M’Cheyne Bible Reading Plan
Y-sơ-ra-ên Và Giu-đa Liên Minh Chống Lại A-ram
22 Suốt ba năm, giữa A-ram và Y-sơ-ra-ên không có chiến tranh. 2 Nhưng vào năm thứ ba, vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa xuống thăm vua Y-sơ-ra-ên. 3 Vua của Y-sơ-ra-ên nói với bầy tôi của mình: “Các ngươi biết đó, Ra-mốt Ga-la-át là địa phận của chúng ta, nhưng chúng ta chẳng làm gì cả để lấy nó lại từ tay vua A-ram.”
4 Vua nói với Giê-hô-sa-phát: “Vua có muốn đi đánh Ra-mốt Ga-la-át với tôi không?”
Giê-hô-sa-phát trả lời: “Tôi cũng như vua, quân dân tôi cũng như quân dân vua, chiến mã tôi cũng như chiến mã vua.” 5 Tuy nhiên Giê-hô-sa-phát cũng nói thêm với vua Y-sơ-ra-ên: “Nhưng chúng ta phải cầu hỏi ý CHÚA trước đã.”
6 Vậy vua Y-sơ-ra-ên tập họp các tiên tri lại với nhau. Có khoảng bốn trăm vị cả thảy. Vua hỏi họ, “Ta có nên tiến đánh Ra-mốt Ga-la-át, hay là nên đình lại?”
Họ đáp: “Vua hãy lên đánh đi. Vì CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua.” 7 Nhưng Giê-hô-sa-phát hỏi: “Ở đây còn có vị tiên tri nào của CHÚA nữa mà chúng ta có thể cầu vấn chăng?”
8 Vua của Y-sơ-ra-ên nói với vua Giê-hô-sa-phát: “Còn một người nữa mà chúng ta có thể cầu hỏi ý CHÚA; đó là Mi-chê, con của Giêm-la; nhưng tôi ghét ông ấy, vì ông ấy không bao giờ nói tiên tri điều gì lành về tôi, mà toàn là điều dữ thôi.”
Giê-hô-sa-phát nói: “Xin vua đừng nói như thế.”
9 Vậy vua Y-sơ-ra-ên truyền cho một vị quan đến và bảo: “Hãy lập tức đưa Mi-chê, con của Giêm-la, đến đây.”
10 Khi ấy vua của Y-sơ-ra-ên và vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa, mỗi người đều mặc vương bào, ngồi trên ngai của mình, trong sân đạp lúa, gần lối vào ở cổng thành Sa-ma-ri, và tất cả các tiên tri đều nói tiên tri trước mặt họ. 11 Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, làm cho mình một cặp sừng bằng sắt, và nói: “CHÚA phán như vầy: Với các sừng này, vua sẽ húc dân A-ram cho đến khi chúng bị tuyệt diệt.”
12 Tất cả các tiên tri đều nói như vậy, mà rằng: “Hãy lên Ra-mốt Ga-la-át và được chiến thắng. CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua.”
Mi-chê Báo Trước Sự Thất Trận
13 Sứ giả được sai đi mời Mi-chê nói với ông: “Này, tất cả các vị tiên tri kia đều nói những lời hợp với ý của vua; mong rằng lời ông cũng phù hợp với lời họ mà nói lên sự tán thành.”
14 Nhưng Mi-chê đáp: “Thật như CHÚA hằng sống chứng giám, tôi chỉ có thể nói những gì CHÚA bảo tôi nói mà thôi.”
15 Khi Mi-chê đến gặp vua, vua hỏi ông: “Mi-chê, chúng ta có nên lên đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là chúng ta nên đình lại?”
Ông đáp: “Lên đánh đi và sẽ được chiến thắng. CHÚA sẽ phó nó vào trong tay vua mà.”
16 Nhưng vua nói: “Ta phải nói với ngươi bao nhiêu lần để ngươi phải nhân danh CHÚA mà thề rằng ngươi chỉ nói cho ta sự thật mà thôi?”
17 Bấy giờ Mi-chê nói: “Tôi thấy Y-sơ-ra-ên tan lạc trên các núi rừng, như chiên không có người chăn; và CHÚA phán: ‘Họ chẳng có chủ. Ai nấy sẽ về nhà mình bình an.’ ”
18 Vua Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát: “Chẳng phải tôi đã nói với vua rằng ông ấy không bao giờ nói tiên tri điều gì lành về tôi, mà toàn là điều dữ sao?”
