Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Sáng Thế 14

Áp-ram Cứu Lót Trong Cuộc Chiến

14 Lúc bấy giờ, Am-ra-phin vua Si-nê-a, A-ri-óc vua Ê-la-sa, Kết-rô-lao-me vua Ê-lam và Ti-đanh vua Gô-im gây chiến với Bê-ra vua Sô-đôm, Bi-rê-sa vua Gô-mô-rơ, Si-nê-áp vua Át-ma, Sê-mê-bê vua Yê-bô-in và vua của Bê-la tức là Xoa. Tất cả các vua này tập trung lực lượng tại thung lũng Si-đim, tức biển Muối. Các vua này trước kia đã thần phục vua Kết-rô-lao-me suốt mười hai năm, nhưng đến năm thứ mười ba, họ nổi loạn.

Năm thứ mười bốn, vua Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh kéo quân đánh bại quân Rê-pha-im ở Ách-ta-rốt Ca-ma-in, quân Su-sim ở Ham, quân Ê-mít ở cánh đồng Ki-ri-a-tha-im, và quân Hô-rít trên vùng đồi núi Sê-i-rơ, đến tận Ên-pha-ran, giáp sa mạc. Quân đồng minh quay về suối Xử-đoán,[a] (cũng gọi là Ca-đê), đánh bại luôn quân A-ma-léc và quân A-mô-rít đang đóng quanh vùng Ha-xa-san Ta-ma.

Các vua Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma, Xê-bô-im, và Bê-la tức là Xoa hợp lực xuất trận dàn binh trong thung lũng Si-đim chống lại Kết-rô-lao-me vua Ê-lam, Ti-đanh vua Gô-im, Am-ra-phin vua Si-nê-a và A-ri-óc vua Ê-la-sa. Bốn vua đánh với năm vua. 10 Thung lũng Si-đim có nhiều hố nhựa chai. Khi thua chạy, vua Sô-đôm và vua Gô-mô-rơ ngã vào hố, còn tàn quân trốn lên núi. 11 Quân chiến thắng cướp đoạt tất cả tài sản và thực phẩm của hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ rồi bỏ đi. 12 Họ cũng bắt Lót, cháu Áp-ram đang định cư tại Sô-đôm đem đi với của cải của người.

13 Một người trốn thoát, đến báo cáo cho Áp-ram, người Hê-bơ-rơ, đang kiều ngụ gần các cây sồi của Mam-rê. Mam-rê là người A-mô-rít, anh của Ếc-côn và A-ne, ba anh em đều đã kết ước với Áp-ram. 14 Nghe tin cháu bị bắt, Áp-ram liền triệu tập đoàn gia nhân[b] đã được huấn luyện thuần thục, gồm ba trăm mười tám người, đuổi theo quân đồng minh đến tận Đan. 15 Áp-ram chia gia nhân mình ra tấn công vào ban đêm, đánh bại quân địch và truy nã chúng tận Hô-ba, phía bắc Đa-mách. 16 Áp-ram đoạt lại tất cả tài sản và đem Lót, cháu mình trở về với tài sản của ông, cùng với những người phụ nữ và dân chúng.

Mên-chi-xê-đéc

17 Sau khi chiến thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram quay về. Vua Sô-đôm ra đón người tại thung lũng Sa-vê, tức là thung lũng Vua.

18 Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem và là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Tối Cao, đem bánh và rượu ra đón. 19 Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ram rằng:

“Cầu Đức Chúa Trời Tối Cao ban phước lành cho Áp-ram,
    Ngài là Đấng sáng tạo trời đất.
20 Đức Chúa Trời Tối Cao đáng được ca ngợi.
    Vì Ngài đã giao phó quân thù vào tay ngươi!”

