còn chỗ để chôn nữa. 33 Xác của dân này sẽ trở thành thức ăn cho chim trời và thú rừng, và không có ai đuổi chúng đi. 34 Và trong các thành xứ Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ chấm dứt tiếng vui mừng rộn rã, tiếng chú rể và cô dâu, vì đất nước sẽ điêu tàn.”

Ma-thi-ơ 21

Chúa Vào Giê-ru-sa-lem(A)

21 Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, vào làng Bết-pha-giê trên núi Ô-liu. Bấy giờ Ngài phái hai môn đệ đi và bảo: “Hãy vào làng ở phía trước mặt, các con sẽ thấy ngay một con lừa mẹ bị buộc và một lừa con bên cạnh, hãy tháo dây và dẫn về đây cho Ta. Nếu có ai hỏi gì, các con hãy nói: ‘Chúa cần chúng.’ Người ấy sẽ để các con dẫn đi ngay.”

Việc này đã xảy ra để lời của đấng tiên tri được ứng nghiệm:

“Hãy nói cho con gái Si-ôn[a] biết:
    Kìa, Vua ngươi ngự đến cùng ngươi,
Khiêm nhu cưỡi trên lưng lừa,
    Và lừa con, con của lừa mang ách.”[b]

Hai môn đệ đi và làm y như lời Ngài dặn bảo. Họ dẫn lừa mẹ và lừa con về, lấy áo mình trải trên lưng lừa và để Đức Giê-su cưỡi lên. Một đám rất đông dân chúng trải áo mình trên đường, những người khác chặt cành cây trải khắp lối đi. Cả đoàn dân trước sau đều hô to:

“Hô-sa-na,[c] Con Vua Đa-vít!
Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến![d]
Hô-sa-na tận chốn trời cao!”

10 Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành phố náo động, hỏi nhau: “Người này là ai?”

11 Đám đông trả lời: “Đây là tiên tri Giê-su từ Na-xa-rét xứ Ga-li-lê.”

Chúa Dẹp Sạch Đền Thờ(B)

12 Đức Giê-su vào trong đền thờ và đuổi hết những kẻ mua bán ra ngoài. Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và lật đổ ghế của mấy kẻ bán bồ câu. 13 Ngài phán cùng họ: “Kinh Thánh chép: ‘Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các người biến thành sào huyệt trộm cướp.’ ”[e]

14 Có những người mù và què đến với Ngài trong đền thờ và Ngài chữa lành cho họ. 15 Nhưng các thượng tế và giáo sư Kinh Luật thấy các việc diệu kỳ Ngài làm cũng như nghe những lời trẻ em reo lên trong đền thờ: “Hô-sa-na Con vua Đa-vít,” 16 thì tức giận hỏi Ngài: “Ông có nghe chúng nó nói gì không?” Đức Giê-su trả lời: “Có, thế các ông chưa đọc lời Kinh Thánh: ‘Chúa đã được miệng trẻ thơ và em bé còn bú ca ngợi sao?’ ”[f]

17 Sau đó Ngài lìa họ, ra khỏi thành phố đến làng Bê-tha-ni và nghỉ đêm ở đó.

Chúa Quở Trách Cây Vả(C)

18 Sáng sớm hôm sau trên đường trở lại thành phố, Đức Giê-su đói. 19 Khi thấy một cây vả ở bên đường, Ngài đến gần nhưng chỉ thấy toàn lá mà thôi; Ngài quở: “Mày sẽ không bao giờ ra trái nữa!” Lập tức cây vả khô héo.

20 Thấy thế các môn đệ ngạc nhiên hỏi: “Làm sao mà cây vả héo khô ngay như vậy?”

21 Đức Giê-su trả lời: “Thật, Ta bảo các con, nếu các con có đức tin và không nghi ngờ, thì chẳng những các con có thể làm cho cây vả khô như vậy, mà ngay cả khi bảo ngọn núi này hãy cất mình lên và quăng xuống biển thì cũng sẽ được. 22 Bất cứ điều gì các con xin trong khi cầu nguyện với đức tin, các con sẽ nhận được.”

