M’Cheyne Bible Reading Plan
Ba Thiên Sứ Đến Thăm Áp-ra-ham
18 CHÚA xuất hiện gặp Áp-ra-ham cạnh các cây sồi ở Mam-rê khi ông đang ngồi tại cửa trại vào một ngày trời nắng nóng. 2 Vừa ngước mắt nhìn lên, ông thấy ba người đứng trước mặt mình, ông liền rời cửa trại chạy ra chào đón và sấp mình xuống đất.
3 Áp-ra-ham thưa: “Thưa Chúa, nếu tôi được ơn dưới mắt Chúa, xin đừng bỏ qua đầy tớ Chúa. 4 Xin cho tôi đem một ít nước để các vị rửa chân và kính mời các vị nghỉ mát dưới bóng cây. 5 Cho tôi lấy bánh để các vị ăn lót dạ rồi hãy lên đường, vì các vị đã hạ cố đến thăm nhà đầy tớ Chúa.” Ba người ấy đáp:
“Hãy cứ làm theo như ngươi nói.”
6 Áp-ra-ham vội vã vào trại bảo Sa-ra: “Mau lên, lấy ba đấu bột mịn nhồi rồi làm bánh đi.”
7 Áp-ra-ham chạy đến bầy gia súc, chọn một con bê béo, giao cho đầy tớ nấu dọn gấp. 8 Áp-ra-ham đem sữa và bơ cùng thịt con bê đã nấu xong, dọn ra trước mặt ba người ấy rồi đứng hầu gần bàn dưới tán cây trong khi họ ăn.
9 Họ hỏi Áp-ra-ham: “Sa-ra vợ ngươi ở đâu?” Áp-ra-ham thưa: “Nàng ở trong trại.”
10 Một vị bảo: “Độ một năm nữa, Ta sẽ trở lại đây thăm con. Khi đó, Sa-ra, vợ con sẽ có một con trai.”
Sa-ra đứng nghe tại cửa trại sau lưng vị ấy. 11 Áp-ra-ham đã già và Sa-ra tuổi cũng đã cao. Sa-ra đã quá tuổi sinh con. 12 Sa-ra cười thầm tự bảo: “Già như tôi mà còn được niềm vui làm mẹ nữa sao! Chúa tôi cũng đã già quá rồi!”
13 CHÚA hỏi Áp-ra-ham: “Tại sao Sa-ra cười và nói: ‘Già cả như tôi thể này mà thật còn sinh con được sao?’ 14 Có điều gì quá khó cho CHÚA không? Đúng kỳ ấn định, trong một năm nữa, Ta sẽ trở lại thăm con, lúc ấy Sa-ra sẽ có một con trai.”
15 Sa-ra sợ hãi, chối rằng: “Con có cười đâu!”
Chúa đáp: “Thật, con đã có cười!”
Áp-ra-ham Cầu Xin Chúa Dung Thứ Thành Sô-đôm
16 Các vị đứng dậy lên đường hướng về Sô-đôm. Áp-ra-ham theo tiễn chân họ đi. 17 CHÚA nói: “Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều Ta sẽ làm không? 18 Áp-ra-ham sẽ thành một dân tộc lớn, hùng cường và mọi dân tộc trên thế giới sẽ nhờ người mà được phước. 19 Vì Ta đã chọn Áp-ra-ham để người hướng dẫn con cháu và gia nhân theo người vâng giữ đường lối của CHÚA, làm điều phải và công chính, để CHÚA có thể thực hiện các lời Ngài đã hứa với Áp-ra-ham.”
20 Bấy giờ CHÚA bảo Áp-ra-ham: “Tiếng than oán về Sô-đôm và Gô-mô-rơ quá lớn, tội ác chúng nó thật nghiêm trọng. 21 Ta sẽ xuống đó xem có đúng như tiếng than vãn đã thấu đến Ta không. Nếu không thì Ta sẽ biết.”
