M’Cheyne Bible Reading Plan
Sứ Điệp Của Tiên Tri Ê-li Cho Vua A-háp
18 Sau nhiều ngày, vào năm hạn hán thứ ba, có lời của CHÚA đến với Ê-li rằng: “Hãy đi gặp A-háp. Ta sẽ cho mưa xuống đất trở lại.” 2 Vậy Ê-li đi đến gặp A-háp.
Lúc ấy, nạn đói đang hoành hành tại Sa-ma-ri. 3 A-háp gọi Áp-đia, quan tổng quản hoàng cung đến. Áp-đia rất kính sợ CHÚA. 4 Khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA, thì Áp-đia có đem một trăm tiên tri đi giấu, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ. 5 A-háp nói với Áp-đia: “Ngươi hãy đi khắp xứ, hãy đến các suối và các khe, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ để giữ cho ngựa và lừa sống, và chúng ta khỏi phải giết các súc vật của chúng ta hết chăng.” 6 Vậy họ chia nhau đi khắp xứ. A-háp đi một hướng, còn Áp-đia đi một hướng khác.
7 Đang khi Áp-đia đi đường thì Ê-li gặp ông. Áp-đia nhận ra ông, liền sấp mặt xuống đất, và hỏi: “Thưa có phải chúa tôi là Ê-li đây chăng?”
8 Ông trả lời: “Chính tôi đây. Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.”
9 Áp-đia đáp: “Tôi có tội tình gì mà ngài muốn trao tôi vào tay A-háp để giết tôi đi? 10 Như CHÚA là Đức Chúa Trời hằng sống của ngài chứng giám, chẳng có nước nào hoặc vương quốc nào mà chủ tôi không sai người đến kiếm ngài. Khi người ta bảo rằng ngài không có ở đó, thì ông ấy đòi nước đó hoặc vương quốc đó phải thề là họ không có gặp ngài. 11 Nhưng bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây.’ 12 Nhưng vừa khi tôi rời khỏi ngài thì Thần của CHÚA đem ngài đi đến nơi nào tôi không biết. Rồi khi tôi đến nói cho A-háp, ông ấy đến mà không thấy ngài, ông ấy chắc sẽ giết tôi đi, mặc dù tôi đây, là tôi tớ ngài, đã kính sợ CHÚA từ thuở nhỏ. 13 Người ta há không nói cho chúa tôi biết rằng tôi đã làm gì khi Giê-sa-bên giết hại các tiên tri của CHÚA sao, thể nào tôi đã đem giấu một trăm tiên tri của CHÚA, năm mươi người trong một hang, rồi cung cấp bánh và nước để nuôi họ sao? 14 Bây giờ ngài bảo tôi: ‘Hãy đi, nói với chủ của ông rằng Ê-li đang ở đây’, ông ấy chắc sẽ giết tôi.”
15 Nhưng Ê-li đáp: “Có CHÚA Vạn Quân, là Đấng tôi phục vụ, chứng giám, chắc chắn hôm nay tôi muốn gặp chủ của ông.”
16 Vậy Áp-đia đi gặp vua A-háp và báo cho vua biết. A-háp liền đi gặp Ê-li.
Tiên Tri Ê-li Và Vua A-háp
17 Khi A-háp thấy Ê-li, A-háp nói với ông: “Ngươi, kẻ gây rối cho Y-sơ-ra-ên, có phải ngươi đó chăng?”
18 Ê-li đáp: “Không phải tôi gây rối cho Y-sơ-ra-ên, nhưng chính là vua và nhà cha vua. Vì vua và phụ vương của vua đã bỏ các điều răn của CHÚA, và vua lại đi theo các thần Ba-anh. 19 Bây giờ xin vua hãy triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên lại gặp tôi ở núi Cạt-mên, cùng với bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh và bốn trăm tiên tri của A-sê-ra, là những kẻ được Giê-sa-bên cấp dưỡng.”