Thẩm Quyền Của Đức Giê-su(D)

23 Đức Giê-su vào đền thờ; lúc Ngài đang giảng dạy, các thượng tế và trưởng lão trong dân chúng đến hỏi: “Ông lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này và ai cho ông quyền ấy?”

24 Đức Giê-su đáp: “Ta cũng sẽ hỏi các ông một câu, nếu các ông trả lời được Ta sẽ cho các ông biết Ta lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này. 25 Phép báp-tem của Giăng từ đâu mà đến? Từ Trời hay từ người?” Họ thảo luận với nhau: “Nếu chúng ta nói từ Trời, ông ấy sẽ bảo mình: ‘Vậy sao các ông không tin Giăng?’ 26 Nếu nói: ‘Từ loài người,’ chúng ta sợ dân chúng vì ai cũng cho rằng Giăng là một vị tiên tri.”

27 Vì thế họ trả lời: “Chúng tôi không biết.” Đức Giê-su đáp: “Ta cũng không nói cho các ông biết Ta lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này.”

Ngụ Ngôn Về Hai Người Con

28 “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông đến nói với người con thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi ra vườn nho làm việc.’

29 Nó thưa: ‘Con không muốn đi!’ Nhưng sau đó nó hối hận và lại đi.

30 Ông cũng đến bảo người con thứ hai như thế. Nó đáp: ‘Thưa cha, để con đi’, nhưng nó lại không đi.

31 Vậy trong hai đứa con đó, đứa nào đã làm theo ý cha?” Họ đáp: “Đứa thứ nhất.” Đức Giê-su phán: “Thật, Ta bảo các ông những người thu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào nước Đức Chúa Trời trước các ông. 32 Vì Giăng đã đến dạy các ông theo con đường công chính, nhưng các ông không tin người, còn những người thu thuế và phường đĩ điếm lại tin người. Chính các ông đã thấy rõ mà vẫn không chịu hối cải và tin theo người.”

Ngụ Ngôn Về Người Trồng Nho(E)

33 “Các ông hãy nghe một ngụ ngôn khác: Một người điền chủ kia trồng một vườn nho, rào chung quanh, đào một hầm ép nho trong vườn và xây tháp canh. Sau đó ông khoán cho người làm công và đi xa. 34 Gần đến mùa nho, chủ sai đầy tớ đến cùng những người làm công để thu hoa lợi.

35 Nhưng bọn người làm công bắt các đầy tớ, đánh đập đứa này, giết hại đứa kia, và ném đá đứa nọ. 36 Chủ vườn lại sai một số đầy tớ khác đến đông hơn trước, nhưng chúng cũng đối xử với họ như vậy. 37 Cuối cùng chủ sai chính con trai mình đến, vì nghĩ rằng: ‘chúng sẽ kính trọng con ta.’

38 Nhưng khi thấy con trai chủ, bọn người làm công bàn với nhau: Đây là con thừa tự, ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài nó. 39 Chúng bắt người con ấy, ném ra ngoài vườn nho và giết đi.

40 Vậy khi điền chủ đến, ông sẽ đối xử với bọn người làm công kia thế nào?”

41 Họ đáp: “Chủ sẽ thẳng tay tiêu diệt bọn hung ác kia và giao vườn cho những người làm công khác để nộp hoa lợi đúng mùa.”

42 Đức Giê-su phán cùng họ: “Các ông chưa từng đọc trong Kinh Thánh sao?

‘Viên đá đã bị thợ nề loại bỏ
    Lại trở thành phiến đá đầu góc nhà.
Chúa đã làm điều này,
    Và là việc kỳ diệu trước mắt chúng ta.’[g]

43 Vì vậy Ta bảo các ông: Nước Đức Chúa Trời sẽ được cất khỏi các ông và ban cho một dân tộc khác là dân sẽ đem lại hoa lợi. 44 Ai ngã trên đá này sẽ bị tan nát, còn khi đá rơi trên ai, nó sẽ nghiền nát kẻ ấy thành cát bụi.”

45 Khi các thượng tế và người Pha-ri-si nghe những ngụ ngôn ấy, họ hiểu Ngài nói về chính mình, 46 nên họ tìm cách bắt Đức Giê-su; tuy nhiên họ sợ đám đông vì dân chúng nhìn nhận Ngài là một tiên tri.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)