Old/New Testament
Cuộc Kiểm Tra Dân Số Thứ Hai
26 Sau tai họa ấy, CHÚA phán bảo Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn: 2 “Kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận được.” 3 Vậy, tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa truyền lại lệnh ấy cho dân: 4 “Kiểm tra những người từ hai mươi tuổi trở lên, như CHÚA đã phán dặn Môi-se.”
Đây là dân số Y-sơ-ra-ên, những người ra từ Ai-cập:
5 Con cháu Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên,
Từ Hê-nóc sinh ra gia tộc Hê-nóc,
Từ Pha-lu sinh ra gia tộc Pha-lu,
6 Từ Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn,
Từ Cạt-mi sinh ra gia tộc Cạt-mi.
7 Đó là các gia tộc thuộc bộ tộc Ru-bên, có 43,730 người.
8 Con trai Pha-lu là Ê-li-áp. 9 Các con trai Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Chính Đa-than và A-bi-ram này là hai người lãnh đạo của dân, đã theo Cô-rê nổi loạn chống Môi-se, A-rôn và cả CHÚA nữa. 10 Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê, còn 250 người theo họ bị lửa thiêu chết. Việc này xảy ra để cảnh cáo Y-sơ-ra-ên. 11 Tuy nhiên, con cháu Cô-rê không bị tuyệt diệt.
12 Con cháu Si-mê-ôn, tính từng gia tộc:
Từ Nê-mu-ên sinh ra gia tộc Nê-mu-ên,
từ Gia-min sinh ra gia tộc Gia-min,
từ Gia-kin sinh ra gia tộc Gia-kin,
13 từ Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách,
từ Sau-lơ sinh ra gia tộc Sau-lơ.
14 Đó là các gia tộc của bộ tộc Si-mê-ôn, có 22,200 người.
15 Con cháu Gát, tính từng gia tộc:
Từ Xê-phôn sinh ra gia tộc Xê-phôn,
từ Ha-ghi sinh ra gia tộc Ha-ghi,
từ Su-ni sinh ra gia tộc Su-ni,
16 từ Óc-ni sinh ra gia tộc Óc-ni,
từ Ê-ri sinh ra gia tộc Ê-ri,
17 từ A-rốt sinh ra gia tộc A-rốt,
từ A-rê-li sinh ra gia tộc A-rê-li.
18 Đó là các gia tộc của bộ tộc Gát, có 40,500 người.
19 Có hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã qua đời tại Ca-na-an.
20 Con cháu Giu-đa, tính từng gia tộc:
Từ Sê-la sinh ra gia tộc Sê-la,
từ Phê-rết sinh ra gia tộc Phê-rết,
từ Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách,
21 từ Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn,
từ Ha-mun sinh ra gia tộc Ha-mun.
Hết-rôn và Ha-num là con Phê-rết.
22 Đó là các gia tộc của bộ tộc Giu-đa, có 76,500 người.
23 Con cháu Y-sa-ca, tính từng gia tộc:
Từ Thô-la sinh ra gia tộc Thô-la,
từ Phu-va sinh ra gia tộc Phu-va,
24 từ Gia-súp sinh ra gia tộc Gia-súp,
từ Sim-rôn sinh ra gia tộc Sim-rôn.
25 Đó là các gia tộc của bộ tộc Y-sa-ca, có 64,300 người.
26 Con cháu Sa-bu-luân, tính từng gia tộc:
Từ Sê-rết sinh ra gia tộc Sê-rết,
từ Ê-lôn sinh ra gia tộc Ê-lôn,
từ Gia-lê-ên sinh ra gia tộc Gia-lê-ên.
27 Đó là các gia tộc của bộ tộc Sa-bu-luân, có 60,500 người.
28 Con cháu Giô-sép tính từng bộ tộc, có Ma-na-se và Ép-ra-im:
29 Con cháu Ma-na-se:
Từ Ma-ki sinh ra gia tộc Ma-ki,
từ Ga-la-át (con Ma-ki) sinh ra gia tộc Ga-la-át,
30 các người của Ga-la-át là:
từ Giê-xe sinh ra gia tộc Giê-xe,
từ Hê-léc sinh ra gia tộc Hê-léc,
31 từ Ách-ri-ên sinh ra gia tộc Ách-ri-ên,
từ Si-chem sinh ra gia tộc Si-chem,
32 Từ Sê-mi-đa sinh ra gia tộc Sê-mi-đa,
từ Hê-phê sinh ra gia tộc Hê-phê.