19 Mi-chê lại nói: “Vậy hãy nghe lời của CHÚA. Tôi thấy CHÚA ngồi trên ngai, với tất cả thiên binh đứng hầu bên phải và bên trái Ngài. 20 CHÚA hỏi: ‘Ai sẽ đi dụ A-háp để nó đi lên và gục ngã tại Ra-mốt Ga-la-át đây?’
Vị thì nói thế này, vị thì nói thế khác, 21 cho đến khi có một vị thần tiến tới, đứng trước mặt CHÚA và nói: ‘Thần xin đi dụ hắn cho.’
22 CHÚA hỏi: ‘Làm thể nào?’
Vị thần ấy đáp: ‘Thần xin đi làm một thần nói dối trong miệng các tiên tri của hắn.’
Bấy giờ CHÚA phán: ‘Ngươi sẽ làm kẻ dụ hắn và ngươi sẽ thành công. Hãy đi và làm như vậy.’
23 Thế thì vua có thấy không, CHÚA đã đặt một thần nói dối trong miệng các tiên tri này của vua. CHÚA đã định giáng họa cho vua đó.”
24 Khi ấy Sê-đê-kia, con trai Kê-na-nia, đến tát vào má của Mi-chê một cái và nói: “Sao mà Thần của CHÚA ra khỏi ta mà đến phán cùng ngươi?”
25 Mi-chê trả lời: “Ông sẽ biết rõ điều đó trong ngày ông chui trốn trong một phòng kín.”
26 Vua Y-sơ-ra-ên bèn ra lịnh: “Hãy bắt Mi-chê giao cho A-môn, quan tổng quản kinh thành, và giao cho hoàng tử Giô-ách, 27 và truyền rằng: ‘Vua phán như vầy: Hãy nhốt tên này vào ngục, hãy cho nó bánh và nước đủ sống cầm hơi, cho đến khi ta trở về bình an.’ ”
28 Mi-chê nói: “Nếu vua trở về bình an thì CHÚA đã không phán qua tôi.” Rồi ông tiếp: “Hỡi mọi người, hãy nghe ta nói!”
A-háp Thất Trận Và Qua Đời
29 Vậy vua của Y-sơ-ra-ên và vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa đi lên Ra-mốt Ga-la-át. 30 Vua của Y-sơ-ra-ên nói với Giê-hô-sa-phát: “Tôi sẽ cải trang và xung trận, nhưng vua cứ mặc vương bào.” Vậy vua Y-sơ-ra-ên cải trang cho mình và xông vào chiến trận.
31 Khi ấy vua của A-ram có truyền lịnh cho ba mươi hai tướng chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã: “Các ngươi chớ đánh ai, bất kể nhỏ hay lớn, mà chỉ nhắm vào vua Y-sơ-ra-ên mà đánh cho ta.” 32 Khi các tướng chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã thấy Giê-hô-sa-phát, họ nghĩ: “Chắc là vua Y-sơ-ra-ên đây rồi.” Cho nên họ cùng nhau tấn công vào vua; nhưng khi Giê-hô-sa-phát gào thét lên, 33 họ nhận ra đấy không phải là vua Y-sơ-ra-ên, cho nên họ quay trở lại và không đuổi theo vua nữa.
34 Nhưng có một người giương cung bắn đại, không ngờ tên lại trúng ngay vào giữa khớp áo giáp của vua Y-sơ-ra-ên. Vua nói với người đánh xe của mình: “Hãy quay trở lại và đưa ta ra khỏi chiến trường, vì ta đã bị thương.” 35 Nhưng ngày hôm đó, trận chiến đã trở nên khốc liệt, cho nên người ta phải đỡ cho vua đứng trên xe chiến mã mà đối diện với quân A-ram. Máu từ vết thương của vua chảy xuống ướt đẫm cả sàn xe, và đến chiều tối thì vua chết. 36 Hoàng hôn đến, người ta rao lên giữa đội quân rằng: “Ai nấy hãy trở về thành mình! Ai nấy hãy trở về xứ mình!”
37 Vậy vua qua đời và được đem về Sa-ma-ri; người ta chôn cất vua tại Sa-ma-ri. 38 Họ rửa chiếc xe chiến mã của vua bên bờ hồ Sa-ma-ri, chỗ các gái điếm tắm rửa, và chó đến liếm máu của vua, đúng y như lời của CHÚA đã phán trước.