Ê-li Thắng Các Tiên Tri Ba-anh
20 Vậy A-háp sai người đi khắp Y-sơ-ra-ên và triệu tập các tiên tri tại núi Cạt-mên. 21 Ê-li đến gần dân chúng và nói: “Các ngươi cứ lưỡng lự đi hàng hai cho đến chừng nào? Nếu CHÚA là Đức Chúa Trời thì hãy theo Ngài, còn nếu Ba-anh là Đức Chúa Trời thì hãy theo hắn.”
Nhưng dân chúng lặng thinh.
22 Bấy giờ Ê-li nói với dân chúng: “Tôi, chỉ một mình tôi, là tiên tri của CHÚA còn sót lại; nhưng ở đây có bốn trăm năm mươi tiên tri của Ba-anh. 23 Bây giờ hãy cho chúng tôi hai con bò đực. Hãy để họ chọn một con cho họ trước đi. Hãy sả con bò ra từng mảnh, rồi chất trên củi, nhưng không được châm lửa. Tôi sẽ sả con bò kia, chất nó trên củi, nhưng cũng không châm lửa. 24 Rồi các ông hãy kêu cầu danh thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh CHÚA. Vị thần nào đáp lời bằng lửa thì vị đó chính là Đức Chúa Trời.”
Toàn thể dân chúng hiện diện nói: “Đề nghị rất hữu lý!”
25 Bấy giờ Ê-li nói với các tiên tri của Ba-anh: “Các ông hãy chọn lấy cho mình một con bò và sả thịt nó trước đi, vì các ông đông người; rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng không được châm lửa đấy nhé.” 26 Vậy họ bắt một con bò đực đem đến đó, sả thịt nó ra, rồi kêu cầu danh thần Ba-anh từ sáng đến trưa. Họ cầu rằng, “Lạy thần Ba-anh, xin hãy đáp lời chúng tôi.” Nhưng chẳng có tiếng nào, cũng chẳng có ai trả lời. Họ nhảy khập khiễng xung quanh bàn thờ họ đã dựng.
27 Đến trưa Ê-li chế nhạo họ rằng: “Hãy kêu cầu lớn hơn chút nữa. Vì Ba-anh chính là thần đó mà. Có thể thần đang suy tư, hay bận đi đâu đó, hoặc đang trên đường, hay là thần đang ngủ, phải đánh thức thần dậy.” 28 Nghe thế họ lại càng kêu cầu lớn hơn nữa, và theo như thói tục của họ, họ lấy gươm và giáo rạch mình đến chảy máu. 29 Đến quá trưa, họ vẫn tiếp tục nói tiên tri theo kiểu như thế cho đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, nhưng chẳng có tiếng nào đáp lại, cũng chẳng ai trả lời, và chẳng ai quan tâm đến.
30 Bấy giờ Ê-li nói với toàn dân: “Hãy đến gần tôi.” Toàn dân kéo lại gần ông. Trước hết, ông sửa lại bàn thờ của CHÚA đã bị sụp đổ. 31 Ê-li lấy mười hai phiến đá, theo số bộ tộc của các con trai Gia-cốp, là người mà lời của CHÚA đã phán, “Y-sơ-ra-ên sẽ là tên ngươi.” 32 Ê-li dùng các phiến đá đó xây lại một bàn thờ cho danh CHÚA. Rồi ông đào một đường mương chung quanh bàn thờ, rộng cỡ chứa được hai thúng hạt giống. 33 Kế đến ông sắp củi trên bàn thờ. Đoạn ông sả con bò ra từng mảnh, rồi chất nó trên củi. Xong ông bảo: “Hãy múc đầy bốn bình nước, rồi đem đổ trên tế lễ thiêu và củi.”
34 Ông bảo họ: “Hãy làm lần thứ nhì.” Họ làm lần thứ nhì. Ông lại bảo họ: “Hãy làm lần thứ ba.” Họ làm lần thứ ba, 35 đến nỗi nước chảy ướt đẫm xung quanh bàn thờ và đầy tràn cái mương.
