M’Cheyne Bible Reading Plan
Sa-lô-môn Xây Cung Điện
7 Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho mình. Vua hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm. 2 Vua xây cung điện Rừng Li-ban. Cung điện ấy dài một trăm am-ma, rộng năm mươi am-ma, và cao ba mươi am-ma.[a] Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. 3 Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gác đầu trên cột. 4 Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thì thành một bộ. 5 Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện nhau, và cứ ba cửa thì thành một bộ.
6 Vua cũng xây một hành lang bằng cột, hành lang ấy dài năm mươi am-ma, rộng ba mươi am-ma.[b] Phía trước hành lang là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên.
7 Vua cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, là nơi vua xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần. 8 Còn cung thất là nơi vua ở thì nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho công chúa Pha-ra-ôn, mà vua đã cưới làm vợ.
9 Tất cả các cung điện này đều được xây bằng đá quý; các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn, cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. 10 Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng tám am-ma và dài mười am-ma.[c] 11 Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước và gỗ bá hương. 12 Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội sảnh của đền thờ CHÚA và tiền đình của đền thờ.
Hu-ram, Người Thợ Đồng Tài Giỏi
13 Vua Sa-lô-môn sai người mời Hu-ram ở Ty-rơ về. 14 Ông là con một góa phụ thuộc bộ tộc Nép-ta-li, cha ông là một người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hu-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông.
Các Trụ Đồng Của Đền Thờ
15 Hu-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ mười tám am-ma; chu vi mỗi trụ là mười hai am-ma,[d] nếu lấy dây mà đo. 16 Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng, để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ này là năm am-ma, chiều cao của đầu trụ kia cũng năm am-ma. 17 Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ, lưới ấy do những dây chuyền đồng kết lại, các dây chuyền này được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ này và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. 18 Hu-ram cũng đúc hai hàng trái thạch lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. 19 Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ, lớn bốn am-ma. 20 Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới bằng đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái thạch lựu, gắn quanh đầu trụ. 21 Rồi ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của đền thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin, ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-ách. 22 Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất.
Bể Nước Bằng Đồng
23 Hu-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là mười am-ma; bể nước này cao năm am-ma, với chu vi là ba mươi am-ma[e] nếu lấy dây mà đo. 24 Ông cũng cho đúc hai hàng hình các trái bầu quanh mép bể, cứ một am-ma là mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt với khi đúc bể.
25 Bể nước bằng đồng này được đặt trên lưng mười hai con bò đứng quay đuôi vào nhau. Ba con nhìn về hướng bắc, ba con nhìn về hướng tây, ba con nhìn về hướng nam, và ba con nhìn về hướng đông. 26 Thành bể dày bằng bề ngang của mặt bàn tay, và mép bể giống như mép chén có hình hoa huệ. Bể này chứa được hai ngàn bát nước.[f]
Các Xe Bằng Đồng
27 Hu-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe dài bốn am-ma, rộng bốn am-ma, và cao ba am-ma.[g] 28 Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có những tấm đồng gắn vào khung. 29 Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung đó có chạm hình các sư tử, các bò đực, và chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực lại chạm khắc những tràng hoa. 30 Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái chân trụ để chịu đựng sức nặng đặt trên xe. Bốn chân trụ này được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các chân ấy có chạm khắc hình các tràng hoa. 31 Trên mặt xe là một khung tròn làm đế, khung này lồi lên một am-ma, và lõm xuống một am-ma rưỡi.[h] Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt của thành khung được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. 32 Dưới các tấm đồng trên thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao một am-ma rưỡi. 33 Các bánh xe này cũng được làm giống như bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc cả.
34 Ở bốn góc xe, dưới bốn chân trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. 35 Trên mặt xe cũng có một niền tròn, cao một nửa am-ma. Thành của niền và chân của nó được đúc liền với mặt xe. 36 Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm khắc các hình chê-ru-bim, sư tử và cây chà là. Còn nơi nào có chỗ trống thì ông chạm khắc các tràng hoa chung quanh. 37 Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu.
38 Đoạn ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được bốn mươi bát.[i] Mỗi bồn như thế cao bốn am-ma. Rồi ông cho đặt chúng trên mười chiếc xe đó, mỗi xe một bồn nước. 39 Xong ông để năm xe ở phía nam của đền thờ và năm xe ở phía bắc của đền thờ. Ông cũng cho đặt bể nước bằng đồng ở góc đông nam của đền thờ.
