M’Cheyne Bible Reading Plan
Chúa Thử Nghiệm Áp-ra-ham
22 Sau đó, Đức Chúa Trời thử nghiệm Áp-ra-ham. Chúa gọi: “Áp-ra-ham.” Người thưa: “Có con đây.”
2 Chúa bảo: “Hãy dắt Y-sác, đứa con một mà con yêu quý, đem đến vùng Mô-ri-a và dâng nó làm tế lễ thiêu trên một ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho con.”
3 Vậy, Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem Y-sác con mình và hai đầy tớ đi theo. Ông chặt củi để dâng tế lễ thiêu, rồi đứng dậy, đi đến địa điểm Đức Chúa Trời đã chỉ định. 4 Ngày thứ ba, Áp-ra-ham ngước lên, nhìn thấy địa điểm ấy từ đằng xa, 5 liền bảo hai thanh niên: “Các anh cứ đứng lại đây và giữ lừa. Tôi và Y-sác sẽ lên đó thờ phượng Chúa, rồi sẽ trở lại.”
6 Áp-ra-ham lấy bó củi để dâng tế lễ thiêu chất trên vai Y-sác, con mình và cầm theo mồi lửa và một con dao. Rồi hai cha con cùng đi. 7 Y-sác nói: “Cha ơi!”
Áp-ra-ham đáp: “Có cha đây, con!”
Y-sác hỏi: “Củi lửa có sẵn rồi, nhưng chiên con ở đâu để dâng tế lễ thiêu?”
8 Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, Đức Chúa Trời sẽ cung ứng chiên con làm tế lễ thiêu!” Hai cha con tiếp tục đi với nhau.
9 Đến chỗ Đức Chúa Trời đã chỉ định, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ, sắp củi lên, rồi trói Y-sác, con mình và đem đặt lên lớp củi trên bàn thờ. 10 Áp-ra-ham đưa tay cầm dao để giết con mình. 11 Bỗng thiên sứ của CHÚA từ trên trời gọi: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”
Ông thưa: “Có con đây!”
12 Thiên sứ bảo: “Đừng giết đứa trẻ, cũng đừng làm gì nó cả! Vì bây giờ, ta biết ngươi kính sợ Đức Chúa Trời và không tiếc con ngươi với Ta, dù là con một của ngươi!”
13 Áp-ra-ham ngước mắt nhìn thấy một con chiên đực, sừng đang mắc vào bụi gai rậm phía sau mình. Ông liền bắt nó dâng tế lễ thiêu thay thế con trai mình. 14 Áp-ra-ham gọi địa điểm này là CHÚA Cung Ứng.[a] Vì thế, cho đến ngày nay, người ta vẫn nói; “Trên núi của CHÚA, điều ấy sẽ được cung ứng!”
15 Từ trời, thiên sứ của CHÚA lại gọi Áp-ra-ham lần thứ nhì, 16 mà bảo: “Ta đã lấy chính Ta mà thề, vì con đã làm điều ấy, không tiếc sinh mạng đứa con, dù là con một, 17 nên Ta sẽ ban phước hạnh cho con, gia tăng dòng dõi con như sao trên trời, như cát bãi biển, và dòng dõi con sẽ chiếm lấy cổng thành quân địch. 18 Tất cả các dân tộc trên thế giới sẽ nhờ dòng dõi con mà được phước, vì con đã vâng lời Ta.”
19 Vậy, Áp-ra-ham trở lại cùng hai thanh niên, rồi tất cả lên đường quay về Bê-a Sê-ba. Áp-ra-ham cư trú tại đó.
20 Sau đó, có người báo cáo cho Áp-ra-ham: “Minh-ca đã sinh con trai cho Na-cô, em ông!” 21 Con đầu lòng tên U-xơ, các con kế là Bu-xơ và Kê-mu-ên, cha của A-ram, 22 Kê-sết, Ha-xô, Phin-đát, Díp-láp và Bê-tu-ên, được tất cả tám người. 23 Kê-mu-ên sinh A-ram và Bê-tu-ên sinh Rê-bê-ca. 24 Ru-mân, vợ kế của Na-cô, sinh Tê-ba, Ga-ham, Ta-hách và Ma-a-ca.