36 Đến giờ dâng tế lễ buổi chiều, tiên tri Ê-li đến gần và cầu nguyện rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Y-sơ-ra-ên. Ngày hôm nay xin Ngài hãy cho thiên hạ biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, rằng con đây là đầy tớ Ngài, và con đã làm mọi sự này là do Ngài phán bảo. 37 Lạy CHÚA, xin nhậm lời con, để dân này biết rằng chính Ngài, CHÚA ôi, là Đức Chúa Trời, và sẽ khiến lòng dân này quay trở lại.”
38 Bấy giờ lửa của CHÚA giáng xuống, thiêu rụi tế lễ thiêu, củi, đá, bụi đất, và làm khô hết nước trong mương.
39 Khi toàn dân thấy vậy, họ liền sấp mặt xuống đất và nói: “CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời! CHÚA quả thật là Đức Chúa Trời!”
40 Ê-li nói với họ: “Hãy bắt các tiên tri của Ba-anh. Đừng để thoát một ai.” Họ liền bắt những người ấy. Ê-li đem họ xuống khe Kít-sôn và giết hết họ tại đó.
Cơn Hạn Hán Chấm Dứt
41 Ê-li nói với A-háp: “Xin mời vua đi lên, ăn và uống. Vì tôi nghe có tiếng mưa rào.” 42 Vậy A-háp đi lên, ăn và uống. Ê-li đi lên đỉnh núi Cạt-mên. Tại đó, ông sấp mặt xuống đất, giữa hai đầu gối.
43 Ông nói với người đầy tớ ông: “Hãy đi, nhìn về hướng biển.”
Người ấy đi, nhìn, rồi trở lại nói: “Con chẳng thấy gì cả.”
Ông bảo: “Hãy đi trở lại, và làm bảy lần như thế.”
44 Lần thứ bảy người ấy nói: “Kìa, con thấy có một đám mây, cỡ bằng bàn tay, đang nổi lên ngoài biển.”
Ông bảo: “Hãy đến nói với A-háp: ‘Xin vua hãy thắng xe và đi xuống mau, kẻo mưa sẽ giữ vua lại.’ ”
45 Chẳng mấy chốc, mây đen kéo đến phủ khắp bầu trời và gió cuồn cuộn thổi. Một trận mưa lớn đổ xuống. A-háp vội vàng lên xe, chạy đến Gít-rê-ên. 46 Tay của CHÚA đặt trên Ê-li. Ông thắt lưng và chạy trước xe A-háp, cho đến lúc vào thành Gít-rê-ên.
Lời Chào Thăm
1 Chúng tôi là Phao-lô, Sinh-vanh và Ti-mô-thê,
Kính gửi Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca ở trong Đức Chúa Trời, là Cha và ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su.[a] Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng và bình an.[b]
Đức Tin Và Gương Tốt
2 Chúng tôi hằng cảm tạ Đức Chúa Trời về tất cả anh chị em, thường nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. 3 Trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, chúng tôi nhớ đến công việc anh chị em làm do đức tin, lao khổ anh chị em chịu vì tình yêu thương và lòng kiên trì của anh chị em nhờ hy vọng nơi Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta.
4 Thưa anh chị em, là những người được Đức Chúa Trời yêu quý, chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em. 5 Vì Phúc Âm chúng tôi đã truyền cho anh chị em không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng quyền năng, nhờ Đức Thánh Linh và đầy lòng tin quyết. Anh chị em biết rõ, khi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã sống như thế nào để lợi ích cho anh chị em.