22 Các người ấy quay đi về hướng Sô-đôm, nhưng Áp-ra-ham còn đứng lại trước mặt CHÚA. 23 Áp-ra-ham đến gần CHÚA và hỏi: “CHÚA tiêu diệt người công chính chung với người ác sao? 24 Nếu có năm mươi người công chính trong thành thì sao? CHÚA sẽ tiêu diệt hay CHÚA sẽ dung thứ họ vì năm mươi người công chính ở giữa họ.” 25 “CHÚA không bao giờ làm việc ấy! Không bao giờ CHÚA diệt người công chính chung với kẻ ác! Không bao giờ CHÚA đối xử với người công chính cũng giống như những người ác. Không thể như vậy! Đấng Phán Xét tối cao của cả thế giới không xét xử công minh sao.”
26 CHÚA đáp: “Nếu Ta tìm thấy năm mươi người công chính trong thành Sô-đôm thì vì cớ họ Ta sẽ dung thứ cả thành.”
27 Áp-ra-ham tiếp lời: “Thưa CHÚA, con xin liều lĩnh thưa với CHÚA, dù con chỉ là tro bụi. 28 Nhỡ thiếu năm người công chính trong số năm mươi người công chính đó, CHÚA có tiêu diệt cả thành không?”
CHÚA đáp: “Nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không tiêu diệt nó!”
29 Áp-ra-ham lại nói với CHÚA: “Thưa CHÚA, nếu chỉ có bốn mươi người công chính thì sao?”
CHÚA đáp: “Vì cớ bốn mươi người đó, Ta sẽ không tiêu diệt nó.”
30 Rồi ông nói: “Xin CHÚA đừng giận, cho con được thưa: ‘Nếu trong thành có ba mươi người công chính thì sao?’ ”
CHÚA trả lời: “Ta sẽ chẳng tiêu diệt nó nếu Ta tìm được ba mươi người công chính.”
31 Áp-ra-ham nói: “Con lại liều lĩnh xin thưa với CHÚA: Nếu chỉ có hai mươi người công chính thì sao?”
CHÚA đáp: “Vì hai mươi người đó, Ta sẽ chẳng tiêu diệt nó.”
32 Áp-ra-ham lại thưa: “Xin CHÚA đừng giận, con chỉ xin thưa một lời nữa: Nếu trong đó có mười người công chính thì sao?”
CHÚA đáp: “Vì cớ mười người đó, Ta cũng chẳng tiêu diệt nó!”
33 Xong câu chuyện với Áp-ra-ham, CHÚA ra đi, Áp-ra-ham quay về trại.
Đức Giê-su Hóa Hình(A)
17 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem riêng Phê-rơ, Gia cơ và Giăng em người lên một ngọn núi cao. 2 Ngài hóa hình trước mắt họ. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời, áo Ngài trở nên trắng như ánh sáng. 3 Kìa, họ thấy Môi-se và Ê-li xuất hiện nói chuyện với Ngài.
4 Phê-rơ thưa với Đức Giê-su: “Thưa Chúa, chúng ta ở đây thật tốt quá. Nếu Chúa muốn, con sẽ dựng tại đây ba trại, một cái cho Chúa, một cái cho Môi-se và một cái cho Ê-li.”
5 Khi Phê-rơ đang nói, một đám mây sáng rực che phủ họ. Kìa, từ đám mây có tiếng phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn. Hãy nghe theo Người!”
6 Nghe thế, các môn đệ ngã sấp xuống đất, kinh hãi vô cùng. 7 Đức Giê-su đến gần, vỗ vào họ và bảo: “Hãy đứng dậy, đừng sợ!” 8 Khi ngước mắt nhìn lên, họ không thấy ai cả ngoại trừ Đức Giê-su.