Chúa Vào Giê-ru-sa-lem(A)
21 Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, vào làng Bết-pha-giê trên núi Ô-liu. 2 Bấy giờ Ngài phái hai môn đệ đi và bảo: “Hãy vào làng ở phía trước mặt, các con sẽ thấy ngay một con lừa mẹ bị buộc và một lừa con bên cạnh, hãy tháo dây và dẫn về đây cho Ta. 3 Nếu có ai hỏi gì, các con hãy nói: ‘Chúa cần chúng.’ Người ấy sẽ để các con dẫn đi ngay.”
4 Việc này đã xảy ra để lời của đấng tiên tri được ứng nghiệm:
5 “Hãy nói cho con gái Si-ôn[a] biết:
Kìa, Vua ngươi ngự đến cùng ngươi,
Khiêm nhu cưỡi trên lưng lừa,
Và lừa con, con của lừa mang ách.”[b]
6 Hai môn đệ đi và làm y như lời Ngài dặn bảo. 7 Họ dẫn lừa mẹ và lừa con về, lấy áo mình trải trên lưng lừa và để Đức Giê-su cưỡi lên. 8 Một đám rất đông dân chúng trải áo mình trên đường, những người khác chặt cành cây trải khắp lối đi. 9 Cả đoàn dân trước sau đều hô to:
10 Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành phố náo động, hỏi nhau: “Người này là ai?”
11 Đám đông trả lời: “Đây là tiên tri Giê-su từ Na-xa-rét xứ Ga-li-lê.”
Chúa Dẹp Sạch Đền Thờ(B)
12 Đức Giê-su vào trong đền thờ và đuổi hết những kẻ mua bán ra ngoài. Ngài lật đổ bàn của những người đổi tiền và lật đổ ghế của mấy kẻ bán bồ câu. 13 Ngài phán cùng họ: “Kinh Thánh chép: ‘Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các người biến thành sào huyệt trộm cướp.’ ”[e]
14 Có những người mù và què đến với Ngài trong đền thờ và Ngài chữa lành cho họ. 15 Nhưng các thượng tế và giáo sư Kinh Luật thấy các việc diệu kỳ Ngài làm cũng như nghe những lời trẻ em reo lên trong đền thờ: “Hô-sa-na Con vua Đa-vít,” 16 thì tức giận hỏi Ngài: “Ông có nghe chúng nó nói gì không?” Đức Giê-su trả lời: “Có, thế các ông chưa đọc lời Kinh Thánh: ‘Chúa đã được miệng trẻ thơ và em bé còn bú ca ngợi sao?’ ”[f]
17 Sau đó Ngài lìa họ, ra khỏi thành phố đến làng Bê-tha-ni và nghỉ đêm ở đó.
Chúa Quở Trách Cây Vả(C)
18 Sáng sớm hôm sau trên đường trở lại thành phố, Đức Giê-su đói. 19 Khi thấy một cây vả ở bên đường, Ngài đến gần nhưng chỉ thấy toàn lá mà thôi; Ngài quở: “Mày sẽ không bao giờ ra trái nữa!” Lập tức cây vả khô héo.
20 Thấy thế các môn đệ ngạc nhiên hỏi: “Làm sao mà cây vả héo khô ngay như vậy?”
21 Đức Giê-su trả lời: “Thật, Ta bảo các con, nếu các con có đức tin và không nghi ngờ, thì chẳng những các con có thể làm cho cây vả khô như vậy, mà ngay cả khi bảo ngọn núi này hãy cất mình lên và quăng xuống biển thì cũng sẽ được. 22 Bất cứ điều gì các con xin trong khi cầu nguyện với đức tin, các con sẽ nhận được.”
Thẩm Quyền Của Đức Giê-su(D)
23 Đức Giê-su vào đền thờ; lúc Ngài đang giảng dạy, các thượng tế và trưởng lão trong dân chúng đến hỏi: “Ông lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này và ai cho ông quyền ấy?”
24 Đức Giê-su đáp: “Ta cũng sẽ hỏi các ông một câu, nếu các ông trả lời được Ta sẽ cho các ông biết Ta lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này. 25 Phép báp-tem của Giăng từ đâu mà đến? Từ Trời hay từ người?” Họ thảo luận với nhau: “Nếu chúng ta nói từ Trời, ông ấy sẽ bảo mình: ‘Vậy sao các ông không tin Giăng?’ 26 Nếu nói: ‘Từ loài người,’ chúng ta sợ dân chúng vì ai cũng cho rằng Giăng là một vị tiên tri.”
27 Vì thế họ trả lời: “Chúng tôi không biết.” Đức Giê-su đáp: “Ta cũng không nói cho các ông biết Ta lấy thẩm quyền nào mà làm những việc này.”
