Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Dân Số 32-34

Người Ru-bên Và Gát Lãnh Xứ Ga-la-át

32 Người của hai bộ tộc Ru-bên và Gát có rất nhiều súc vật. Khi thấy đất Gia-ê-xe và Ga-la-át là nơi thích hợp cho việc chăn nuôi, họ đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo dân chúng, nói: “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-sê, Sê-ham, Nê-ô và Bê-ôn, các miền CHÚA đã chinh phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, rất thuận lợi cho việc chăn nuôi, và chúng tôi lại có nhiều gia súc. Nếu chúng tôi được quý ông thương tình, xin cho chúng tôi đất này làm sản nghiệp, không cần phải đi qua sông Giô-đanh.”

Môi-se hỏi người Gát và Ru-bên: “Anh em muốn ngồi đây trong khi anh chị em khác đi chiến đấu sao? Sao anh em làm cho anh chị em Y-sơ-ra-ên nản lòng, không muốn đi vào đất CHÚA đã cho họ? Tại Ca-đê Ba-nê-a, cha ông của anh em cũng đã làm y như vậy khi tôi sai họ đi do thám xứ Ca-na-an. Sau khi đến thung lũng Ếch-côn nhìn thấy xứ, họ làm cho người Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn đi vào xứ mà CHÚA đã cho họ. 10 Ngày ấy, CHÚA nổi giận, thề rằng: 11 ‘Trong những người ra đi từ Ai-cập, không một ai từ hai mươi tuổi trở lên được thấy xứ mà Ta đã thề hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì họ đã không hết lòng theo Ta; 12 ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai Nun, vì họ hết lòng theo Ta.’ 13 CHÚA giận Y-sơ-ra-ên nên Ngài bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến khi thế hệ làm điều tà ác trước mắt Chúa chết hết.

14 Và bây giờ, anh em là dòng giống của những người tội lỗi lại nổi lên, thay cho cha ông mình, làm cho CHÚA thêm giận Y-sơ-ra-ên. 15 Nếu anh em từ bỏ CHÚA, Ngài sẽ để cho toàn dân ở lại trong sa mạc, và chính anh em là nguyên do làm cho dân tộc bị tiêu diệt.”

16 Nhưng họ đến gần Môi-se, nói: “Chúng tôi chỉ xin dựng chuồng cho bầy súc vật và xây thành cho con cái chúng tôi ở đây. 17 Còn chúng tôi sẽ mang vũ khí đi trước toàn dân, cho đến khi mọi người đã vào đất mình. Trong khi đó gia đình chúng tôi được sống an toàn trong thành lũy kiên cố, không bị dân địa phương làm hại. 18 Chúng tôi sẽ không về nhà cho đến khi nào mọi người Y-sơ-ra-ên khác đều nhận được cơ nghiệp mình. 19 Vì chúng tôi đã nhận phần cơ nghiệp bên bờ phía đông sông Giô-đanh, nên sẽ không có phần gì với những người khác bên kia sông cả.”

20 Bấy giờ, Môi-se bảo họ: “Nếu anh em làm đúng như thế, nếu anh em mang vũ khí ra trận trước mặt CHÚA, 21 nếu mọi người cầm vũ khí đi qua sông Giô-đanh trước mặt CHÚA, cho đến khi Ngài đuổi hết quân thù đi, 22 thì khi CHÚA đã chinh phục xong lãnh thổ, anh em mới được về, và mới được miễn trách nhiệm với CHÚA và với Y-sơ-ra-ên. Và trước mặt CHÚA, đất này lúc đó sẽ thuộc về quyền sở hữu của anh em.

23 Nhưng nếu anh em không làm đúng như thế, anh em sẽ mắc tội với CHÚA, và nhớ rằng tội này sẽ kết buộc anh em. 24 Bây giờ, hãy xây thành cho con cái mình ở, dựng chuồng cho bầy súc vật, nhưng anh em phải nhớ làm điều mình đã hứa.”