33 (Xê-lô-phát, con trai Hê-phê, không có con trai. Tên các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa).
34 Đó là các gia tộc của bộ tộc Ma-na-se, có 52,700 người.
35 Con cháu Ép-ra-im:
Từ Su-thê-lách sinh ra gia tộc Su-thê-lách,
từ Bê-ka sinh ra gia tộc Bê-ka,
từ Tha-chan sinh ra gia tộc Tha-chan.
36 Con của Su-thê-lách là Ê-ran,
từ Ê-ran sinh ra gia tộc Ê-ran.
37 Đó là các gia tộc của bộ tộc Ép-ra-im, có 32,500 người.
Các gia tộc thuộc hai bộ tộc trên đều là con cháu Giô-sép.
38 Con cháu Bên-gia-min, tính từng gia tộc:
Từ Bê-la sinh ra gia tộc Bê-la,
từ Ách-bên sinh ra gia tộc Ách-bên,
từ A-chi-ram sinh ra gia tộc A-chi-ram,
39 từ Sê-phu-pham sinh ra gia tộc Sê-phu-pham,
từ Hu-pham sinh ra gia tộc Hu-pham.
40 Các người của Bê-la là A-rết và Na-a-man,
từ A-rết sinh ra gia tộc A-rết,
từ Na-a-man sinh ra gia tộc Na-a-man.
41 Đó là các gia tộc của bộ tộc Bên-gia-min, có 45,600 người.
42 Con cháu Đan, tính từng gia tộc:
Từ Su-cham sinh ra gia tộc Su-cham.
43 Bộ tộc Đan chỉ có một gia tộc, bộ tộc Su-cham có 64,400 người.
44 Con cháu A-se, tính từng gia tộc:
từ Im-na sinh ra gia tộc Im-na,
từ Ích-vi sinh ra gia tộc Ích-vi,
từ Bê-ri-a sinh ra gia tộc Bê-ri-a.
45 Các người của Bê-ri-a:
Từ Hê-be sinh ra gia tộc Hê-be,
từ Manh-ki-ên sinh ra gia tộc Manh-ki-ên.
46 (A-se có một con gái tên là Sê-rách).
47 Đó là các gia tộc của bộ tộc A-se, có 53,400 người.
48 Con cháu Nép-ta-li tính từng gia tộc:
Từ Giát-sê-ên sinh ra gia tộc Giát-sê-ên,
từ Gu-ni sinh ra gia tộc Gu-ni,
49 từ Giê-se sinh ra gia tộc Giê-se,
từ Si-lem sinh ra gia tộc Si-lem.
50 Đó là các gia tộc của bộ tộc Nép-ta-li, có 45,400 người.
51 Vậy trong Y-sơ-ra-ên, tổng số người được kiểm tra là 601,730 người.
52 CHÚA phán bảo Môi-se: 53 “Đất sẽ được chia cho họ làm cơ nghiệp căn cứ trên dân số. 54 Bộ tộc đông dân sẽ được nhiều đất, bộ tộc ít dân sẽ được ít đất. Mỗi bộ tộc sẽ nhận được đất tùy theo dân số kiểm tra. 55 Người ta sẽ dùng lối bốc thăm chia đất, mỗi phần mang tên một bộ tộc. 56 Cơ nghiệp của họ sẽ được bắt thăm giữa những bộ tộc đông dân và những bộ tộc ít dân.”
57 Người Lê-vi cũng được kiểm tra, tính từng gia tộc:
Từ Ghẹt-sôn sinh ra gia tộc Ghẹt-sôn,
từ Kê-hát sinh ra gia tộc Kê-hát,
từ Mê-ra-ri sinh ra gia tộc Mê-ra-ri.
58 Các gia tộc khác thuộc bộ tộc Lê-vi là:
gia tộc Líp-ni,
gia tộc Hếp-rôn,
gia tộc Mách-li,
gia tộc Mu-si,
gia tộc Cô-rê.
(Kê-hát sinh Am-ram. 59 Lê-vi lúc còn ở Ai-cập sinh ra một người con gái tên là Giô-kê-bết. Am-ram cưới Giô-kê-bết sinh A-rôn, Môi-se và một người con gái tên là Mi-ri-am. 60 A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. 61 Na-đáp và A-bi-hu chết khi dâng lửa lạ trước mặt CHÚA).