Vật Dụng Trong Đền Thờ
40 Hu-ram cũng làm các nồi, vá, và chậu. Vậy Hu-ram hoàn tất mọi công tác vua Sa-lô-môn giao ông làm cho nhà CHÚA, gồm:
41 hai trụ đồng,
hai đầu trụ đặt trên hai trụ đồng,
các lưới bằng đồng gắn trên các đầu trụ,
42 bốn trăm trái thạch lựu bằng đồng, gắn thành hai hàng, mỗi hàng một trăm trái, quanh mỗi đầu trụ,
43 mười chiếc xe, mười bồn nước để trên các xe,
44 một bể nước, và mười hai con bò chịu bên dưới bể nước,
45 các nồi, vá và chậu.
Tất cả các vật này Hu-ram làm cho nhà CHÚA do vua Sa-lô-môn giao phó đều được làm bằng đồng đánh bóng. 46 Vua cho làm những vật này tại một nơi có nhiều đất sét trong đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xác-than. 47 Sa-lô-môn không cho cân các khí dụng ấy, vì chúng nhiều quá, và số lượng đồng thì không tính nổi.
48 Sa-lô-môn cũng làm các khí dụng cho nhà CHÚA gồm:
bàn thờ bằng vàng,
bàn bánh trần thiết bằng vàng,
49 các chân đèn bằng vàng ròng, năm cái bên phải và năm cái bên trái, trước Nơi Chí Thánh.
Vua cũng cho làm các hoa, đèn, và kẹp gắp đều bằng vàng.
50 Các chén, kéo cắt tim đèn, chậu, khay đựng tro, khay đựng than đều bằng vàng ròng.
Các bộ bản lề các cửa vào phía trong của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, và các cửa của Nơi Thánh đều làm bằng vàng cả.
51 Vậy vua Sa-lô-môn hoàn tất mọi công trình vua muốn làm cho nhà CHÚA. Sa-lô-môn đem vào đền thờ những vật mà Đa-vít, cha vua, đã dâng hiến, gồm bạc, vàng, và các vật dụng. Vua để các vật ấy trong các kho của nhà CHÚA.
Hợp Nhất Trong Thánh Linh
4 Vậy, là một tù nhân vì Chúa, tôi khuyên anh chị em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi của Ngài. 2 Phải hết sức khiêm nhường, nhu mì và kiên nhẫn, lấy tình yêu thương chịu đựng lẫn nhau. Hãy hết sức gìn giữ sự hiệp nhất do Thánh Linh đem lại, 3 bằng sợi dây xích hòa thuận. 4 Chỉ có một thân thể và một Thánh Linh, cũng như chỉ có một niềm hy vọng cho anh chị em khi được kêu gọi. 5 Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báp-tem, 6 một Đức Chúa Trời, là Cha của tất cả, ở trên tất cả, thấu suốt tất cả và ở trong tất cả.
7 Mỗi người trong chúng ta nhận được ân sủng tùy theo lượng mà Chúa Cứu Thế ban cho mình. 8 Do đó, Kinh Thánh chép:
“Ngài đã lên nơi cao,
Dẫn dắt các tù binh,
Và ban ân tứ cho loài người.”
9 Khi nói “Ngài lên” có nghĩa gì nếu không phải là “Ngài cũng đã xuống những nơi thấp của trái đất.” 10 Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm viên mãn mọi sự. 11 Chính Ngài cho một số người làm sứ đồ, một số làm tiên tri, một số làm truyền giáo, một số làm mục sư và giáo sư, 12 nhằm mục đích trang bị các thánh đồ cho công tác phục vụ, gây dựng Thân Thể Chúa Cứu Thế, 13 cho đến khi tất cả chúng ta đạt đến sự hợp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết Con của Đức Chúa Trời, đến mức trưởng thành, đến tầm thước vóc dáng đầy trọn của Chúa Cứu Thế.