Ngụ Ngôn Về Hai Người Con
28 “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông đến nói với người con thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi ra vườn nho làm việc.’
29 Nó thưa: ‘Con không muốn đi!’ Nhưng sau đó nó hối hận và lại đi.
30 Ông cũng đến bảo người con thứ hai như thế. Nó đáp: ‘Thưa cha, để con đi’, nhưng nó lại không đi.
31 Vậy trong hai đứa con đó, đứa nào đã làm theo ý cha?” Họ đáp: “Đứa thứ nhất.” Đức Giê-su phán: “Thật, Ta bảo các ông những người thu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào nước Đức Chúa Trời trước các ông. 32 Vì Giăng đã đến dạy các ông theo con đường công chính, nhưng các ông không tin người, còn những người thu thuế và phường đĩ điếm lại tin người. Chính các ông đã thấy rõ mà vẫn không chịu hối cải và tin theo người.”
Ngụ Ngôn Về Người Trồng Nho(E)
33 “Các ông hãy nghe một ngụ ngôn khác: Một người điền chủ kia trồng một vườn nho, rào chung quanh, đào một hầm ép nho trong vườn và xây tháp canh. Sau đó ông khoán cho người làm công và đi xa. 34 Gần đến mùa nho, chủ sai đầy tớ đến cùng những người làm công để thu hoa lợi.
35 Nhưng bọn người làm công bắt các đầy tớ, đánh đập đứa này, giết hại đứa kia, và ném đá đứa nọ. 36 Chủ vườn lại sai một số đầy tớ khác đến đông hơn trước, nhưng chúng cũng đối xử với họ như vậy. 37 Cuối cùng chủ sai chính con trai mình đến, vì nghĩ rằng: ‘chúng sẽ kính trọng con ta.’
38 Nhưng khi thấy con trai chủ, bọn người làm công bàn với nhau: Đây là con thừa tự, ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài nó. 39 Chúng bắt người con ấy, ném ra ngoài vườn nho và giết đi.
40 Vậy khi điền chủ đến, ông sẽ đối xử với bọn người làm công kia thế nào?”
41 Họ đáp: “Chủ sẽ thẳng tay tiêu diệt bọn hung ác kia và giao vườn cho những người làm công khác để nộp hoa lợi đúng mùa.”
42 Đức Giê-su phán cùng họ: “Các ông chưa từng đọc trong Kinh Thánh sao?
‘Viên đá đã bị thợ nề loại bỏ
Lại trở thành phiến đá đầu góc nhà.
Chúa đã làm điều này,
Và là việc kỳ diệu trước mắt chúng ta.’[g]
43 Vì vậy Ta bảo các ông: Nước Đức Chúa Trời sẽ được cất khỏi các ông và ban cho một dân tộc khác là dân sẽ đem lại hoa lợi. 44 Ai ngã trên đá này sẽ bị tan nát, còn khi đá rơi trên ai, nó sẽ nghiền nát kẻ ấy thành cát bụi.”
45 Khi các thượng tế và người Pha-ri-si nghe những ngụ ngôn ấy, họ hiểu Ngài nói về chính mình, 46 nên họ tìm cách bắt Đức Giê-su; tuy nhiên họ sợ đám đông vì dân chúng nhìn nhận Ngài là một tiên tri.
Dân Số Thành Giê-ru-sa-lem
11 Các nhà lãnh đạo quần chúng cư ngụ trong thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng còn lại bắt thăm đem một phần mười dân số vào cư ngụ trong thành thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi chín phần kia được ở trong các thành khác. 2 Dân chúng đặc biệt biết ơn những người nào tình nguyện vào sống trong thành Giê-ru-sa-lem.
3 Sau đây là danh sách các nhà lãnh đạo cấp tỉnh sống tại Giê-ru-sa-lem, trong khi dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, người Lê-vi, người phục dịch đền thờ, và con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn sống mỗi người trong đất mình và thành mình, trong các thành khác thuộc Giu-đa. 4 Một số người thuộc con cháu Giu-đa và Bên-gia-min sống tại Giê-ru-sa-lem.
Dòng dõi Giu-đa có:
A-tha-gia, con U-xia, cháu Xa-cha-ri, chắt A-ma-ria, chút Sê-pha-tia, chít Ma-ha-la-ên, thuộc con cháu Phê-rết; 5 và Ma-a-sê-gia, con Ba-rúc, cháu Côn-hô-xe, chắt Ha-xa-gia, chút A-đa-gia, chít Giô-gia-ríp (Giô-gia-ríp là con Xa-cha-ri), thuộc con cháu Sê-la.