9 Trên đường xuống núi, Đức Giê-su căn dặn các môn đệ: “Đừng nói với ai về điều các con thấy cho đến khi Con Người được sống lại từ cõi chết.”[a]
10 Các môn đệ hỏi: “Vậy sao các giáo sư Kinh Luật lại nói rằng Ê-li phải đến trước?”
11 Ngài đáp: “Phải, Ê-li đến và sẽ phục hồi mọi sự. 12 Nhưng Ta bảo các con: Ê-li đã đến rồi, nhưng người ta không nhận biết người và đã đối xử với người theo ý họ, Con Người cũng sẽ phải chịu khổ nạn bởi họ cách như thế.” 13 Lúc ấy các môn đệ mới hiểu Ngài nói về Giăng Báp-tít.
Đức Giê-su Chữa Trị Em Bé Bị Quỷ Ám(B)
14 Khi Đức Giê-su và môn đệ đến cùng đoàn dân đông, một người lại gần quỳ xuống xin: 15 “Thưa Thầy, xin thương xót con trai tôi đang mắc bệnh kinh phong, đau đớn lắm; nhiều lần nó ngã vào lửa, lắm lúc lại ngã xuống nước. 16 Tôi đã đưa nó đến cho môn đệ của Thầy nhưng họ không chữa trị nổi.”
17 Đức Giê-su đáp: “Ôi, dòng dõi vô tín và xấu xa! Ta phải ở với các ngươi cho đến chừng nào? Ta còn phải chịu đựng các ngươi bao lâu nữa? Hãy đem đứa trẻ đến đây cho Ta.” 18 Đức Giê-su quở trách quỷ, nó liền xuất khỏi đứa trẻ và ngay lúc ấy đứa trẻ được khỏi bệnh.
19 Sau đó các môn đệ đến hỏi riêng Đức Giê-su: “Tại sao chúng con không đuổi quỷ ấy được?”
20 Ngài trả lời: “Tại các con ít đức tin, vì thật, Ta bảo các con, nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải, các con có thể bảo hòn núi này rằng: ‘Hãy dời qua bên kia.’ thì nó sẽ dời đi. Không có gì các con không làm được. 21 Những loài quỷ này chỉ trừ được bằng sự cầu nguyện và kiêng ăn.”[b]
Đức Giê-su Báo Trước Về Sự Chết Và Sống Lại Của Ngài(C)
22 Khi các môn đệ họp lại với Đức Giê-su tại Ga-li-lê, Ngài phán: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta. 23 Họ sẽ giết chết Người, nhưng đến ngày thứ ba, Người sẽ được sống lại.” Các môn đệ lo buồn vô cùng.
Nộp Thuế Đền Thờ
24 Vừa vào đến thành Ca-pha-na-um, mấy người thâu thuế đền thờ đến hỏi Phê-rơ: “Thầy các anh không nộp thuế sao?”
25 Phê-rơ đáp: “Có chứ!” Khi vừa vào trong nhà Đức Giê-su hỏi Phê-rơ trước: “Si-môn, con nghĩ thế nào? Các vua thế gian thu thuế và nhận cống lễ từ ai? Từ con cái mình, hay từ người ngoài?”
26 Thưa: “Từ người ngoài.” Đức Giê-su phán: “Thế thì con cái được miễn thuế. 27 Nhưng để khỏi gây cho họ vấp phạm, con hãy đi ra biển thả câu, bắt con cá đầu tiên, mở miệng nó ra, con sẽ thấy một đồng bạc, hãy đem đồng bạc đó đóng thuế cho Ta và cho con.”
Bảo Vệ An Ninh Cho Thành Giê-ru-sa-lem
7 Sau khi tường thành đã xây xong, tôi tra các cánh cổng. Những người gác cổng, ca nhạc sĩ, và người Lê-vi nhận trách nhiệm canh gác. 2 Tôi giao cho Ha-na-ni, em tôi, và Ha-na-ni-ya, sĩ quan chỉ huy thành lũy, nhiệm vụ cai trị Giê-ru-sa-lem. Ha-na-ni-ya là người đáng tin cậy và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều người khác. 3 Tôi dặn họ: “Anh em không nên để cổng thành Giê-ru-sa-lem mở trong[a] giờ nắng gắt,[b] và trong khi còn phiên trực, người trực[c] phải đóng cổng cài then cho chắc. Anh em cũng nên cắt phiên gác cho dân cư Giê-ru-sa-lem, người này nơi vọng gác, kẻ kia nơi đối ngang nhà mình.”