14 Lúc ấy, chúng ta sẽ không còn là trẻ con nữa, bị sóng đánh trôi dạt và cuốn theo mọi luồng gió đạo lý của những người bịp bợm, xảo trá dùng thủ đoạn lừa gạt. 15 Nhưng Ngài muốn chúng ta lấy tình yêu thương nói lên sự thật, để trong mọi sự chúng ta tăng trưởng, vươn lên Đấng làm đầu, tức là Chúa Cứu Thế. 16 Nhờ Ngài toàn thân kết hiệp và ăn khớp với nhau do gân cốt hỗ trợ; khi mỗi bộ phận hoạt động thích nghi, thân thể sẽ tăng trưởng và tự gây dựng trong tình yêu thương.
Nếp Sống Mới Trong Chúa Cứu Thế
17 Vậy, tôi xin nói điều này và nhân danh Chúa nài xin anh chị em: đừng tiếp tục sống như người ngoại, theo tâm trí hư không của họ. 18 Trí óc họ tối tăm, họ xa lạ với sự sống của Đức Chúa Trời vì lòng ngu muội và chai đá. 19 Họ lì lợm buông mình theo thói trụy lạc, thích làm mọi điều ô uế.
20 Nhưng anh chị em không học theo Chúa Cứu Thế như vậy. 21 Quả thật, anh chị em đã nghe về Ngài và được dạy dỗ trong Ngài đúng theo chân lý đã thể hiện trong Đức Giê-su. 22 Anh chị em phải lột bỏ con người cũ theo lối sống trước đây, là con người bị các dục vọng lừa dối hủy hoại. 23 Hãy để thái độ trong tâm trí anh chị em được đổi mới. 24 Hãy mặc lấy con người mới giống như hình ảnh[a] Đức Chúa Trời, được sáng tạo trong chân lý công chính và thánh khiết.
25 Vì thế, đã lột bỏ mọi điều dối trá, anh chị em mỗi người hãy nói thật với người lân cận mình vì chúng ta đều là chi thể của nhau. 26 Anh chị em tức giận, nhưng đừng phạm tội, đừng cưu mang giận hờn cho đến khi mặt trời lặn, 27 cũng đừng để quỷ vương thừa cơ lợi dụng.
28 Kẻ quen trộm cắp, đừng trộm cắp nữa, nhưng hãy siêng năng tự tay mình làm ăn lương thiện để có thể giúp người túng thiếu.
29 Môi miệng anh chị em đừng thốt ra một lời ác độc nào, nhưng nếu cần hãy nói lời lành để xây dựng, để đem lại ân phúc cho người nghe.
30 Đừng làm buồn lòng Thánh Linh của Đức Chúa Trời, nhờ Ngài anh chị em được đóng ấn cho ngày cứu chuộc. 31 Hãy lột bỏ khỏi anh chị em tất cả những cay đắng, thịnh nộ, giận hờn, kêu rêu, xúc phạm cùng mọi tính hiểm độc. 32 Anh chị em hãy nhân từ, thương cảm lẫn nhau, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh chị em trong Chúa Cứu Thế.
Khải Tượng Xương Khô Sống Lại
37 Tay của CHÚA ở trên tôi; bởi Thần của CHÚA, Ngài đem tôi ra, đặt tôi ở giữa một thung lũng; thung lũng ấy đầy hài cốt. 2 Ngài dẫn tôi đi vòng quanh các hài cốt đó; kìa, có rất nhiều hài cốt trên mặt thung lũng và rất khô. 3 Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, những hài cốt này có thể sống không?”
Tôi đáp: “Lạy CHÚA, Chúa biết điều ấy.”
4 Ngài phán cùng tôi: “Hãy phán tiên tri cùng những hài cốt này, hãy bảo chúng: ‘Hỡi những hài cốt khô, hãy nghe lời CHÚA. 5 CHÚA Toàn Năng phán như vầy cùng các hài cốt: Này, Ta phú thần khí nhập vào trong các ngươi và các ngươi sẽ sống. 6 Ta sẽ ban gân cho các ngươi, cho thịt trên các ngươi, lấy da bọc các ngươi và ban thần khí trong các ngươi, bấy giờ các ngươi sẽ sống và biết rằng chính Ta là CHÚA.’ ”
7 Vậy, tôi phán tiên tri như tôi đã được truyền. Khi tôi vừa phán tiên tri thì có tiếng động, này có tiếng rung chuyển và những xương cốt ráp lại với nhau, xương với xương. 8 Tôi nhìn, kìa, gân xuất hiện, thịt mọc lên và da bao bọc ở bên ngoài nhưng không có thần khí trong chúng.