62 Tổng số người nam thuộc bộ tộc Lê-vi, từ một tháng trở lên, là 23,000 người. Họ không được kiểm tra.
63 Đó là cuộc kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên do Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thực hiện trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. 64 Không một ai trong số những người này có tên trong kỳ kiểm tra lần trước do Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thực hiện trong sa mạc Si-nai. 65 Vì CHÚA có phán về những người trước rằng: “Họ phải chết trong sa mạc”, nên không còn một ai sống sót, trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun.
Các Con Gái Của Xê-lô-phát
27 Xê-lô-phát có năm người con gái: Mách-la, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. (Xê-lô-phát là con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se, thuộc bộ tộc Ma-na-se. Ma-na-se là con Giô-sép). 2 Các cô đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các nhà lãnh tụ và toàn thể dân chúng hiện diện tại cửa Trại Hội Kiến, nói: 3 “Cha chúng tôi qua đời trong sa mạc, không phải vì theo bè đảng Cô-rê phản nghịch CHÚA, nhưng chết vì tội lỗi mình, và không có con trai. 4 Chỉ vì không có con trai nên cha tôi phải bị xóa tên khỏi gia tộc mình hay sao? Vậy, xin cho chúng tôi lãnh phần cơ nghiệp cùng với các chú các bác chúng tôi.”
5 Môi-se trình vụ này lên cho CHÚA. 6 CHÚA phán dạy ông: 7 “Các con gái Xê-lô-phát nói đúng. Hãy chia cho họ một phần đất làm cơ nghiệp cùng với chú bác họ, là phần đáng lẽ chia cho cha họ.
8 Con cũng nói với dân Y-sơ-ra-ên, nếu có ai chết mà không có con trai, hãy chia phần cho con gái người ấy. 9 Nếu người ấy không có con gái, giao phần cơ nghiệp cho anh em người ấy. 10 Nếu không có anh em, giao cho chú bác. 11 Nếu không có chú bác, giao phần cơ nghiệp cho người bà con gần nhất.” Đây là một luật áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên, đúng như CHÚA phán dạy Môi-se.
Giô-suê Kế Nghiệp Môi-se
12 Sau đó, CHÚA phán với Môi-se: “Con lên núi A-ba-rim ngắm xem đất Ta cho Y-sơ-ra-ên. 13 Xem xong, con cũng sẽ về cùng tổ tiên như A-rôn, anh con vậy. 14 Vì trong sa mạc Xin, hai con đã không vâng lệnh Ta, không tôn thánh Ta trước mặt dân chúng khi họ chống cự về việc nước.” (Đây là “nước Mê-ri-ba” ở Ca-đê, trong sa mạc Xin.)
15 Môi-se thưa với CHÚA: 16 “Lạy CHÚA là Chúa của linh hồn mọi người, xin chỉ định một người lãnh đạo dân chúng, 17 một người ở giữa họ để dẫn họ ra, đem họ vào, cho dân của CHÚA không như cừu chẳng có người chăn.”
18 CHÚA đáp lời Môi-se: “Chọn Giô-suê, con trai Nun là người có thần trong mình. Con sẽ đặt tay trên người. 19 Con sẽ dẫn người đến đứng trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể dân chúng. Trước mặt họ, con sẽ ủy thác trách nhiệm cho người. 20 Con trao quyền cho người và như thế, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ vâng lệnh người. 21 Người đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ dùng bảng U-rim thỉnh cầu quyết định của CHÚA. Người và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên phải tuân hành lệnh Chúa trong mọi việc, việc đi ra cũng như đi vào.”
22 Môi-se làm đúng như lời CHÚA phán dặn, đem Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể dân chúng. 23 Ông đặt tay trên Giô-suê và ủy thác trách nhiệm cho người, như CHÚA đã dạy ông.
Tế Lễ Hằng Ngày
28 CHÚA phán bảo Môi-se 2 truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lệnh này: “Phải cẩn thận dâng lên ta đúng kỳ hạn các lễ vật thức ăn dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng Ta.” 3 Con bảo họ: “Đây là lễ thiêu dùng lửa dâng lên CHÚA: Mỗi ngày dâng tế lễ toàn thiêu thường xuyên, gồm hai chiên đực một tuổi không tì vết. 4 Dâng một con vào buổi sáng, một con vào buổi tối, 5 cùng với lễ vật ngũ cốc gồm một phần mười ê-pha bột mì mịn[a] trộn với một phần tư hin dầu ô-liu giã bằng cối.[b] 6 Đây là tế lễ thiêu thường xuyên đã được ấn định tại núi Si-nai, là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 7 Cũng dâng chung với chiên một lễ tưới rượu, gồm một phần tư hin rượu; đổ rượu ra trên bàn thờ trước mặt CHÚA. 8 Vào lúc chiều tối cũng dâng một con chiên cùng với lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu giống như lễ buổi sáng. Đây là tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.