25 Người Gát và Ru-bên đáp lời Môi-se: “Các tôi tớ ông xin làm đúng như lời Chúa tôi dặn bảo. 26 Vợ con và súc vật của chúng tôi sẽ ở lại đây, trong những thành của đất Ga-la-át. 27 Còn các tôi tớ ông, tất cả những người được vũ trang để chiến đấu, sẽ qua sông để ra trận trước mặt CHÚA, như chúa tôi đã nói.”

28 Sau đó, Môi-se chỉ thị cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên về việc này. 29 Ông nói: “Nếu tất cả những người được vũ trang để chiến đấu của bộ tộc Gát và Ru-bên cùng qua sông Giô-đanh với các ông trước mặt CHÚA, thì khi lãnh thổ đã bình định xong, các ông sẽ cho họ đất Ga-la-át làm cơ nghiệp. 30 Nhưng nếu họ không đi qua cùng với các ông để chiến đấu, họ phải nhận phần cơ nghiệp chung với các ông trong xứ Ca-na-an.”

31 Người Gát và Ru-bên nói: “Điều CHÚA truyền dạy, các tôi tớ ông xin tuân hành! 32 Chúng tôi sẽ mang vũ khí qua sông, vào đất Ca-na-an trước mặt CHÚA, nhưng đất chúng tôi nhận làm cơ nghiệp sẽ ở bên này sông Giô-đanh.”

33 Vậy, Môi-se cấp cho bộ tộc Gát, bộ tộc Ru-bên và phân nửa bộ tộc Ma-na-se (con Giô-sép) đất của Si-hôn vua A-mô-rít và của Óc vua Ba-san, toàn lãnh thổ với các thành thị và thôn ấp chung quanh.

34 Người Gát xây cất Đi-hôn, A-ta-rốt, A-rô-e, 35 Ạt-rốt Sô-phan, Gia-ê-xe, Giô-bê-ha, 36 Bết Nim-ra và Bết Ha-ran là những thành có hào lũy kiên cố. Họ cũng dựng chuồng cho bầy gia súc. 37 Người Ru-bên cất tại Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-tha-im, 38 Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn (những tên này bị đổi), và Síp-ma. Họ đặt tên mới cho các thành vừa tái thiết.

39 Con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đi đánh chiếm Ga-la-át, đuổi người A-mô-rít đi. 40 Vậy Môi-se cấp cho con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đất Ga-la-át, và họ sinh sống tại đó. 41 Giai-rơ (con Ma-na-se) đi chiếm một số thôn ấp, đặt tên là thôn Giai-rơ. 42 Nô-bách chiếm Kê-nát và các thôn ấp chung quanh, rồi đặt tên là Nô-bách (theo tên mình).

33 Lộ trình và các địa điểm hạ trại từ Ai-cập đến Giô-đanh. Đây là các địa điểm dân Y-sơ-ra-ên hạ trại sau khi rời Ai-cập tiến lên theo hàng ngũ dưới quyền chỉ huy của Môi-se và A-rôn. Môi-se vâng lịnh CHÚA ghi chép cuộc hành trình của dân chúng theo thứ tự các địa điểm hạ trại. Đây là các chặng đường: dân Y-sơ-ra-ên từ Ram-se lên đường ngày mười lăm tháng giêng, một ngày sau Lễ Vượt Qua, họ anh dũng kéo ra trước mắt toàn dân Ai-cập. Dân ấy đang chôn cất các con trai đầu lòng mà CHÚA đã đánh hạ, vì CHÚA đã đoán phạt các thần của họ.

Sau khi bỏ Ram-se, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại tại Su-cốt; rời Su-cốt và hạ trại tại Ê-tam; nơi giáp ranh sa mạc; rời Ê-tam quay lại Phi Ha-hi-rốt, phía đông Ba-an Sê-phôn, và hạ trại tại Mích-đôn.