6 Anh chị em cũng đã bắt chước chúng tôi và theo gương Chúa. Dù gặp nhiều hoạn nạn, anh chị em đã đón tiếp Lời Chúa với niềm vui của Đức Thánh Linh. 7 Vì vậy anh chị em trở thành gương tốt cho tất cả tín hữu ở miền Ma-xê-đoan và A-chai. 8 Thật vậy, từ nơi anh chị em Lời Chúa đã vang ra không những ở miền Ma-xê-đoan và A-chai mà thôi nhưng niềm tin anh chị em đặt nơi Đức Chúa Trời cũng được lan truyền khắp mọi nơi, cho nên chúng tôi không cần phải nói thêm gì nữa. 9 Vì chính họ thuật lại thể nào anh chị em đã tiếp đón chúng tôi, thể nào anh chị em đã quay về với Đức Chúa Trời và từ bỏ thần tượng để phục vụ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, 10 Và để chờ đợi Con Ngài từ trên trời là Con mà Đức Chúa Trời đã khiến sống lại từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng giải cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.
Sự Phân Chia Đất
48 “Đây là tên của các bộ tộc: Phần của Đan từ cực bắc chạy theo con đường Hết-lon đến Lê-bô Ha-mát, Hát-se Ê-nôn ở vùng ranh giới Đa-mách, về phía bắc giáp Ha-mát, ranh giới từ đông sang tây.
2 Dọc theo bờ cõi của Đan, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của A-se.
3 Dọc theo bờ cõi của A-se, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Nép-ta-li.
4 Dọc theo bờ cõi của Nép-ta-li, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ma-na-se.
5 Dọc theo bờ cõi của Ma-na-se, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ép-ra-im.
6 Dọc theo bờ cõi của Ép-ra-im, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ru-bên.
7 Dọc theo bờ cõi của Ru-bên, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Giu-đa.
8 Dọc theo bờ cõi của Giu-đa, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây, các ngươi phải trích ra một phần đặc biệt, chiều ngang hai mươi lăm ngàn am-ma, chiều dài từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây bằng một phần của các bộ tộc; thánh điện sẽ ở giữa phần này.
9 Phần đặc biệt mà các ngươi dâng cho CHÚA sẽ dài hai mươi lăm ngàn am-ma, rộng mười ngàn am-ma. 10 Đây sẽ là phần trích dâng thánh dành cho các thầy tế lễ; phía bắc dài hai mươi lăm ngàn am-ma, phía tây rộng mười ngàn am-ma, phía đông rộng mười ngàn am-ma, phía nam dài hai mươi lăm ngàn am-ma. Đền thánh của CHÚA sẽ ở giữa phần đất này. 11 Phần này dành cho các thầy tế lễ đã được thánh hóa thuộc dòng dõi Xa-đốc, những người đã trung tín phục vụ Ta, không lầm lạc như những người Lê-vi đã lầm lạc khi dân Y-sơ-ra-ên đi lầm lạc. 12 Họ sẽ có một phần, là phần đất trích ra rất thánh, kế bên ranh giới phần đất của người Lê-vi.
13 Người Lê-vi có phần đất dọc theo ranh giới phần đất của các thầy tế lễ, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, rộng mười ngàn am-ma; tức là cả chiều dài hai mươi lăm ngàn am-ma và rộng mười ngàn am-ma. 14 Không một phần nào của phần đất tốt nhất này sẽ được bán, trao đổi hay chuyển nhượng vì đó là đất thánh dâng cho CHÚA.
15 Phần đất còn lại rộng năm ngàn am-ma, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, để sử dụng thông thường trong thành phố, làm nhà ở, làm đồng cỏ; thành phố thì ở chính giữa. 16 Kích thước của nó như sau: Phía bắc bốn ngàn năm trăm am-ma, phía nam bốn ngàn năm trăm am-ma, phía đông bốn ngàn năm trăm am-ma và phía tây bốn ngàn năm trăm am-ma. 17 Đồng cỏ của thành phố, phía bắc hai trăm năm mươi am-ma, phía nam hai trăm năm mươi am-ma, phía đông hai trăm năm mươi am-ma và phía tây hai trăm năm mươi am-ma. 18 Phần đất còn lại, chiều ngang giáp ranh với phần đất thánh, phía đông mười ngàn am-ma, phía tây mười ngàn am-ma giáp ranh với phần đất thánh; nông sản của phần đất này dùng làm lương thực cho nhân viên thành phố. 19 Những nhân viên thành phố từ mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên sẽ canh tác phần đất này. 20 Các ngươi phải để ra trọn một phần đất vuông vức mỗi cạnh hai mươi lăm ngàn am-ma làm phần đất thánh cùng với tài sản của thành phố.