6 Tổng cộng có 468 người thuộc dòng Phê-rết sống tại Giê-ru-sa-lem, toàn là người dũng cảm.[a]
7 Sau đây là dòng dõi Bên-gia-min:
Sa-lu, con Mê-su-lam, cháu Giô-ết, chắt Phê-đa-gia, chút Cô-la-gia, chít Ma-a-sê-gia (Ma-a-sê-gia là con Y-thi-ên, cháu Ê-sai), 8 cùng với anh em ông, tổng cộng là 928 người dũng cảm;[b]
9 Giô-ên, con Xiếc-ri, chỉ huy họ, và Giu-đa, con Ha-sê-nua, làm phó thị trưởng.
10 Các thầy tế lễ gồm có: Giê-đa-gia, con của Giô-gia-ríp, Gia-kin, 11 Sê-ra-gia, con Hinh-kia, cháu Mê-su-lam, chắt Xa-đốc, chút Mê-ra-giốt, chít A-hi-túp, thầy thượng tế quản lý đền thờ Đức Chúa Trời; 12 cùng với các thầy tế lễ khác[c] phục vụ trong đền thờ, tổng cộng là 822 người;
A-đa-gia, con Giê-rô-ham, cháu Phê-la-dia, chắt Am-si, chút Xa-cha-ri, chít Phát-hua, Phát-hua là con Manh-ki-gia, 13 cùng với các thầy tế lễ khác, đều là trưởng tộc, hết thảy là 242 người;
A-ma-sai, con A-xa-rên, cháu Ác-xai, chắt Mê-si-lê-mốt, chút Y-mê, 14 cùng với các thầy tế lễ khác, toàn là chiến sĩ dũng cảm, hết thảy là 128 người.
Xáp-di-ên, con Hạt-ghê-đô-lim, chỉ huy họ.
15 Những người Lê-vi gồm có:
Sê-ma-gia, con Ha-súp, cháu A-ri-kham, chắt Ha-sa-kia, chút Bun-ni;
16 Sa-bê-thai và Giô-xa-bát, thuộc cấp lãnh đạo người Lê-vi, trông coi các việc bên ngoài đền thờ;
17 Mát-tan-gia, con Mi-ca, cháu Xáp-đi, chắt A-sáp, trưởng ban tôn vinh khởi xướng bài ca cảm tạ trong giờ cầu nguyện;
Bạc-bu-kia giữ chức phó trưởng ban giữa vòng người Lê-vi; và Áp-đa, con Sa-mua, cháu Ga-la, chắt Giê-đu-thun.
18 Tổng cộng những người Lê-vi sống trong thành thánh là 284 người.
19 Những người gác cổng gồm có A-cúp, Tanh-môn, và các anh em canh giữ cổng, tổng cộng là 172 người.
20 Những người còn lại trong dân Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, và người Lê-vi, sống trong khắp các thành thuộc Giu-đa, mỗi người trong phần đất thừa hưởng của cha ông.
21 Những người phục dịch đền thờ cư ngụ tại Ô-phên; Xi-ha và Ghít-ba quản lý những người này.
22 Người chỉ huy những người Lê-vi sống tại Giê-ru-sa-lem là U-xi, con Ba-ni, cháu Ha-sa-bia, chắt Mát-tan-gia, chút Mi-ca, thuộc dòng A-sáp, là dòng các ca nhạc sĩ chịu trách nhiệm về sự thờ phượng trong đền thờ Đức Chúa Trời, 23 vì có lệnh vua ban truyền ấn định trọng trách hằng ngày cho các ca nhạc sĩ. 24 Phê-ta-hia, con Mê-sê-xa-bên, thuộc dòng Xê-ra, con Giu-đa, cố vấn[d] cho vua trong mọi công việc liên hệ đến dân chúng.