Họ rời Phi Ha-hi-rốt, đi qua giữa biển mà vào sa mạc; đi được ba ngày trong sa mạc Ê-tam, họ hạ trại tại Ma-ra. Rời Ma-ra họ đến Ê-lim; là nơi có mười hai dòng suối và bảy mươi cây chà là và hạ trại tại đó.

10 Rời Ê-lim, họ hạ trại bên bờ Hồng-hải;

11 rời bờ Hồng Hải họ đóng trại trong sa mạc Sin.

12 Rời sa mạc Sin họ đóng trại tại Đáp-ca.

13 Rời Đáp-ca họ hạ trại tại A-lúc.

14 Rời A-lúc họ hạ trại tại Rê-phi-đim, là nơi không có nước ngọt cho người ta uống.

15 Rời Rê-phi-đim họ hạ trại trong sa mạc Si-nai.

16 Rời sa mạc Si-nai họ hạ trại tại Kíp-rốt-Ha-tha-va.

17 Rời Kíp-rốt Ha-tha-va họ hạ trại tại Hát-sê-rốt.

18 Rời Hát-sê-rốt họ hạ trại tại Rít-ma.

19 Rời Rít-ma họ hạ trại tại Ri-môn Phê-rết.

20 Rời Ri-môn Phê-rết họ hạ trại tại Líp-na.

21 Rời Líp-na họ hạ trại tại Ri-sa.

22 Rời Ri-sa họ hạ trại tại Kê-hê-la-tha.

23 Rời Kê-hê-la-tha họ hạ trại tại núi Sê-phe.

24 Rời núi Sê-phe họ hạ trại tại Ha-ra-đa.

25 Rời Ha-ra-đa họ hạ trại tại Mác-hê-lốt.

26 Rời Mác-hê-lốt họ hạ trại tại Ta-hát.

27 Rời Ta-hát họ hạ trại tại Ta-rách.

28 Rời Ta-rách họ hạ trại tại Mít-ga.

29 Rời Mít-ga họ hạ trại tại Hách-mô-na.

30 Rời Hách-mô-na họ hạ trại tại Mô-sê-rốt.

31 Rời Mô-sê-rốt họ hạ trại tại Bê-nê Gia-can.

32 Rời Bê-nê Gia-can họ hạ trại tại Hô-ghi-gát.

33 Rời Hô-ghi-gát họ hạ trại tại Dốt-ba-tha.

34 Rời Dốt-ba-tha họ hạ trại tại Áp-rô-na.

35 Rời Áp-rô-na họ hạ trại tại Ê-xi-ôn Ghê-be.

36 Rời Ê-xi-ôn Ghê-be họ hạ trại trong sa mạc Xin, nghĩa là tại Ca-đê.

37 Rời Ca-đê họ hạ trại tại núi Hô-rơ, ở chót đầu xứ Ê-đôm. 38 Theo lệnh CHÚA, thầy tế lễ A-rôn leo lên núi Hô-rơ rồi qua đời ngày mồng một tháng năm năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. 39 A-rôn hưởng thọ được một trăm hai mươi ba tuổi khi qua đời trên núi Hô-rơ.