21 Phần còn lại dọc hai bên cạnh phần đất thánh và phần tài sản của thành phố sẽ thuộc về hoàng tử. Từ mặt phía đông, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, ra đến tận ranh giới phía đông; từ mặt phía tây, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, đến ranh giới phía tây, song song với các phần đất của các bộ tộc. Phần đất thánh và đền thánh sẽ ở giữa phần đất ấy. 22 Như thế, sản nghiệp của người Lê-vi và sản nghiệp của thành phố sẽ nằm giữa phần đất của hoàng tử. Phần đất của hoàng tử ở giữa, giáp ranh với phần đất của Giu-đa và Bên-gia-min. 23 Phần còn lại của các bộ tộc: Bên-gia-min một phần từ đông sang tây.
24 Giáp ranh Bên-gia-min, từ đông sang tây, là phần của Si-mê-ôn.
25 Giáp ranh Si-mê-ôn, từ đông sang tây, là phần của Y-sa-ca.
26 Giáp ranh Y-sa-ca, từ đông sang tây, là phần của Sa-bu-luân.
27 Giáp ranh Sa-bu-luân, từ đông sang tây, là phần của Gát.
28 Ranh giới phía nam của Gát chạy về phía nam, từ Tha-ma đến dòng nước Mê-ri-ba ở Ca-đê, dọc theo suối Ai Cập cho đến Biển Lớn.
29 Đây là đất các ngươi sẽ bắt thăm, chia cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp và đó là các phần đất cho chúng nó;” CHÚA tuyên bố.
30 “Đây là các lối ra của thành, cạnh phía bắc, bốn ngàn năm trăm am-ma. 31 Các cổng thành sẽ mang tên các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Ba cổng phía bắc là cổng Ru-bên, cổng Giu-đa và cổng Lê-vi.
32 Cạnh phía đông, bốn ngàn năm trăm am-ma. Ba cổng sẽ là cổng Giô-sép, cổng Bên-gia-min và cổng Đan.
33 Cạnh phía nam, bốn ngàn năm trăm am-ma. Ba cổng sẽ là cổng Si-mê-ôn, cổng Y-sa-ca và cổng Sa-bu-luân.
34 Cạnh phía tây, bốn ngàn năm trăm am-ma. Ba cổng sẽ là cổng Gát, cổng A-se và cổng Nép-ta-li.
35 Chu vi thành sẽ là mười tám ngàn am-ma. Từ nay tên của thành sẽ là:
CHÚA Ở TẠI ĐÓ.”
Ca Tụng Đấng Tạo Hóa
104 Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA.
Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, Ngài thật vĩ đại thay!
Ngài trang phục bằng vinh quang và oai nghiêm.
2 Ngài choàng mình bằng chiếc áo ánh sáng;
Ngài căng các tầng trời ra như căng lều trại;
3 Ngài dựng cột xây cung điện trên các lớp nước;[a]
Ngài lấy mây làm xe
Và bước đi trên cánh gió.
4 Ngài sai gió làm sứ giả
Và lấy ngọn lửa làm tôi tớ.
5 Ngài lập đất trên các nền,
Cho nên đời đời nó sẽ không lay chuyển.
6 Ngài dùng vực sâu bao bọc nó như chiếc áo;[b]
Nước được dâng cao hơn các núi.