Áp-ram dâng cho người một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.[c]

21 Vua Sô-đôm nói với Áp-ram: “Cho tôi xin lại người, còn tài vật xin ông cứ giữ lại!”

22 Nhưng Áp-ram đáp: “Tôi đã đưa tay lên thề với CHÚA là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng đã sáng tạo trời đất, 23 rằng tôi không lấy vật gì của vua cả, dù một sợi chỉ hay dây giầy cũng không, để vua sẽ chẳng bao giờ nói được là: ‘Ta đã làm cho Áp-ram giàu.’ 24 Tôi không lấy gì cả, ngoại trừ những gì mà đám gia nhân[d] đã ăn và phần chiến lợi phẩm chia cho những người đã đi với tôi. Hãy để cho A-ne, Ết-côn và Mam-rê lấy phần của họ đi!”

Ma-thi-ơ 13

Chuyện Ngụ Ngôn Về Người Gieo Giống(A)

13 Cũng trong ngày đó Đức Giê-su rời khỏi nhà, ra ngồi bên bờ biển. Nhiều đoàn người đến với Ngài, đến nỗi Ngài phải xuống ngồi trên một chiếc thuyền, còn tất cả dân chúng đứng trên bờ. Ngài dùng ngụ ngôn dạy dỗ dân chúng nhiều điều. Ngài kể: “Một người kia đi ra gieo giống. Đang khi gieo giống, một số hạt rơi trên đường đi, chim đến ăn hết. Một số khác rơi nhằm chỗ có đá, không có nhiều đất nên mọc lên ngay vì đất không sâu. Nhưng khi mặt trời mọc lên, bị sém nắng và vì không có rễ nên chết khô. Một số khác rơi nhằm bụi gai, gai mọc lên làm lúa bị nghẹt. Nhưng một số rơi vào chỗ đất tốt nên kết quả, hạt ra một trăm, hạt ra sáu chục, hạt ra ba chục. Ai có tai, hãy lắng nghe.”

10 Các môn đệ đến hỏi Ngài: “Sao Thầy dùng ngụ ngôn để dạy dân chúng?”

11 Ngài đáp: “Vì các con được ban cho hiểu biết sự huyền nhiệm về Nước Thiên Đàng, nhưng họ thì không. 12 Vì người có lại được cho thêm và đầy dẫy. Nhưng người không có, ngay cả điều họ có cũng bị cất đi. 13 Lý do Ta kể chuyện ngụ ngôn vì họ nhìn nhưng không thấy, lắng tai mà chẳng nghe, chẳng hiểu được. 14 Lời tiên tri I-sa nói về họ đã được ứng nghiệm:

‘Các ngươi cứ nghe nhưng không hiểu,
    Cứ nhìn nhưng không thấy.
15 Vì lòng dân này đã chai lì,
    Tai đã nặng,
    Mắt nhắm kín,
Nếu không, mắt họ đã thấy
    Tai đã nghe
    Và tâm trí họ hiểu rõ,
Để quay trở lại và Ta sẽ chữa lành cho.’ ”[a]

16 “Nhưng phước cho các con có mắt thấy được, có tai nghe được. 17 Vì thật, Ta bảo các con, nhiều tiên tri và người công chính mong ước được thấy những điều các con thấy, nghe lời các con nghe, mà không được.

18 Thế thì, các con hãy nghe ý nghĩa chuyện ngụ ngôn về người gieo giống. 19 Tất cả những ai nghe đạo Nước Đức Chúa Trời mà không hiểu thì quỷ dữ đến cướp mất hạt giống đã gieo trong lòng họ, đây là hạt giống rơi xuống đường. 20 Hạt giống rơi nhằm chỗ đất có đá chỉ về người nghe đạo liền vui mừng tiếp nhận, 21 nhưng không đâm rễ trong lòng, chỉ tạm thời nên khi gặp khó khăn hay bị bắt bớ vì đạo, họ bỏ đạo ngay. 22 Hạt giống rơi nhằm bụi gai chỉ về người nghe đạo nhưng lòng lo lắng về đời này, ham mê giàu sang, làm đạo chết nghẹt, không kết quả được. 23 Hạt giống rơi nhằm đất tốt chỉ về người nghe, hiểu đạo và kết quả, một thành trăm, một thành sáu chục, một thành ba chục.”