39 Những việc khác của A-háp, tất cả những việc vua làm, cung điện bằng ngà vua xây cất, và tất cả những thành vua xây dựng, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? 40 Vậy A-háp an giấc với các tổ phụ mình và A-cha-xia, con trai vua, lên ngôi kế vị.
Giê-hô-sa-phát Trị Vì Giu-đa
41 Giê-hô-sa-phát, con trai A-sa, lên ngôi làm vua Giu-đa vào năm thứ tư triều vua A-háp của Y-sơ-ra-ên. 42 Giê-hô-sa-phát được ba mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua, và vua trị vì hai mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-xu-ba, con gái của Si-chi. 43 Vua đi trong mọi đường lối của A-sa, cha mình, mà không hề sai lệch. Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA. Nhưng vua không dỡ bỏ các đền miếu trên những nơi cao. Dân chúng vẫn còn dâng sinh tế và dâng hương trong các đền miếu trên những nơi cao đó. 44 Giê-hô-sa-phát giao hảo thuận hòa với vua Y-sơ-ra-ên.
45 Những việc khác của Giê-hô-sa-phát, những thành quả vua đạt, và những chiến tích quân sự của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 46 Vua diệt trừ khỏi xứ bọn đàn ông làm điếm phục vụ trong các đền miếu còn sót lại trong thời phụ vương của vua. 47 Lúc ấy trong xứ Ê-đôm không có vua; chỉ có một vị quan làm nhiếp chính.
48 Giê-hô-sa-phát đóng một đoàn thương thuyền Ta-rê-si để đi Ô-phia mua vàng, nhưng đoàn tàu đó không đi được, vì mới đến Ê-xi-ôn Ghê-be thì đoàn tàu đã vỡ. 49 Lúc ấy A-cha-xia, con trai A-háp, có nói với Giê-hô-sa-phát: “Xin hãy cho các tôi tớ tôi cùng đi trên các tàu đó với các tôi tớ vua,” nhưng Giê-hô-sa-phát không cho.
50 Giê-hô-sa-phát an giấc với các tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít, là tổ phụ vua. Giô-ram, con trai vua, lên ngôi kế vị.
A-cha-xia Trị Vì Y-sơ-ra-ên
51 A-cha-xia, con trai A-háp, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên ở Sa-ma-ri vào năm thứ mười bảy triều vua Giê-hô-sa-phát của Giu-đa. Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên được hai năm. 52 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi trong đường lối của cha mẹ vua cũng theo đường lối của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là người đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội. 53 Vua phục vụ Ba-anh và thờ lạy nó. Vua chọc giận CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, như cha của vua đã làm.
Ngày Chúa Quang Lâm
5 Thưa anh chị em, về thì giờ và thời kỳ, chúng tôi không cần phải viết cho anh chị em. 2 Vì chính anh chị em biết rõ rằng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm lúc đêm khuya. 3 Khi người ta tuyên bố: Hòa bình và an ninh thì tai họa sẽ thình lình xảy đến cho họ như cơn đau chuyển dạ xảy đến cho người đàn bà có thai và họ sẽ không tránh đâu cho được.
4 Nhưng thưa anh chị em, anh chị em không ở trong bóng tối đến nỗi ngày ấy bất ngờ đến với anh chị em như kẻ trộm. 5 Vì tất cả anh chị em đều là con cái của ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về ban đêm hay bóng tối. 6 Vậy, chúng ta không nên ngủ mê như những người khác nhưng hãy cảnh giác và tỉnh thức. 7 Vì ai ngủ thì ngủ ban đêm và ai say sưa thì say sưa ban đêm. 8 Nhưng chúng ta thuộc về ban ngày, hãy tỉnh thức, mặc áo giáp bằng đức tin và tình yêu thương, đội mão bằng hy vọng cứu rỗi. 9 Vì Đức Chúa Trời đã không định cho chúng ta bị cơn thịnh nộ nhưng được hưởng ơn cứu rỗi bởi Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, 10 Đấng đã chết vì chúng ta để chúng ta dù thức hay ngủ đều được sống với Ngài.