4 Thành phố rộng lớn, nhưng dân cư thưa thớt, và nhà cửa xây lại chưa đủ vào đâu.[d] 5 Đức Chúa Trời giục lòng tôi triệu tập các nhà quyền quý, các viên chức, và thường dân để đăng ký hộ tịch.
Danh Sách Người Hồi Hương
Tôi tìm được gia phả của những người trở về đợt đầu, có ghi như sau:
6 Đây là những người trong tỉnh đã trở về từ giữa vòng những phu tù mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lưu đày. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. 7 Họ cũng về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-cai, Binh-san, Mích-bê-rết. Biết-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.
Tổng số những người nam trong dân Y-sơ-ra-ên:
8 Con cháu Pha-rốt, 2,172 người,
9 Con cháu Sê-pha-tia, 372 người,
10 Con cháu A-ra, 652 người,
11 Con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu Giê-sua và Giô-áp, 2,818 người,
12 Con cháu Ê-lam, 1,254 người,
13 Con cháu Xát-tu, 845 người,
14 Con cháu Xác-cai, 760 người,
15 Con cháu Bin-nui, 648 người,
16 Con cháu Bê-bai, 628 người,
17 Con cháu A-gát, 2,322 người,
18 Con cháu A-đô-ni-cam, 667 người,
19 Con cháu Biết-vai, 2,067 người,
20 Con cháu A-đin, 655 người,
21 Con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia, 98 người,
22 Con cháu Ha-sum, 328 người,
23 Con cháu Bết-sai, 324 người,
24 Con cháu Ha-ríp, 112 người,
25 Con cháu Ghi-bê-ôn, 95 người,
26 Người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, 188 người,
27 Người A-na-tốt, 128 người,
28 Người Bết-Ách-ma-vết, 42 người,
29 Người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, 743 người,
30 Người Ra-ma và Ghê-ba, 621 người,
31 Người Mích-ma, 122 người,
32 Người Bê-tên và A-hi, 123 người,
33 Người Nê-bô khác, 52 người,
34 Con cháu Ê-lam khác, 1,254 người,
35 Con cháu Ha-rim, 320 người,
36 Người Giê-ri-cô, 345 người,
37 Người Lô-đơ, Ha-đi, và Ô-nô, 721 người,
38 Con cháu Sê-na, 3,930 người,
39 Thầy tế lễ:
Con cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua, 973 người,
40 Con cháu Y-mê, 1,052 người,
41 Con cháu Phát-hua, 1,247 người,
42 Con cháu Ha-rim, 1,017 người,
43 Người Lê-vi:
con cháu Giê-sua, thuộc họ Cát-mi-ên, thuộc con cháu Hô-dê-va, 74 người,
44 Ca nhạc sĩ:
con cháu A-sáp, 148 người,
45 Người gác cổng:
con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn,
con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, 138 người,
46 Người phục dịch đền thờ:
con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
47 con cháu Kê-rốt, con cháu Sia, con cháu Pha-đôn,
48 con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai,
49 con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha-rơ,
50 con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa,
51 con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a,
52 con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sim,
53 con cháu Bạc-búc, con cháu Ha-khu-pha, con cháu Hát-bua,
54 con cháu Bát-lit, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hát-sa,
55 con cháu Bát-cốt, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác,
56 con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha.
57 Con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn:
con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-da,
58 con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên,
59 con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn.
60 Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn là 392 người.
61 Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đôn và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên:
62 Con cháu Đê-la-gia,
con cháu Tô-bi-gia, con cháu Nê-cô-đa, tổng cộng 642 người.