Ngụ Ngôn Về Cỏ Lùng Lẫn Trong Lúa

24 Đức Giê-su kể cho họ một chuyện ngụ ngôn khác: “Nước Thiên Đàng ví như một người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Nhưng đang khi mọi người ngủ, kẻ thù đến gieo cỏ lùng vào ruộng lúa của ông rồi bỏ đi. 26 Thế là lúa lớn lên và kết hạt, nhưng đồng thời cỏ lùng cũng xuất hiện.

27 Đầy tớ của chủ nhà đến nói với người: ‘Thưa chủ, chủ không gieo giống lúa tốt trong ruộng sao? Tại sao lại có cỏ lùng mọc trong ruộng?’

28 Chủ trả lời: ‘Kẻ thù đã làm đấy.’ Các đầy tớ thưa: ‘Chủ muốn chúng tôi đi nhổ cỏ không?’

29 Chủ đáp: ‘Không nên, e rằng khi nhổ cỏ các anh sẽ nhổ cả gốc lúa đi chăng. 30 Cứ để cả lúa lẫn cỏ mọc lên cho đến mùa gặt. Lúc ấy ta sẽ bảo thợ gặt nhổ cỏ trước, bó lại rồi đốt, sau đó sẽ gặt lúa đem trữ trong kho của ta.’ ”

Ngụ Ngôn Về Hạt Cải Và Men(B)

31 Đức Giê-su kể cho họ một chuyện ngụ ngôn khác: “Nước Thiên Đàng ví như một hạt cải người ta gieo trong vườn. 32 Hạt cải vốn nhỏ nhất trong tất cả các loại hạt nhưng khi lớn lại to hơn hết các loại rau khác, trở thành cây, chim trời đến làm tổ trên cành.”

33 Ngài cũng kể thêm một ngụ ngôn khác: “Nước Thiên Đàng ví như chất men một phụ nữ lấy trộn với ba thùng[b] bột cho đến khi tất cả bột dậy lên.”

Mục Đích Của Ngụ Ngôn(C)

34 Đức Giê-su dùng ngụ ngôn để dạy tất cả những điều này cho đám đông, không một điều gì Ngài dạy họ mà không dùng ngụ ngôn. 35 Điều này để ứng nghiệm lời tiên tri rằng:

“Ta sẽ mở miệng dạy dỗ bằng ngụ ngôn.
    Ta sẽ bày tỏ những điều bí ẩn từ khi sáng tạo thế giới.”[c]

Chúa Giải Thích Ngụ Ngôn Cỏ Lùng

36 Sau khi Đức Giê-su rời khỏi đám đông đi vào nhà, các môn đệ đến thưa: “Xin Thầy giải thích cho chúng con rõ ngụ ngôn cỏ lùng trong ruộng.”

37 Ngài phán: “Người gieo giống tốt là Con Người. 38 Ruộng là thế gian, hạt giống tốt là con dân Nước Đức Chúa Trời, cỏ lùng là con cái quỷ vương. 39 Kẻ thù gieo cỏ là quỷ dữ, mùa gặt là ngày tận thế, thợ gặt là thiên sứ.

40 Như cỏ bị nhổ và đốt trong lửa thế nào thì ngày tận thế cũng như thế. 41 Con Người sẽ sai thiên sứ nhặt khỏi vương quốc Ngài tất cả những kẻ gây tội ác và những kẻ phạm pháp, 42 rồi ném chúng vào lò lửa, là nơi đầy tiếng than khóc và rên xiết. 43 Còn người công chính sẽ chiếu sáng như mặt trời trong nước của Cha họ. Ai có tai, hãy lắng nghe.”

Ngụ Ngôn Về Châu Báu

44 “Nước Thiên Đàng ví như kho châu báu chôn giấu trong ruộng. Có một người tìm thấy kho báu đó thì đem giấu. Quá mừng rỡ, người ấy đi bán hết gia tài mình để mua thửa ruộng đó.”