40 Vua A-hát người Ca-na-an sống tại miền nam Ca-na-an đã nghe tin dân Y-sơ-ra-ên sắp đến nơi.

41 Rời núi Hô-rơ họ hạ trại tại Xa-mô-na.

42 Rời Xa-mô-na họ hạ trại tại Phu-nôn.

43 Rời Phu-nôn họ hạ trại tại Ô-bốt.

44 Rời Ô-bốt họ hạ trại tại Y-giê A-ba-rim, trên bờ cõi Mô-áp.

45 Rời Y-giê A-ba-rim, họ hạ trại tại Đi-bôn Gát.

46 Rời Đi-bôn Gát, họ hạ trại tại Anh-môn Đíp-lát-tha-im.

47 Rời Anh-môn Đíp-lát-tha-im, họ hạ trại trên núi A-ba-rim, gần Nê-bô.

48 Rời núi A-ba-rim, họ hạ trại trong đồng ruộng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.

49 Tại đồng bằng Mô-áp, họ hạ trại dọc sông Giô-đanh từ Bết-giê-si-mốt cho đến A-bên Si-tim.

50 Trong đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA bảo Môi-se: 51 “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, khi các ngươi qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an, 52 hãy đuổi tất cả dân cư trong xứ đi. Hãy hủy diệt các tượng chạm và tượng đúc và phá đổ tất cả các nơi cao của họ. 53 Hãy chiếm hữu đất đai và định cư tại đó vì Ta đã ban cho các ngươi chiếm hữu xứ ấy. 54 Hãy bắt thăm chia đất theo bộ tộc của họ, cho nhóm đông được hưởng miếng đất lớn, nhóm nhỏ được hưởng miếng đất nhỏ, và được làm chủ miếng đất ấy. Hãy phân phối đất đai theo bộ tộc.

55 Nhưng nếu các ngươi không đuổi dân cư trong xứ, những kẻ các ngươi cho ở lại sẽ như gai đâm trong mắt, chông xóc vào hông. Họ sẽ gây rối cho các ngươi trong xứ các ngươi ở. 56 Lúc ấy, Ta sẽ làm cho các ngươi điều Ta đã làm cho họ.”

Ranh Giới Các Chi Tộc

34 CHÚA bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Khi các ngươi vào Ca-na-an là đất Ta cho làm sản nghiệp, giới hạn đất ấy sẽ được ấn định như sau:

Về phía nam, đất gồm có sa mạc Xin, chạy dọc theo ranh nước Ê-đôm. Khởi đầu từ mũi Biển Chết về phía đông, Biên giới phía nam của dốc núi Ạc-ráp-bim, tiếp tục chạy dài đến sa mạc Xin, sâu xuống đến phía nam của Ca-đê Ba-nê-a rồi từ đấy chạy đến Hát-sa-át-đa, ngang qua Át-môn. Từ Át-môn, biên giới sẽ quay qua suối Ai-cập và dừng lại ở biển Địa Trung Hải.

Biên giới phía tây là bờ Địa Trung Hải.

Biên giới phía bắc chạy từ Địa Trung Hải cho đến núi Hô-rơ. Từ đấy vạch một đường đến lối vào Ha-mát, qua sông Xê-đát, Xíp-rôn và chấm dứt ở Hát-sa-ê-nan.

10 Biên giới phía đông sẽ bắt đầu từ Hát-sa-ê-nan chạy đến Sê-pham, 11 từ đó xuống Ríp-lát về phía đông của A-in, rồi tiếp tục xuống nữa cho đến khi giáp phía đông của biển Ki-nê-rết. 12 Từ biển Ki-nê-rết, biên giới chạy dọc theo sông Giô-đanh và chấm dứt ở Biển Chết.”

13 Môi-se nói: “Đó là đất của chín bộ tộc mới. Họ sẽ bắt thăm chia đất theo lệnh của CHÚA, 14 vì bộ tộc Ru-bên, Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se 15 đã nhận phần đất của mình bên bờ phía đông sông Giô-đanh.”

16 CHÚA lại bảo Môi-se: 17 “Sau đây là những người có trách nhiệm chia đất: Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun, 18 và mỗi bộ tộc một nhà lãnh đạo. 19 Đây là danh sách các nhà lãnh đạo các bộ tộc:

Ca-lép, con trai Giê-phu-nê

đại diện Giu-đa.

20 Sê-mu-ên, con A-mi-hút,

đại diện cho bộ tộc Si-mê-ôn;

21 Ê-li-đát, con Kít-long,

đại diện Bên-gia-min;

22 Bu-ki, con Giốc-đi,

đại diện Đan;

23 Ha-ni-ên, con Ê-phát,

đại diện Ma-na-se.