Tế Lễ Ngày Sa-bát
9 Mỗi ngày Sa-bát, dâng tế lễ thiêu gồm hai con chiên đực một tuổi, không tì vết, cùng với lễ tưới rượu và lễ dâng ngũ cốc, gồm hai phần mười ê-pha[c] bột mì mịn trộn với dầu. 10 Đây là tế lễ thiêu dâng ngày Sa-bát, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu.
Tế Lễ Hằng Tháng
11 Mỗi đầu tháng, dâng tế lễ thiêu cho CHÚA gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. 12 Lễ vật ngũ cốc gồm bột mì trộn với dầu: dâng ba phần mười ê-pha[d] chung với mỗi con bò, hai phần mười ê-pha[e] chung với mỗi con chiên đực và một phần mười ê-pha chung với mỗi con chiên con. Đây là tế lễ toàn thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 13 Với con chiên đực, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm một phần mười ê-pha bột mì mịn. Đây là tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 14 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ tưới rượu gồm một nửa hin[f] rượu. Với con chiên đực, dâng một phần tư hin rượu. Với mỗi con chiên con, một phần tư hin rượu. Đây là lễ thiêu dâng hằng tháng trong năm. 15 Ngoài tế lễ thiêu dâng thường xuyên hằng ngày với lễ tưới rượu, dâng lên CHÚA một con dê đực để làm tế lễ chuộc tội.
Lễ Vượt Qua
16 Hãy giữ Lễ Vượt Qua của CHÚA vào ngày mười bốn tháng giêng. 17 Từ ngày mười lăm, người ta sẽ dự lễ, ăn bánh không men trong bảy ngày. 18 Vào ngày thứ nhất, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA và không ai được làm việc hằng ngày của mình. 19 Dâng cho CHÚA một tế lễ thiêu, lễ vật gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. 20 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. 21 Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. 22 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. 23 Đấy là các lễ vật phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên vào buổi sáng. 24 Trong bảy ngày, mỗi ngày đều phải dâng tế lễ thiêu như thế, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Các lễ vật đó được dâng ngoài các tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ tưới rượu. 25 Vào ngày thứ bảy cũng phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình.
Lễ Các Tuần
26 Vào ngày hoa quả đầu mùa, ngày thứ nhất trong lễ Các Tuần, khi dâng lên CHÚA ngũ cốc mới thu hoạch, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc thường ngày của mình. 27 Dâng hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 28 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. 29 Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. 30 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. 31 Các lễ vật này cùng với các lễ tưới rượu phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên, lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu. Phải dâng những sinh vật không tì vết.
Chúa Hóa Bánh Cho Bốn Ngàn Người Ăn(A)
8 Trong khoảng thời gian đó, lại có một đoàn dân đông đảo tụ tập và cũng không có gì ăn nên Đức Giê-su gọi các môn đệ đến bảo: 2 “Ta thương xót đoàn dân này vì họ đã ở với Ta ba ngày mà không có gì ăn. 3 Nếu Ta để họ nhịn đói về nhà, chắc họ sẽ ngất xỉu dọc đường vì có một số người từ xa đến.”
4 Các môn đệ thưa: “Trong miền hoang vắng này tìm đâu ra bánh cho họ ăn.”
5 Ngài hỏi: “Các con có mấy cái bánh?” Họ thưa: “Dạ bảy cái.”
6 Ngài truyền cho đoàn dân ngồi xuống đất, rồi lấy bảy cái bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời, bẻ ra, đưa cho các môn đệ phân phát cho dân chúng. 7 Họ cũng có vài con cá nhỏ; Ngài ban phước rồi bảo môn đệ đem phân phát. 8 Ai nấy đều ăn no, còn những miếng bánh thừa người ta thu được bảy giỏ. 9 Số người ăn ước chừng bốn ngàn. Rồi Ngài cho họ về, 10 còn Ngài và các môn đệ liền lên thuyền sang vùng Đa-ma-nu-tha.