63 Về phía những thầy tế lễ:
con cháu Hô-bai-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bát-xi-lai, (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ).
64 Những người này tìm tên mình trong gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. 65 Quan tổng trấn cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời.
66 Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42,360 người. 67 Ngoài ra, có 7,337 nam nữ gia nhân 68 và 245 nam nữ ca sĩ, 69 435 con lạc đà, và 6,720 con lừa.
70 Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất.[e] Quan tổng trấn dâng vào quỹ một ngàn đa-riếc[f] 50 cái chậu, và 530 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. 71 Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất hai mươi ngàn đa-riếc[g] vàng, và hai ngàn hai trăm mi-na[h] bạc. 72 Dân chúng còn lại dâng hai mươi ngàn đa-riếc vàng, hai ngàn mi-na bạc, và 67 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ.
73 Các thầy tế lễ, những người Lê-vi, người gác cổng, ca nhạc sĩ, một số thường dân, những người phục dịch đền thờ, và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình.
Khi tháng bảy đến, dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong thành mình.
Tê-sa-lô-ni-ca
17 Phao-lô và Si-la đi ngang qua hai thành Am-phi-bô-li và A-bô-lô-ni rồi đến Tê-sa-lô-ni-ca; trong thành này có một hội đường của người Do Thái. 2 Phao-lô theo thói quen vào hội đường và liên tiếp trong ba ngày Sa-bát, dùng Kinh Thánh tranh luận với người Do Thái, 3 giải thích và chứng minh rằng Chúa Cứu Thế phải chịu thống khổ và sống lại từ kẻ chết. Ông nói: “Đức Giê-su này mà tôi rao truyền cho các ông đây chính là Chúa Cứu Thế!” 4 Một số người được thuyết phục, kết hợp với Phao-lô và Si-la, gồm rất nhiều người Hy Lạp từng kính thờ Đức Chúa Trời và một số đông phụ nữ thuộc giới thượng lưu.
5 Nhưng người Do Thái ghen ghét, rủ bọn côn đồ hung ác ngoài chợ, và tập họp đám đông, gây rối loạn trong thành phố. Họ kéo đến nhà Gia-sôn tìm hai người để đem nộp cho đám đông. 6 Tìm không được, họ kéo Gia-sôn và vài anh em tín hữu đến các nhà cầm quyền thành phố, lớn tiếng tố cáo: “Bọn gây rối thế giới đã đến đây, 7 và Gia-sôn chứa chấp chúng! Cả bọn chúng đều phạm luật của Sê-sa! Chúng bảo có một vua khác tên là Giê-su!” 8 Nghe lời tố cáo, dân chúng và các nhà cầm quyền thành phố đều náo động. 9 Nhưng họ chỉ bắt Gia-sôn và các đồng bạn nộp tiền bảo lãnh rồi thả ra.
Các Sứ Đồ Tại Bê-rê
10 Trời vừa tối, anh em tín hữu lập tức đưa Phao-lô và Si-la qua Bê-rê. Vừa đến nơi, hai ông vào hội đường Do Thái. 11 Những người này cởi mở hơn người Tê-sa-lô-ni-ca; họ nhiệt thành tiếp nhận Đạo Chúa, hằng ngày tra cứu Kinh Thánh để xét xem lời giảng có đúng không. 12 Vì thế nhiều người Do Thái tin nhận Chúa, ngoài ra còn có một số đông phụ nữ Hy Lạp thuộc giới thượng lưu và nhiều đàn ông cũng tin.
13 Nhưng khi người Do Thái ở Tê-sa-lô-ni-ca nghe tin Đạo Đức Chúa Trời cũng được Phao-lô công bố tại Bê-rê, họ liền kéo sang, sách động và gây rối trong quần chúng. 14 Anh em tín hữu lập tức đưa Phao-lô ra tận bờ biển, còn Si-la và Ti-mô-thê cứ lưu lại Bê-rê. 15 Các người hướng đạo đưa Phao-lô đến tận A-then, rồi quay về đem chỉ thị cho Si-la và Ti-mô-thê phải đến với Phao-lô càng sớm càng tốt.