11 Vậy, anh chị em hãy khuyến khích lẫn nhau và xây dựng cho nhau như anh chị em vẫn đang làm.
Những Lời Khuyên Bảo Và Chào Tạm Biệt
12 Thưa anh chị em, xin anh chị em quý trọng những người làm việc khó nhọc giữa anh chị em, là những người nhân danh Chúa lãnh đạo và khuyên bảo anh chị em. 13 Hãy lấy tình thương mà tôn kính họ vì công việc họ làm. Anh chị em hãy sống hòa thuận với nhau.
14 Thưa anh chị em, chúng tôi xin anh chị em hãy khuyên bảo những người vô trách nhiệm, khuyến khích những người nhút nhát, nâng đỡ kẻ yếu đuối và kiên nhẫn với mọi người. 15 Hãy cẩn thận, đừng lấy ác báo ác nhưng luôn luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau và cho mọi người.
16 Hãy vui mừng mãi mãi; 17 cầu nguyện không ngừng; 18 trong mọi hoàn cảnh, hãy cảm tạ vì đây là ý muốn Đức Chúa Trời cho anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-su.[a]
19 Chớ dập tắt Thánh Linh,
20 Đừng khinh rẻ lời tiên tri.[b]
21 Hãy xem xét mọi sự, điều gì lành thì hãy giữ lấy, 22 mọi hình thức gian ác thì hãy tránh xa.
23 Nguyện xin chính Đức Chúa Trời bình an thánh hóa anh chị em hoàn toàn. Nguyện tâm linh, tâm hồn và thân thể anh chị em được gìn giữ trọn vẹn, không có gì đáng trách trong ngày Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta quang lâm.[c] 24 Đấng kêu gọi anh chị em là thành tín, chính Ngài sẽ thực hiện điều ấy.
25 Thưa anh chị em, xin anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi.
26 Hãy chào tất cả anh chị em trong tình thân ái.[d]
27 Nhân danh Chúa, tôi xin anh chị em hãy đọc thư này cho tất cả anh chị em nghe.
28 Nguyện xin Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta ban ân sủng cho anh chị em.
Chiêm Bao Thứ Nhì Của Vua Nê-bu-cát-nết-sa
4 Vua Nê-bu-cát-nết-sa gởi cho mọi người, thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ khắp thế giới:
“Chúc các ngươi an khang thịnh vượng! 2 Ta vui mừng công bố cho các ngươi biết các phép lạ và việc kỳ diệu mà Đức Chúa Trời Tối Cao đã làm cho ta.
3 Ôi, phép lạ của Ngài thật vĩ đại,
Việc kỳ diệu Ngài làm đầy quyền uy!
Ngài là vua đời đời,
Cai trị mãi mãi!
4 Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, đang sống an nhàn vui thỏa trong cung điện ta. 5 Bỗng, đang khi ngủ trên giường, ta thấy chiêm bao làm ta sợ hãi, và những hình ảnh ta thấy trong tâm trí khiến ta kinh hoàng. 6 Vậy ta ra lệnh triệu tập tất cả các nhà thông thái Ba-by-lôn để giải thích chiêm bao cho ta rõ. 7 Khi các pháp sư, thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh vào chầu, ta thuật chiêm bao cho họ nghe, nhưng không ai giải được ý nghĩa chiêm bao cả. 8 Cuối cùng, Đa-ni-ên vào chầu ta. Người này đã được đổi tên là Bên-tơ-sát-xa, theo danh hiệu của thần ta. Linh của các vị thần thánh khiết ngự trong người. Ta thuật lại chiêm bao cho người:
9 Này, Bên-tơ-sát-xa, trưởng đoàn pháp sư. Vì ta biết linh của các vị thần thánh khiết ngự trong ngươi, và không có điều huyền nhiệm nào khó quá cho ngươi, nên hãy nghe chiêm bao ta thấy và giải thích ý nghĩa cho ta rõ. 10 Đây là khải tượng ta nhìn thấy đang khi ngủ trên giường: Kìa, một cây rất cao mọc lên ở trung tâm của đất. 11 Cây lớn mạnh, đến nỗi ngọn vươn lên tận trời, và mọi nơi trên khắp cả đất đều trông thấy. 12 Lá cây sum sê, cây sai trái đến nỗi cung cấp thức ăn cho mọi loài; thú rừng núp dưới bóng cây, chim trời làm tổ trên cành và mọi loài sinh vật đều nhờ cây nuôi sống.