9 Ngài phán cùng tôi: “Hãy phán tiên tri cùng thần khí. Hỡi con người, hãy phán tiên tri, hãy nói với thần khí: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Hỡi thần khí, hãy đến từ gió bốn phương, hãy thở vào các xác chết này để chúng được sống.’ ” 10 Vậy, tôi phán tiên tri như đã được truyền. Thần khí nhập vào trong các xác chết; chúng sống lại và đứng lên trên chân mình. Ấy là một đạo quân đông vô số.
11 Ngài phán cùng tôi: “Hỡi con người, những xương này là cả nhà Y-sơ-ra-ên. Kìa, chúng nói: ‘Xương cốt chúng ta khô héo, hy vọng của chúng ta tiêu tan, chúng ta bị tuyệt diệt.’ 12 Cho nên, hãy nói tiên tri, hãy nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Chính Ta sẽ mở mồ mả các ngươi, đem các ngươi lên khỏi mồ mả. Hỡi dân Ta, Ta sẽ đem các ngươi trở về đất Y-sơ-ra-ên. 13 Hỡi dân Ta, bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là CHÚA khi Ta mở mồ mả các ngươi, đem các ngươi lên khỏi mồ mả. 14 Ta sẽ ban thần Ta trong các ngươi và các ngươi sẽ sống. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất mình và biết rằng chính Ta là CHÚA; Ta đã phán thì Ta sẽ làm; CHÚA tuyên bố.’ ”
15 Lời của CHÚA phán với tôi: 16 “Hỡi con người, ngươi hãy lấy một cây gậy và viết lên trên ấy: ‘Cho Giu-đa và cho các con cái Y-sơ-ra-ên liên hiệp với nó.’ Hãy lấy một cây gậy khác và viết lên trên ấy: ‘Cho Giô-sép, cây gậy của Ép-ra-im, và cả nhà Y-sơ-ra-ên liên hiệp với nó.’ 17 Hãy hợp hai cây gậy lại làm một để chúng trở thành một cây gậy trong tay ngươi.
18 Khi con cái dân ngươi hỏi: ‘Ông không cho chúng tôi biết điều này nghĩa là gì sao?’ 19 Hãy nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Này, Ta sẽ lấy cây gậy của Giô-sép, tức là cây gậy ở trong tay Ép-ra-im, cùng những bộ tộc Y-sơ-ra-ên liên hiệp với nó và hiệp chúng cùng cây gậy của Giu-đa để làm thành một cây gậy, như vậy chúng trở thành một cây gậy trong tay Ta.’ 20 Hãy cầm lên những cây gậy mà ngươi đã viết trên ấy cho chúng xem. 21 Hãy nói với chúng: ‘CHÚA Toàn Năng phán như vầy: Này, chính Ta sẽ đem con cái Y-sơ-ra-ên từ các nước chúng đã đi đến, Ta sẽ hợp chúng lại từ khắp nơi và đem chúng về vùng đất của chúng. 22 Ta sẽ làm cho chúng thành một nước trong xứ, trên các đồi núi Y-sơ-ra-ên. Chúng sẽ chỉ có một vua cai trị; sẽ không bao giờ là hai nước và sẽ không chia rẽ thành hai vương quốc nữa. 23 Chúng nó sẽ không làm mình ô uế vì các thần tượng, những điều ghê tởm và mọi vi phạm nữa. Ta sẽ giải cứu chúng khỏi mọi sự sa ngã[a] mà chúng đã phạm. Ta sẽ thanh tẩy chúng, bấy giờ chúng sẽ là dân Ta và Ta là Đức Chúa Trời của chúng nó.
24 Tôi tớ Ta, Đa-vít sẽ làm vua chúng nó, chúng nó sẽ có một người chăn giữ. Chúng nó sẽ đi theo các sắc lệnh, nghe và thực hành các quy luật của Ta. 25 Chúng sẽ sống tại đất mà Ta đã ban cho Gia-cốp, tôi tớ Ta, nơi tổ tiên chúng đã sống; chúng và con cháu, dòng dõi chúng sẽ sống ở đó mãi mãi. Đa-vít, tôi tớ Ta sẽ là hoàng tử của chúng đời đời. 26 Ta sẽ lập giao ước bình an với chúng, đó là giao ước đời đời cho chúng. Ta sẽ thiết lập và làm cho chúng gia tăng và Ta sẽ đặt thánh điện Ta ở giữa chúng đời đời. 27 Nơi cư ngụ của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng và chúng nó sẽ làm dân Ta. 28 Bấy giờ các nước sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đấng thánh hóa Y-sơ-ra-ên, khi thánh điện Ta sẽ ở giữa chúng đời đời.’ ”
Thơ Của Con Cháu Cô-rê,
87 Ngài đã đặt nền móng của Ngài trên các núi thánh;
2 CHÚA yêu mến các cổng của Si-ôn
Hơn mọi nơi cư trú của Gia-cốp.