Ngụ Ngôn Về Ngọc Trai

45 “Nước Thiên Đàng cũng ví như một thương gia đi tìm ngọc trai quý. 46 Khi tìm được viên ngọc quý giá, liền đi bán hết gia tài để mua viên ngọc ấy.

Ngụ Ngôn Về Chài Lưới

47 Nước Thiên Đàng cũng ví như lưới thả xuống biển bắt được đủ mọi loại cá. 48 Khi đầy lưới, người ta kéo lên bờ, ngồi xuống lựa cá tốt bỏ vào thùng, còn cá xấu thì ném đi. 49 Ngày tận thế cũng sẽ như vậy. Thiên sứ sẽ đến phân cách kẻ ác khỏi người công chính 50 và ném kẻ ác vào lò lửa, nơi đó sẽ có than khóc và rên xiết.

51 Các con có hiểu được mọi điều đó không?” Họ thưa: “Dạ hiểu.”

52 Ngài bảo tiếp: “Vì vậy mỗi giáo sư Kinh Luật khi học làm môn đệ Nước Thiên Đàng thì giống như một người chủ nhà kia lấy ra khỏi kho tàng mình những bảo vật mới lẫn cũ.”

Chúa Về Quê(D)

53 Đức Giê-su dạy xong các ngụ ngôn kia, Ngài rời khỏi chỗ đó. 54 Về đến quê mình, Ngài dạy dỗ dân chúng trong hội đường khiến ai nghe cũng ngạc nhiên hỏi: “Nhờ đâu người này được thông sáng và làm nổi những việc quyền năng này? 55 Người này không phải là con của ông thợ mộc sao? Mẹ người chẳng phải là bà Ma-ri và các em người là Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn và Giu-đê hay sao? 56 Và các em gái người chẳng phải tất cả đang ở giữa vòng chúng ta đây sao? Nhờ đâu người được mọi điều này?” 57 Họ vấp phạm vì Ngài, song Đức Giê-su phán cùng họ: “Tiên tri được tôn trọng mọi nơi ngoại trừ tại quê hương và nhà mình.”

58 Ngài không làm nhiều việc quyền năng tại đó vì lòng vô tín của họ.

Nê-hê-mi 3

Xây Lại Tường Thành

Thầy thượng tế Ê-li-a-síp cùng các thầy tế lễ khác[a] khởi sự xây lại cổng Chiên. Họ làm lễ cung hiến cổng rồi tra cánh cổng. Họ làm lễ cung hiến từ cổng Chiên[b] cho đến tháp Một Trăm, cho đến ngay cả tháp Ha-na-nê-ên. Bên cạnh Ê-li-a-síp, người thành Giê-ri-cô xây cất. Kế đó, Xa-cư, con Im-ri, xây cất. Con cháu Hát-sê-na xây lại cổng Cá. Họ dựng xà, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Kế đó, Mê-rê-mốt, con U-ri, cháu Ha-cốt, làm công tác tu bổ. Bên cạnh họ, Xa-đốc, con Ba-a-na, làm công tác tu bổ. Kế đó, người Tê-cô-a lo tu bổ, nhưng giới quý tộc không chịu tham gia công việc của người lãnh đạo[c] họ.