13 Đang khi ngủ trên giường, ta thấy, trong khải tượng, một thiên sứ từ trời ngự xuống. 14 Thiên sứ lớn tiếng ra lệnh: ‘Hãy đốn cây này đi, chặt hết các cành; ngắt trụi lá, rải trái ra khắp nơi. Hãy làm cho thú rừng núp dưới bóng cây bỏ chạy, và chim trời bay xa khỏi cành. 15 Nhưng hãy chừa lại gốc cây và rễ dưới lòng đất; xiềng gốc cây lại bằng xiềng sắt và đồng, giữa cánh đồng cỏ. Hãy để cho nó dầm thấm sương móc từ trời, và cùng ăn cỏ với thú ngoài đồng. 16 Hãy cất lòng người khỏi nó, và cho nó lòng thú vật, suốt bảy năm.’
17 Quyết định này do các thiên sứ truyền lại, bản án này do các bậc thánh rao ra, để mọi người biết rõ rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi nước, Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài, Ngài có thể đem người ở địa vị thấp nhất lên cai trị.
18 Ta, vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã thấy chiêm bao ấy. Vậy bây giờ, ngươi, Bên-tơ-sát-xa, hãy giải nghĩa cho ta. Tất cả các nhà thông thái trong vương quốc ta đều không thể giải ý nghĩa cho ta rõ, nhưng ngươi có khả năng làm điều ấy, vì linh của các vị thần thánh khiết ngự trong ngươi.”
Ý Nghĩa Chiêm Bao
19 Bấy giờ Đa-ni-ên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, kinh hoàng vì ý nghĩa của chiêm bao,[a] sững người trong chốc lát. Vua bảo: “Bên-tơ-sát-xa, đừng để chiêm bao và ý nghĩa của nó làm cho ngươi kinh hãi.”
Bên-tơ-sát-xa thưa: “Muôn tâu bệ hạ, ước gì chiêm bao này ứng cho người nào nghịch lại bệ hạ, và ý nghĩa của nó dành cho kẻ thù của bệ hạ! 20 Bệ hạ thấy một cây lớn mạnh, đến nỗi ngọn vươn lên tận trời, khắp đất đều trông thấy; 21 lá cây sum sê, cây sai trái đến nỗi cung cấp thức ăn cho mọi loài; thú rừng sống dưới bóng cây, và chim trời làm tổ trên cành. 22 Muôn tâu, bệ hạ chính là cây đó. Bệ hạ đã trở nên vĩ đại và cường thịnh. Sự vĩ đại của bệ hạ vươn lên tận trời, và uy quyền bệ hạ bao trùm khắp đất.
23 Bệ hạ cũng thấy thiên sứ từ trời ngự xuống ra lệnh: ‘Hãy đốn cây này đi, hủy diệt nó, nhưng hãy chừa lại gốc và rễ trong lòng đất. Xiềng gốc cây lại bằng xiềng sắt và đồng, giữa đồng cỏ. Hãy để nó dầm thấm sương móc từ trời, cho nó ăn cỏ với loài thú ngoài đồng suốt trọn bảy năm.’
24 Tâu bệ hạ, đây là ý nghĩa của điềm chiêm bao. Đấng Tối Cao đã truyền lệnh này về bệ hạ: 25 bệ hạ sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, và sống với thú rừng; bệ hạ sẽ ăn cỏ như bò và dầm thấm sương móc từ trời suốt trọn bảy năm, cho đến khi bệ hạ nhận biết rõ rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi quốc gia, và Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài. 26 Lệnh truyền chừa lại gốc và rễ cây có nghĩa là vương quốc của bệ hạ sẽ được giao lại cho bệ hạ khi bệ hạ nhận thức rằng Đức Chúa Trời trên trời tể trị mọi loài.
27 Vì thế, tâu bệ hạ, nguyền xin lời khuyên của tôi đẹp lòng bệ hạ. Xin bệ hạ cự tuyệt tội lỗi bằng cách làm việc lành, và cự tuyệt sự độc ác bằng cách đối xử nhân từ với người bị đàn áp; may ra sự bình an thịnh vượng của bệ hạ có thể kéo dài thêm.”
28 Mọi việc ấy đều xảy ra cho vua Nê-bu-cát-nết-sa. 29 Một năm sau, đang khi dạo chơi trên sân thượng hoàng cung tại Ba-by-lôn, 30 vua tuyên bố: “Kìa, xem Ba-by-lôn vĩ đại dường nào! Há chẳng phải chính ta đã xây thủ đô này với sức mạnh và quyền năng của ta, làm nơi ta ngự, để bày tỏ sự vinh hiển và uy quyền của ta sao?”