Bản Liệt Kê Những Vùng Định Cư
25 Sau đây là những vùng định cư, kể cả ruộng nương.
Một số người Giu-đa định cư ở Ki-ri-át A-ra-ba và các thôn ấp phụ cận, Đi-bôn và các thôn ấp phụ cận, Giê-cáp-xê-ên và các xã phụ cận, 26 Giê-sua, Mô-la-đa, Bết-phê-lê, 27 Hát-sa-su-anh, Bê-e-sê-ba và các thôn ấp phụ cận, 28 Xiếc-lác, Mê-cô-na và các thôn ấp phụ cận, 29 En-rim-môn, Xô-ra, Giát-mút, 30 Xa-nô-a, A-đu-lam và các xã phụ cận, La-kích và đồng ruộng chung quanh, A-xê-ka và các thôn ấp phụ cận. Vậy họ định cư[e] từ Bê-e-sê-ba cho đến thung lũng Hin-nôm.
31 Một số người Bên-gia-min định cư ở Ghê-ba, Mích-ma, A-gia, Bê-tên và các thôn ấp phụ cận, 32 A-na-tốt, Nóp, A-na-nia, 33 Nát-so, Ra-ma, Ghi-tha-im, 34 Ha-đi, Xê-bô-im, Nê-ba-lát, 35 Lô-đơ, Ô-nô, và thung lũng những người thợ thủ công.
36 Một số gia tộc người Lê-vi vốn ở Giu-đa gia nhập địa phận Bên-gia-min.[f]
Phao-lô Về Giê-ru-sa-lem
21 Chúng tôi từ giã họ ra khơi. Tàu chạy thẳng qua đảo Cốt, hôm sau chúng tôi đến đảo Rô-đơ rồi đến Ba-ta-ra. 2 Gặp một chiếc tàu đi Phê-ni-xi, chúng tôi xuống tàu và rời bến. 3 Thấy bờ biển Síp, chúng tôi chạy ngang phía nam đảo này, trực chỉ Sy-ri, rồi cập bến Ty-rơ cho tàu dỡ hàng. 4 Tại đây, chúng tôi gặp một số môn đồ nên ở lại với họ bảy ngày. Các môn đồ được Thánh Linh báo trước đã khuyên Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 5 Nhưng sau những ngày đó, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Tất cả môn đồ cùng vợ và các con đều tiễn chúng tôi ra ngoài thành phố, và quỳ gối trên bãi biển mà cầu nguyện. 6 Từ giã nhau, chúng tôi xuống tàu, còn các môn đồ trở về nhà.
7 Chặng hải trình từ Ty-rơ chấm dứt tại Bê-tô-lê-mai. Chúng tôi lên bờ chào các môn đồ và ở lại với họ một ngày. 8 Hôm sau, đến Sê-sa-rê, chúng tôi vào trọ nhà ông truyền giáo Phi-líp là một trong bảy vị chấp sự.[a] 9 Ông có bốn con gái đồng trinh thường nói tiên tri. 10 Mấy ngày sau, A-ga-bút một nhà tiên tri từ xứ Giu-đê xuống, 11 đến thăm chúng tôi, lấy nịt lưng của Phao-lô tự trói tay chân mình và nói: “Đây là điều Thánh Linh phán dạy: Người chủ chiếc dây nịt này sẽ bị người Do Thái trói như vầy tại Giê-ru-sa-lem và nộp vào tay người ngoại quốc.”
12 Nghe xong, chúng tôi và các môn đồ địa phương đều nài nỉ Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 13 Nhưng Phao-lô đáp: “Anh em làm gì mà khóc lóc cho đau lòng tôi. Chẳng những tôi chịu trói mà còn sẵn lòng chịu chết vì danh Chúa Giê-su tại Giê-ru-sa-lem!” 14 Sau khi không thuyết phục được Phao-lô thì họ nói rằng: “Nguyện ý Chúa được nên!”
15 Sau đó, chúng tôi chuẩn bị và đi lên Giê-ru-sa-lem. 16 Có vài môn đồ ở Sê-sa-rê cùng đi và đưa chúng tôi đến trọ tại nhà của Ma-na-sơn, một người Síp và là một môn đồ kỳ cựu.
Phao-lô Viếng Thăm Gia-cơ
17 Đến Giê-ru-sa-lem, chúng tôi được anh em tín hữu vui mừng tiếp đón. 18 Hôm sau, Phao-lô cùng chúng tôi đến thăm Gia-cơ. Tất cả các trưởng lão đều có mặt. 19 Chào hỏi xong, Phao-lô tường thuật từng chi tiết những việc Đức Chúa Trời đã thực hiện giữa các dân tộc ngoại quốc qua chức vụ mình.