Giô-gia-đa, con Pha-sê-a, và Mê-su-lam, con Bê-sô-đia, tu bổ cổng Mít-nê.[d] Họ dựng xà, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Kế đó, Mê-la-tia người Ghi-bê-ôn, và Gia-đôn người Mê-rô-nốt cùng với những người ở Ghi-bê-ôn và Mích-ba lo tu bổ. Mích-ba thuộc khu vực quản lý[e] của tổng trấn tỉnh Phía Tây Sông. Bên cạnh Mê-la-tia, U-xi-ên con Hát-ha-gia, thuộc phường hội thợ vàng, tu bổ. Kế đó, Ha-na-nia, thuộc phường hội thợ chế hương phẩm, tu bổ. Họ tu bổ một khu của thành Giê-ru-sa-lem cho đến vách Rộng. Kế đó, Rê-pha-gia, con Hu-rô, quan cai trị phân nửa quận Giê-ru-sa-lem, tu bổ. 10 Kế đó, Giê-đa-gia, con Ha-ru-máp, tu bổ phần tường thành[f] đối ngang nhà ông. Kế đó, Hát-túc, con Ha-sáp-nia, tu bổ. 11 Manh-ki-gia, con Ha-rim, và Ha-súp, con Pha-hát Mô-áp tu bổ phần tường thành kế tiếp và tháp Lò. 12 Kế đó, Sa-lum, con Ha-lô-hết, quan cai trị phân nửa kia của quận Giê-ru-sa-lem, cùng với các con gái ông tu bổ. 13 Ha-nun và dân cư Xa-nô-a tu bổ cổng Thung Lũng. Họ xây cổng, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Họ tu bổ một đoạn tường thành dài một ngàn am-ma[g] cho đến cổng Phân.[h]

14 Manh-ki-gia, con Rê-cáp, quận trưởng quận Bết-hạc-kê-rem, tu bổ cổng Phân. Ông xây cổng, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. 15 Sa-lun,[i] con Côn-hô-xe, quận trưởng quận Mích-ba, tu bổ cổng Suối. Ông xây cổng, lợp mái, tra cánh cổng, luôn cả chốt và then. Ông cũng tu bổ vách tường chận ao Sê-la[j] trong vườn vua, cho đến các bậc thang đi xuống từ thành Đa-vít.

16 Sau ông, Nê-hê-mi con A-búc, quan cai trị phân nửa quận Bết-sua, tu bổ cho đến nơi đối ngang các lăng tẩm Đa-vít, cho đến tận Ao Nhân Tạo và Đài Liệt Sĩ.[k] 17 Sau ông, người Lê-vi tu bổ: Rê-hum, con Ba-ni; bên cạnh ông, Ha-sa-bia, quan cai trị phân nửa quận Kê-i-la, tu bổ đại diện cho quận mình. 18 Sau ông, những người Lê-vi khác[l] tu bổ: Bin-nui[m] con Hê-na-đát, quan cai trị phân nửa quận Kê-i-la còn lại; 19 bên cạnh ông, Ê-xe, con Giô-suê, thị trưởng Mích-ba, tu bổ thêm một phân nửa,[n] từ nơi đối ngang dốc dẫn lên Kho Vũ Khí, cạnh trụ tường.[o] 20 Sau ông, Ba-rúc, con Xáp-bai, tu bổ thêm một phần nữa, từ nơi trụ tường cho đến cửa vào nhà thầy thượng tế Ê-li-a-síp. 21 Sau ông, Mê-rê-mốt con U-ri, cháu Ha-cốt, tu bổ thêm một phần nữa, từ cửa vào nhà Ê-li-a-síp cho đến cuối nhà ông.

22 Sau ông, các thầy tế lễ vùng phụ cận[p] tu bổ. 23 Sau họ, Bên-gia-min và Ha-súp tu bổ đối ngang nhà họ; sau họ, A-xa-ria con Ma-a-sê-gia, cháu A-na-nia, tu bổ cạnh nhà ông. 24 Sau ông, Bin-nui con Hê-na-đát, tu bổ thêm một phần nữa, từ nhà A-xa-ria cho đến trụ tường, và cho đến góc thành. 25 Pha-lanh con U-xia tu bổ từ nơi đối ngang trụ tường và tháp trên nhô lên từ cung vua, thuộc về sân vệ binh.[q] Sau ông, Phê-đa-gia, con Pha-rốt, 26 và những người phục dịch đền thờ sống ở Ô-phên, tu bổ cho đến nơi đối ngang cổng Nước phía đông và tháp nhô lên. 27 Sau họ, người Tê-kô-a tu bổ thêm một phần nữa, từ nơi đối ngang tháp to nhô lên cho đến vách Ô-phên.