31 Vua chưa dứt lời, bỗng có tiếng phán từ trời: “Vua Nê-bu-cát-nết-sa, đây là điều được tuyên bố cho ngươi: vương quyền của ngươi đã bị tước bỏ. 32 Ngươi sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, sống với thú rừng, và ăn cỏ như bò suốt trọn bảy năm, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi quốc gia, và Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài.”
33 Ngay giờ đó, lời phán được ứng nghiệm. Vua Nê-bu-cát-nết-sa bị đuổi ra khỏi xã hội loài người; vua ăn cỏ như bò; thân thể vua dầm thấm sương móc từ trời, trong khi tóc vua mọc dài như lông chim đại bàng, và móng tay móng chân vua dài quặp lại như móng chim.
34 “Đến cuối thời hạn đó, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời: trí khôn ta bình phục, ta chúc tụng Đấng Tối Cao, ca ngợi và tôn vinh Đấng sống đời đời.
Ngài tể trị mãi mãi,
Vương quốc Ngài tồn tại đời đời.
35 Trước mặt Ngài, mọi người sống trên đất đều không ra gì,
Ngài thi hành ý muốn Ngài đối với đạo binh trên trời
Cũng như loài người dưới đất.
Không ai có quyền ngăn chặn ý muốn Ngài,
Hoặc chất vấn việc Ngài làm.
36 Ngay khi trí khôn ta bình phục, ta nhận lại quyền uy rực rỡ và sự vinh hiển của vương quốc ta. Các bậc cố vấn và quyền thế của ta ngày trước mời ta về trao trả ngai vàng cho ta, và ta trở nên sang trọng hơn trước nhiều. 37 Vì thế cho nên, bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ca ngợi, tán dương, và tôn vinh vua trời: mọi việc Ngài làm đều ngay thẳng, đường lối Ngài đều công bình; Ngài có quyền hạ thấp người nào sống kiêu căng.”
Lời Cầu Nguyện Xin Chúa Giúp Đỡ
108 Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định.
Tôi sẽ hát, phải, linh hồn tôi[a] sẽ ca ngợi Ngài.
2 Hỡi đàn hạc và đàn lia, hãy tỉnh thức;
Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy.
3 Lạy CHÚA, Tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân;
Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước.
4 Vì tình yêu thương của Ngài lớn hơn các tầng trời;
Sự thành tín của Ngài cao đến tận các tầng mây.
5 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
6 Để những người yêu dấu của Ngài được giải cứu;
Nguyện Ngài dùng tay phải Ngài cứu rỗi chúng tôi và đáp lời chúng tôi.
7 Từ Nơi Thánh của Ngài Đức Chúa Trời phán:
Ta sẽ hân hoan chia cắt Si-chem
Và phân phối thung lũng Su-cốt.
8 Ga-la-át thuộc về ta, Ma-na-se cũng thuộc về ta;
Ép-ra-im là mũ miện bảo vệ đầu ta[b]
Giu-đa là gậy uy quyền của ta.
9 Mô-áp là bồn tắm rửa của ta,
Ta sẽ cởi dép ra trên Ê-đôm;[c]
Ta sẽ reo hò chiến thắng trên Phi-li-tin.[d]
10 Ai sẽ đưa tôi vào thành kiên cố?
Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm?
11 Lạy Đức Chúa Trời, không lẽ Ngài là Đấng đã từ bỏ chúng tôi sao?
Hỡi Đức Chúa Trời, sao Ngài không còn xông pha chiến trận cùng quân đội chúng tôi nữa?
12 Xin Chúa giúp chúng tôi chống lại kẻ thù;
Vì sự cứu giúp của người phàm là vô vọng.
13 Nhờ Đức Chúa Trời chúng tôi sẽ chiến thắng[e]
Vì Ngài sẽ chà đạp các kẻ thù chúng tôi.
Thơ Đa-vít, Cho Nhạc Trưởng
109 Lạy Đức Chúa Trời, tôi ca ngợi Ngài,
Xin chớ im lặng.
2 Vì miệng độc ác và gian dối
Đã mở ra chống lại tôi;
Chúng nói nghịch tôi bằng lưỡi dối trá.