7 Ngài quở trách, chúng phải bỏ trốn;
Nghe tiếng sấm của Ngài chúng vội bỏ chạy.
8 Núi non nâng cao;
Thung lũng hạ thấp,
Nước chạy đến chỗ Ngài đã định cho chúng.[c]
9 Ngài định giới hạn để nước không vượt qua,
Không tràn ngập trái đất nữa.
10 Ngài làm các suối phun lên nơi thung lũng,
Chảy qua giữa các đồi;
11 Chúng cung cấp nước cho tất cả thú rừng;
Những con lừa hoang cũng được giải khát.
12 Chim chóc làm tổ bên các giòng suối
Và cất tiếng hót trên những cành cây.
13 Từ cung điện trên cao Ngài tưới núi non;
Đất đai tràn ngập hoa quả nhờ công việc Ngài.
14 Ngài làm cỏ xanh mọc lên cho súc vật,
Cây cối mà loài người trồng trọt[d]
Từ đất, nơi cung cấp thực phẩm;
15 Rượu nho làm lòng người vui vẻ;
Dầu ô-liu làm cho da mặt tươi sáng
Và thực phẩm để tâm thần người ta mạnh mẽ.
16 Cây cối của CHÚA được tưới đầy đủ;
Ấy là các cây tùng mà Ngài đã trồng tại Li-ban;
17 Trên ấy chim chóc làm tổ;
Còn cò thì lấy cây thông làm chỗ ở;
18 Các núi cao là nơi ở của dê rừng;
Những vách đá là chỗ trú ẩn của chuột đồng.
19 Ngài đã làm nên mặt trăng để phân định mùa;
Mặt trời biết giờ nó lặn.
20 Ngài tạo nên bóng tối, ấy là đêm;
Lúc ấy tất cả thú rừng đi ra.
21 Các sư tử tơ gầm thét tìm mồi;
Chúng đi kiếm mồi do Đức Chúa Trời cung cấp;
22 Khi mặt trời mọc lên,
Chúng nó rút về nằm trong hang;
23 Còn loài người đi ra làm việc,
Họ lao động cho đến chiều tối.
24 Lạy CHÚA, công việc của Ngài nhiều biết bao!
Ngài đã dùng khôn ngoan làm nên tất cả,
Trái đất đầy dẫy tạo vật của Ngài.
25 Kìa là biển cả vĩ đại bao la;
Đầy những vật ở trong đó,
Là những sinh vật nhỏ và lớn không thể đếm được;
26 Ở đó tàu thuyền đi lại;
Lê-vi-a-than[e] mà Ngài đã tạo ra cũng đùa giỡn nơi đó.
27 Tất cả đều ngưỡng trông Ngài
Để Ngài ban cho đồ ăn đúng thì.
28 Chúa ban cho chúng,
Chúng nhận lấy;
Ngài mở bàn tay ra,
Chúng được no nê vật ngon.
29 Khi Ngài lánh mặt đi,
Chúng kinh hoàng;
Khi Ngài cất sinh khí đi,
Chúng chết và trở về bụi đất.
30 Khi Ngài ban Thần của Ngài đến,[f]
Sinh vật được tạo nên
Và Ngài làm mới lại mặt đất.
31 Nguyện vinh quang của CHÚA còn mãi mãi;
Nguyện CHÚA vui vẻ về công việc Ngài.
32 Ngài nhìn trái đất, đất run rẩy;
Ngài sờ đến núi non, núi bốc khói.
33 Trọn đời, tôi sẽ ca hát cho CHÚA;
Suốt đời, tôi sẽ ca tụng Đức Chúa Trời tôi.
34 Nguyện sự suy tư của tôi đẹp lòng Ngài
Vì tôi vui mừng trong CHÚA.
35 Nguyện kẻ tội lỗi bị diệt khỏi đất
Và kẻ gian ác không còn nữa.
Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA!
Ha-lê-lu-gia![g]
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)