28 Phía trên cổng Ngựa, các thầy tế lễ tu bổ, mỗi vị lo phần mình. 29 Sau họ, Xa-đốc, con Y-mê, tu bổ đối ngang nhà ông. Sau ông, Sê-ma-gia, con Sê-ca-nia, người canh giữ cổng Đông, tu bổ. 30 Sau ông, Ha-na-nia, con Sê-lê-mia và Ha-nun, con thứ sáu của Xa-láp, tu bổ thêm một phần nữa. Sau họ, Mê-su-lam, con Bê-rê-kia, tu bổ phần ông. 31 Sau ông, Manh-ki-gia, thuộc phường hội thợ vàng, tu bổ cho đến nhà những người phục dịch đền thờ và các thương gia, đối ngang cổng Duyệt Binh,[r] và cho đến phòng cao[s] nơi góc thành. 32 Những người thợ vàng và các thương gia tu bổ phần tường giữa phòng cao nơi góc thành và cổng Chiên.

Công Vụ 13

Đoàn Truyền Giáo Ra Đi Từ An-ti-ốt

13 Tại Hội Thánh An-ti-ốt có các tiên tri và giáo sư: Ba-na-ba, Si-môn biệt danh là Ni-giê, Lu-xi-út, người Ly-bi, Ma-na-ên, em nuôi của vua Hê-rốt và Sau-lơ. Họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh bảo: “Các con hãy dành riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để họ làm công tác Ta đã kêu gọi họ.” Sau khi kiêng ăn và cầu nguyện, họ đặt tay trên hai người và phái đi.

Được Đức Thánh Linh sai đi, hai ông xuống Sê-lơ-xi, đáp tàu qua đảo Síp. Đến Sa-la-môn, họ công bố Đạo Đức Chúa Trời tại các hội đường Do Thái, có Giăng phụ tá.

Đi qua suốt cả hải đảo đến Ba Phô, họ gặp một thầy phù thủy là tiên tri giả người Do Thái tên Ba-Giê-su, đang ở với tổng trấn Sê-giút Phao-lút, một người khôn ngoan. Tổng trấn cho mời Ba-na-ba và Sau-lơ để tìm hiểu Đạo Chúa. Nhưng tên phù thủy (cũng gọi là Ê-ly-ma) chống đối họ và cố gắng đánh lạc hướng để tổng trấn đừng tin Chúa. Nhưng Sau-lơ, cũng gọi là Phao-lô được đầy Thánh Linh, nhìn thẳng người phù thủy 10 mà bảo: “Anh là người đầy gian dối, lừa gạt, là con của quỷ vương, kẻ thù địch của mọi sự công chính! Anh không chấm dứt việc xuyên tạc đường lối ngay thẳng của Chúa sao? 11 Này, bây giờ tay Chúa đánh anh, nên anh sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời một thời gian.” Lập tức mù lòa và bóng tối bao trùm Ê-ly-ma, anh ta phải đưa tay sờ soạng, nhờ người nắm tay dắt mình đi. 12 Thấy thế, tổng trấn liền tin Chúa và vô cùng kinh ngạc về giáo huấn của Chúa.

13 Từ Ba Phô, Phao-lô và các bạn đồng hành đáp thuyền đi Bẹt-ga, thuộc Bam-phi-li. Đến đây, Giăng bỏ họ quay về Giê-ru-sa-lem. 14 Từ Bẹt-ga, họ đi đến tận An-ti-ốt, xứ Bi-si-đi. Nhằm ngày Sa-bát, họ vào ngồi trong hội đường của người Do Thái. 15 Sau khi đọc Kinh Luật và Kinh Tiên Tri, các nhân viên quản trị hội đường cho mời họ và nói: “Thưa các anh em, nếu ai có lời khích lệ hội chúng thì xin cứ phát biểu!”