A-then
16 Trong khi chờ đợi hai người tại A-then, Phao-lô tức giận vì thấy thành phố đầy dẫy thần tượng. 17 Ông biện luận với các người Do Thái trong hội đường, với những người Hy Lạp có lòng kính thờ Đức Chúa Trời và những người đến tại quãng trường hằng ngày.
18 Mấy triết gia thuộc hai trường phái Khoái Lạc và Khắc Kỷ tranh luận với Phao-lô. Vài người bảo: “Tên lắm lời này muốn nói gì đây?” Mấy người khác lại bảo: “Dường như nó tuyên truyền cho các quỷ thần ngoại quốc!” Họ nói thế vì nghe Phao-lô truyền giảng Phúc Âm về Đức Giê-su và sự sống lại. 19 Họ giữ Phao-lô lại, đưa đến trước hội đồng A-rê-ô-ba và bảo rằng: “Chúng tôi muốn biết giáo huấn mới mà ông đang nói đó! 20 Vì ông mang đến cho chúng tôi mấy điều lạ tai. Chúng tôi muốn biết ý nghĩa của những điều đó!” 21 (Tất cả dân A-then và ngoại kiều tại A-then chỉ dành thì giờ bàn tán và nghe những tư tưởng mới lạ nhất.)
22 Phao-lô đứng giữa hội đồng A-rê-ô-ba và nói: “Thưa quý vị là người A-then, tôi nhận thấy bất luận việc gì quý vị cũng rất sùng kính. 23 Khi đi qua quan sát các nơi thờ tự của quý vị, tôi có thấy một bàn thờ khắc chữ ‘Thờ Thần Không Biết’. Thần quý vị thờ mà không biết đó chính là thần tôi đang truyền cho quý vị.
24 Đức Chúa Trời đã sáng tạo vũ trụ và vạn vật, là Chúa Tể của trời và đất; Ngài không ngự trong các đền miếu do tay người làm ra, 25 cũng không cần tay người phục dịch như thể Ngài cần điều gì; Ngài ban sự sống, hơi thở và mọi vật cho mọi người. 26 Từ một người, Ngài dựng lên tất cả các dân tộc trong nhân loại cho họ ở khắp mặt địa cầu, định thời gian hiện hữu và biên giới cho họ cư trú, 27 để tìm kiếm Đức Chúa Trời, may ra có thể dò dẫm mà tìm được Ngài, dù Ngài không ở xa mỗi người trong chúng ta. 28 Vì ‘Trong Ngài, chúng ta sinh hoạt, cử động và hiện hữu’, như vài thi sĩ của quý vị đã nói: ‘Chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài.’
29 Vậy, đã là dòng dõi của Đức Chúa Trời, chúng ta đừng tưởng bản tính thần linh Ngài giống như vàng, bạc, đá, hình tượng điêu khắc hay sản phẩm tư tưởng của con người. 30 Trong quá khứ, Đức Chúa Trời đã bỏ qua sự ngu muội ấy, nhưng bây giờ Ngài ra lệnh cho tất cả loài người phải ăn năn, 31 vì Ngài đã ấn định một ngày để phán xét nhân loại cách công minh, do một Người Ngài đã chỉ định. Đức Chúa Trời đã xác chứng cho mọi người bằng cách khiến Người sống lại từ cõi chết.”
32 Nghe nói kẻ chết sống lại, một số người chế giễu, nhưng một số khác lại nói: “Chúng tôi muốn nghe ông nói chuyện này một lần nữa!” 33 Đến đây, Phao-lô bước ra khỏi hội đồng. 34 Nhưng có mấy người theo ông và tin nhận Chúa. Trong số ấy có Đê-ni, một nhân viên hội đồng A-rê-ô-ba, một bà tên Đa-ma-ri và những người khác nữa.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)