20 Nghe xong, họ ca ngợi Đức Chúa Trời, rồi bảo Phao-lô: “Anh ơi, anh thấy không? Bao nhiêu vạn người Do Thái đã tin theo Đạo và tất cả đều cuồng nhiệt về Kinh Luật Môi-se. 21 Họ đã được báo cáo rằng anh dạy người Do Thái ở khắp các nước ngoài bỏ Kinh Luật Môi-se, đừng làm lễ cắt bì cho trẻ con và đừng theo tục lệ Do Thái nữa. 22 Chắc hẳn họ đã nghe tin về anh rồi, bây giờ chúng ta phải làm sao? 23 Vậy anh nên nghe lời chúng tôi khuyên: Ở đây có bốn người mắc lời hứa nguyện. 24 Anh cứ đưa họ đi và làm lễ tẩy sạch với họ, cũng chịu tiền cho họ xuống tóc, thì mọi người sẽ biết rằng người ta đã báo cáo không đúng về anh, chứ anh cũng tuân giữ Kinh Luật. 25 Về những tín hữu trong các dân tộc ngoại quốc, chúng tôi đã viết thư cho họ biết rằng họ không được ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngạt và đừng gian dâm.”
26 Phao-lô đem bốn người ấy đi và hôm sau cùng làm lễ tẩy sạch với họ. Rồi ông vào đền thờ báo cáo ngày nào cuộc tẩy sạch sẽ hoàn tất và lễ vật sẽ dâng lên cho mỗi người trong nhóm mình.
Phao-lô Bị Bắt Trong Đền Thờ
27 Gần xong bảy ngày ấy, bỗng có mấy người Do Thái gốc Tiểu Á thấy Phao-lô trong đền thờ. Họ liền sách động quần chúng bắt Phao-lô, 28 và gào thét: “Hỡi các người Y-sơ-ra-ên! Giúp chúng tôi với! Chính tên này đã tuyên truyền khắp nơi, xui giục mọi người chống lại dân tộc, Kinh Luật và Nơi Thánh này.” Hơn thế nữa, hắn còn dẫn người Hy-lạp vào trong đền thờ, làm ô uế Nơi Thánh này. 29 Vì trước đó họ đã thấy Trô-phim, người Ê-phê-sô ở trong thành phố với Phao-lô, nên họ tưởng ông đem Trô-phim vào trong đền thờ.
30 Cả thành phố đều náo loạn, dân chúng từ khắp nơi chạy đến, bắt Phao-lô kéo ra khỏi đền thờ. Lập tức, các cửa đền đóng lại. 31 Họ đang tìm cách giết Phao-lô thì viên tư lệnh quân La Mã được tin báo rằng cả thành phố đều rối loạn. 32 Lập tức, ông điều động một số sĩ quan và binh sĩ tức tốc kéo đến chỗ đám đông. Thấy viên quan La Mã và binh sĩ, dân chúng ngưng tay không đánh đập Phao-lô nữa.
33 Viên quan đến gần, bắt Phao-lô và ra lệnh trói lại bằng hai sợi xích, rồi mới hỏi: “Tên này là ai? Đã làm những gì?” 34 Trong đám đông người gào thế này, kẻ thét thế kia, tạo nên một sự lộn xộn đến nỗi viên quan không thể nào tìm biết sự việc diễn tiến ra sao cả, nên ông ra lệnh cho binh sĩ giải Phao-lô vào trong đồn. 35 Khi Phao-lô lên tới các bậc thềm, dân chúng càng hung bạo đến nỗi binh sĩ phải khiêng ông đi. 36 Dân chúng kéo theo đông đảo, gầm thét: “Giết nó đi!”
Phao-lô Tự Biện Hộ Trước Người Do Thái
37 Khi sắp được khiêng vào trong đồn, Phao-lô hỏi viên quan: “Tôi có được phép ngỏ đôi lời với ngài không?” Viên quan nói: “Anh biết tiếng Hy Lạp sao? 38 Thế anh không phải là tên phản loạn Ai Cập trước đây đã lãnh đạo bốn ngàn quân khủng bố kéo vào đồng hoang sao?”
39 Phao-lô đáp: “Tôi là người Do Thái, quê ở Tạc-sơ, thuộc Si-li-si, công dân một thành danh tiếng. Xin ngài cho tôi được nói với dân chúng!”
40 Được phép rồi, Phao-lô đứng trên bực thềm đồn quân, ra hiệu cho dân chúng. Khi ai nấy yên lặng, ông phát biểu bằng tiếng A-ram rằng:
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)