Dấu Lạ Từ Trời(B)
11 Một số người Pha-ri-si đến tìm cách tranh luận với Ngài, xin Ngài làm một dấu lạ từ trời để thử Ngài. 12 Ngài than thở trong lòng:[a] “Tại sao thế hệ này đòi xem dấu lạ? Ta quả quyết cùng các ông, thế hệ này sẽ chẳng được dấu lạ nào.” 13 Rồi Ngài rời họ, lên thuyền trở lại sang bờ bên kia.
Men Của Người Pha-ri-si(C)
14 Các môn đệ quên đem bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh. 15 Ngài răn dạy họ: “Hãy thận trọng, đề phòng men của người Pha-ri-si và của đảng Hê-rốt.”
16 Họ bàn cãi với nhau tại mình không có bánh.
17 Biết điều đó, Ngài bảo họ: “Sao các con bàn cãi vì không có bánh? Sao các con vẫn chưa biết, chưa hiểu? Lòng các con vẫn còn cứng cỏi thế? 18 Sao có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe? Các con chẳng nhớ gì sao? 19 Khi Ta phân phát năm cái bánh cho năm ngàn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Mười hai giỏ!”
20 “Còn khi Ta phân phát bảy cái bánh cho bốn ngàn người, các con thu được bao nhiêu giỏ đầy bánh thừa?” Họ thưa: “Bảy giỏ!” 21 Ngài bảo họ: “Vậy mà các con chưa hiểu sao?”
Đức Giê-su Chữa Lành Người Mù Ở Bết-sai-đa
22 Đức Giê-su và môn đệ vào thành Bết-sai-đa, người ta đem đến cho Ngài một người mù, xin Ngài đặt tay chữa lành. 23 Ngài nắm tay người mù dắt ra khỏi làng, phun nước miếng vào mắt và đặt tay trên người anh rồi hỏi: “Anh có thấy gì không?”
24 Người mù ngước nhìn, và thưa rằng: “Tôi thấy người ta như cây cối đi qua đi lại.”
25 Ngài lại đặt tay trên đôi mắt anh; anh ngước nhìn lên, mắt liền được sáng, thấy rõ mọi vật. 26 Ngài bảo anh về nhà và dặn rằng: “Đừng trở vào trong làng.”
Phê-rơ Xưng Nhận Đức Giê-su Là Chúa Cứu Thế(D)
27 Đức Giê-su và các môn đệ đi đến các làng thuộc vùng Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi: “Người ta nói Ta là ai?”
28 Họ đáp: “Có người nói Thầy là Giăng Báp-tít, người cho là Ê-li, cũng có người bảo là một trong các tiên tri của Chúa.”
29 Ngài lại hỏi: “Còn các con nói Ta là ai?” Phê-rơ thưa rằng: “Thầy là Chúa Cứu Thế.”
30 Ngài nghiêm cấm các môn đệ không được nói cho ai biết về Ngài.
Đức Giê-su Báo Trước Về Cái Chết Của Ngài(E)
31 Rồi Đức Giê-su bắt đầu dạy họ: “Con Người phải chịu nhiều khốn khổ, sẽ bị các trưởng lão, các thượng tế, các giáo sư Kinh Luật khai trừ, giết chết, rồi sau ba ngày sẽ sống lại.” 32 Ngài nói điều này cách công khai; Phê-rơ mời riêng Ngài ra can gián.
33 Nhưng Ngài quay lại nhìn các môn đệ, rồi quở Phê-rơ: “Sa-tan, hãy lui ra sau Ta, vì con không lưu tâm đến việc Đức Chúa Trời, nhưng chỉ nghĩ đến việc loài người.”
Điều Kiện Để Làm Môn Đệ Chúa
34 Sau đó, Đức Giê-su gọi dân chúng và các môn đệ đến truyền dạy rằng: “Nếu ai muốn theo làm môn đệ Ta phải từ bỏ bản thân mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35 Vì người nào muốn cứu mạng sống[b] mình, thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta và Phúc Âm mà mất mạng sẽ cứu được mạng mình. 36 Vì nếu một người được cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì? 37 Vì người sẽ lấy gì để đánh đổi linh hồn mình lại? 38 Vì nếu ai hổ thẹn về Ta và đạo Ta giữa dòng dõi gian dâm tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người đó khi Ngài trở lại trong vinh quang của Cha Ngài với các thiên sứ thánh của Ngài.”
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)