24 Kê-mu-ên, con Síp-tan,

đại diện Ép-ra-im.

25 Ê-li-sa-phan, con Phác-nát,

đại diện Sa-bu-luân,

26 Pha-ti-ên, con A-xan,

đại diện Y-sa-ca;

27 A-hi-hút, con Sê-lô-mi,

đại diện A-se

28 Phê-đa-ên, con A-mi-hút,

đại diện bộ tộc Nép-ta-li.

29 Đó là những người Ta chỉ định đứng ra chia đất Ca-na-an cho người Y-sơ-ra-ên.”

Mác 9:30-50

Đức Giê-su Lại Báo Trước Về Sự Thương Khó Của Ngài(A)

30 Từ nơi đó, Đức Giê-su và các môn đệ băng ngang qua xứ Ga-li-lê, Ngài không muốn cho ai biết. 31 Ngài đã dạy các môn đệ rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người ta, sẽ bị giết và sau khi chết ba ngày, Người sẽ sống lại.” 32 Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Ngài.

Ai Cao Trọng Hơn Trong Nước Đức Chúa Trời(B)

33 Họ đến thành Ca-pha-na-um, vào nhà rồi, Ngài hỏi họ: “Trên đường, các con tranh luận gì với nhau?” 34 Nhưng họ đều im lặng vì khi đi đường đã tranh luận với nhau ai là người lớn hơn hết.

35 Ngài ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại và bảo: “Nếu ai muốn làm đầu thì phải làm rốt và phục dịch mọi người.”

36 Ngài đem một em bé để đứng giữa các môn đệ, rồi ôm nó vào lòng bảo: 37 “Nếu ai vì danh Ta tiếp nhận một đứa trẻ như đứa này tức là tiếp Ta; còn ai tiếp Ta thì không phải chỉ tiếp Ta nhưng cũng tiếp Đấng đã sai Ta.”

Không Thù Là Bạn(C)

38 Giăng thưa cùng Ngài: “Thưa Thầy, chúng con thấy một người nhân danh Thầy đuổi quỷ, chúng con đã tìm cách ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.”

39 Nhưng Đức Giê-su đáp: “Đừng ngăn cản vì chẳng có ai nhân danh Ta làm phép lạ lại nói xấu Ta được. 40 Ai không nghịch với chúng ta là thuận với chúng ta. 41 Ai nhân danh Ta cho các con uống một chén nước vì các con thuộc về Chúa Cứu Thế, Ta quả quyết cùng các con, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.”

Cám Dỗ(D)

42 “Còn ai gây cho một trong những đứa trẻ này đã tin Ta, phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ người ấy mà quăng xuống biển còn hơn. 43 Còn nếu tay con gây cho con phạm tội, hãy chặt nó đi; thà cụt một tay mà được sự sống còn hơn là đủ cả hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa chẳng hề tắt. 44 (Nơi đó sâu bọ sẽ chẳng hề chết và lửa sẽ không hề tắt.)[a] 45 Còn nếu chân con gây cho con phạm tội, hãy chặt nó đi; thà cụt một chân mà được sự sống còn hơn là đủ hai chân mà bị quăng vào hỏa ngục. 46 (Nơi đó sâu bọ sẽ chẳng hề chết và lửa sẽ không hề tắt.)[b] 47 Còn nếu mắt con gây cho con phạm tội, hãy móc đi; thà bị chột mắt mà vào Nước Đức Chúa Trời còn hơn là đủ hai mắt mà bị quăng xuống hỏa ngục, 48 là nơi sâu bọ chẳng hề chết và lửa không hề tắt. 49 Vì mỗi người sẽ bị muối bằng lửa.

50 Muối vốn tốt lành, nhưng nếu mất chất mặn đi, các con lấy gì làm cho mặn lại? Hãy có muối trong mình và sống hòa bình với nhau.”

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)