3 Hỡi thành của Đức Chúa Trời,
Những điều vinh quang về ngươi đã được nói đến. Sê-la
4 Ta sẽ nhắc đến Ra-háp,[a] Ba-by-lôn
Là những nước nhận biết ta;
Kìa, Phi-li-tin, Ty-rơ cùng Ê-thi-ô-bi;
Chúng nói rằng: người này sinh ở Si-ôn.
5 Người ta sẽ nói về Si-ôn rằng:
Người này, kẻ kia sinh trưởng tại đây;
Và chính Đấng Chí Cao sẽ thiết lập Si-ôn.
6 CHÚA sẽ ghi tên các dân vào sổ:
“Người này sinh tại Si-ôn.” Sê-la
7 Những ca sĩ cũng như vũ công đều nói:
“Mọi nguồn cảm hứng của tôi đều ở trong ngươi.”
Thơ Dạy Dỗ Của Hê-man, Người Ếch-ra-hit
88 Kính lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi tôi;
Suốt ngày đêm, tôi cầu khẩn trước mặt Ngài.
2 Nguyện lời cầu nguyện tôi đến trước mặt Chúa;
Xin Ngài nghiêng tai nghe lời cầu khẩn của tôi.
3 Vì linh hồn tôi đầy những hoạn nạn;
Mạng sống tôi bị đưa xuống gần Âm Phủ.[b]
4 Tôi bị xem như những người sắp đi xuống huyệt mả;
Tôi như người không còn sức lực;[c]
5 Như người bị bỏ riêng giữa những người chết,
Như người bị giết nằm trong mộ phần,
Kẻ mà Chúa không còn nhớ đến nữa;
Là người bị dứt bỏ khỏi bàn tay chăm sóc của Ngài.
6 Ngài đã đặt tôi tận đáy vực sâu,
Nơi tối tăm và sâu thẳm.
7 Cơn thịnh nộ Ngài đè nặng trên tôi;
Những cơn sóng của Ngài tràn ngập tôi. Sê-la
8 Ngài làm những kẻ quen biết tôi xa lánh tôi;
Ngài làm tôi thành vật ghê tởm cho họ.
Tôi bị vây kín, không lối thoát ra.
9 Mắt tôi mòn mỏi vì sầu khổ;
Lạy CHÚA, suốt ngày tôi cầu khẩn Ngài,
Tôi giơ tay cầu xin Ngài.
10 Ngài há có làm phép lạ cho người chết ư?
Há bóng ma nào đứng dậy ca ngợi Ngài sao? Sê-la
11 Tình yêu thương của Ngài nào có được công bố nơi mồ mả,
Sự thành tín Ngài nào ở chỗ hủy diệt chăng?
12 Các phép lạ của Ngài có được biết đến ở nơi âm giới tối tăm[d] sao?
Và những việc công chính của Ngài có được biết đến ở vùng đất bị quên lãng chăng?
13 Còn tôi, lạy CHÚA, tôi kêu cầu Ngài;
Mỗi buổi sáng lời cầu nguyện tôi đến trước mặt Ngài.
14 Lạy CHÚA, sao Ngài từ bỏ tôi?
Sao Ngài lánh mặt Ngài cùng tôi?
15 Từ thời niên thiếu tôi đã bị đau khổ và hòng chết;
Tôi bị kinh hoàng và tuyệt vọng.[e]
16 Cơn thịnh nộ Ngài tràn ngập tôi,
Cơn kinh hoàng của Ngài hủy diệt tôi.
17 Suốt ngày những điều ấy vây quanh tôi như nước lũ,
Chúng bao phủ tôi mọi bề.
18 Chúa khiến bè bạn và người thân yêu xa lánh tôi;
Bóng tối tăm trở thành bạn hữu thân cận.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)