3 Chúng bao vây tôi bằng những lời thù ghét;
Chúng tấn công tôi vô cớ.
4 Chúng đã buộc tội tôi dù tôi yêu thương chúng
Và cầu nguyện cho chúng.[f]
5 Chúng lấy điều dữ để báo đáp điều lành cho tôi;
Chúng lấy thù ghét để báo đáp tình thương.
6 Nguyện xin một kẻ ác sẽ xử nó,
Kẻ tố cáo[g] sẽ đứng bên phải nó.
7 Khi bị xét xử, nguyện nó bị định tội;
Nguyện lời cầu nguyện của nó bị kể như tội lỗi.
8 Nguyện ngày tháng đời nó sẽ ngắn đi,
Nguyện kẻ khác sẽ chiếm chỗ[h] của nó.
9 Nguyện con cái nó thành trẻ mồ côi,
Vợ nó sẽ thành người góa bụa.
10 Nguyện con cái nó phải đi lang thang và ăn xin;
Chúng nó phải đi kiếm ăn[i] từ nơi ở đổ nát của chúng.
11 Nguyện chủ nợ tịch thu tất cả tài sản nó;
Nguyện người ngoại quốc cướp mất công lao của nó.
12 Nguyện không ai thương hại nó;
Chẳng ai thương xót con cái mồ côi của nó.
13 Nguyện con cháu nó bị diệt đi;
Tên nó sẽ bị xóa bỏ vào thế hệ thứ hai.
14 Nguyện sự gian ác của tổ tiên nó vẫn còn ghi nhớ trước mặt CHÚA,
Tội lỗi của mẹ nó cũng không được xóa đi.
15 Nguyện các tội lỗi ấy hằng ở trước mặt CHÚA;
Nhưng Ngài xóa bỏ tên[j] họ khỏi mặt đất.
16 Vì nó đã không nhớ làm điều nhân từ
Nhưng cứ săn đuổi và giết chết
Kẻ nghèo nàn, khốn khó và khổ đau.
17 Nó ưa thích nguyền rủa,
Nguyện nó bị rủa sả;
Nó không thích chúc phúc lành,
Nguyện điều phúc lành cách xa nó.
18 Nó trang phục bằng lời nguyền rủa như chiếc áo khoác;
Nguyện sự nguyền rủa thấm vào người nó như nước,
Ngấm vào xương nó như dầu.
19 Nguyện sự nguyền rủa như chiếc áo quấn quanh người nó,
Như cái nịt lưng nó luôn luôn thắt quanh hông.
20 Nguyện CHÚA báo trả như vậy cho những kẻ buộc tội tôi,
Và cho những kẻ nói điều ác hại mạng sống[k] tôi.
21 Nhưng chính Ngài, lạy CHÚA, là Đấng Chủ Tể.
Xin vì danh Ngài hành động bênh vực tôi.
Vì tình yêu thương của Ngài là tốt lành, xin giải cứu tôi.
22 Vì tôi nghèo khổ và khốn khó;
Lòng tôi đau đớn trong tôi.
23 Tôi sắp qua đi như bóng hoàng hôn;[l]
Tôi bị giũ sạch như sâu bọ.[m]
24 Đầu gối tôi yếu mỏn đi vì kiêng ăn;
Thân thể tôi gầy còm và hốc hác.[n]
25 Tôi trở thành vật chúng khinh bỉ;
Khi thấy tôi chúng lắc đầu.
26 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, xin giúp đỡ tôi;
Vì tình yêu thương của Ngài xin cứu rỗi tôi;
27 Xin cho chúng biết rằng tay Ngài đã cứu rỗi tôi;
Chính CHÚA đã làm điều đó.
28 Hãy để chúng nguyền rủa nhưng chính Ngài lại ban phước;
Hãy để chúng nổi lên nhưng chúng sẽ bị hổ thẹn;
Còn tôi tớ Ngài sẽ vui mừng.
29 Kẻ buộc tội tôi sẽ mặc lấy sự nhục nhã;
Sự hổ thẹn sẽ bao phủ chúng như áo choàng.
30 Miệng tôi sẽ vô cùng cảm tạ CHÚA;
Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa công chúng;
31 Vì Ngài đã đứng bên cạnh bênh vực người nghèo khó
Và cứu rỗi mạng sống người[o] khỏi những kẻ kết tội người.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)