16 Phao-lô đứng dậy, đưa tay ra hiệu và nói: “Thưa người Y-sơ-ra-ên và các người kính sợ Đức Chúa Trời, xin nghe tôi trình bày. 17 Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên đã chọn tổ phụ chúng ta và cho họ thịnh đạt trong thời gian ngụ tại đất Ai-cập. Ngài dùng tay quyền năng cao cả dìu dắt họ ra khỏi nước này. 18 Ngài chịu đựng họ trong đồng hoang suốt bốn mươi năm. 19 Ngài tiêu diệt bảy dân tộc trong đất Ca-na-an và cho họ thừa hưởng đất nước ấy. Thời kỳ này độ bốn trăm năm mươi năm. 20 Sau đó, Ngài ban cho họ các thẩm phán cho đến đời tiên tri Sa-mu-ên. 21 Lúc ấy họ đòi xin một vị vua. Đức Chúa Trời cho Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc bộ tộc Bên-gia-min, lên ngôi vua và trị vì bốn mươi năm. 22 Rồi Ngài loại Sau-lơ và đặt Đa-vít lên ngôi, là người được Ngài chứng nhận:

‘Ta đã tìm thấy Đa-vít, con Gie-sê,[a] người mà Ta hài lòng,[b]

Người sẽ thực hiện tất cả ý định của Ta.’ [c]

23 Do dòng dõi của Đa-vít, Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su theo lời hứa của Ngài. 24 Trước khi Đức Giê-su xuất hiện, Giăng đã tuyên bố cho toàn dân Y-sơ-ra-ên phép báp-tem ăn năn tội. 25 Khi gần hoàn thành nhiệm vụ, Giăng tuyên bố: ‘Các ngươi nghĩ ta là ai? Ta không phải là Đấng đó, nhưng kìa, Ngài đến sau ta, ta không xứng đáng cởi dép cho Ngài.’

26 Thưa các anh em là dòng dõi Áp-ra-ham và những người kính sợ Đức Chúa Trời, Đạo cứu rỗi này đã được ban bố cho chúng ta. 27 Vì dân cư Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo của họ không nhận biết Đức Giê-su nhưng khi lên án Ngài, họ lại làm ứng nghiệm lời các tiên tri của Chúa vẫn được đọc mỗi ngày Sa-bát. 28 Dù không tìm thấy lý do nào để kết án tử hình, họ vẫn yêu cầu Phi-lát xử tử Ngài. 29 Khi họ đã làm trọn tất cả những lời đã chép về Ngài, họ hạ xác Ngài xuống khỏi thập tự giá và an táng trong một ngôi mộ. 30 Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, 31 và những người đã theo Ngài từ miền Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem được thấy Ngài trong nhiều ngày. Hiện nay, họ đều làm chứng về Ngài trước dân chúng.

32 Chúng tôi báo tin mừng cho quý vị: Điều Đức Chúa Trời đã hứa với tổ phụ chúng ta, 33 Ngài đã thực hiện cho chúng ta là dòng dõi họ, bằng cách khiến Đức Giê-su sống lại như Thánh Thi thứ nhì đã chép:

‘Ngươi là con Ta,
    Ngày nay Ta đã sinh ngươi.’[d]

34 Sự kiện Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại từ kẻ chết, không bị rữa nát bao giờ, đã được phán:

‘Ta sẽ cho các con phước hạnh thánh và chắc chắn mà Ta đã hứa với Đa-vít.’[e]

35 Do đó, trong một chương khác, Kinh Thánh lại nói:

‘Chúa sẽ không cho Đấng Thánh của Ngài bị rữa nát.’[f]

36 Nhưng sau khi phục vụ Đức Chúa Trời theo ý Ngài trong thời đại mình, vua Đa-vít đã chết, được chôn cất bên cạnh tổ tiên, và phải bị rữa nát. 37 Còn Đấng được Đức Chúa Trời làm cho sống lại thì không bao giờ bị rữa nát. 38 Vậy, thưa anh em, xin nhận thức rằng chính nhờ Đức Giê-su mà ơn tha tội được công bố cho các anh em. 39 Tất cả những ai tin Ngài đều được tuyên xưng công chính về mọi điều mà Kinh Luật Môi-se không thể nào tuyên xưng công chính được. 40 Vậy hãy coi chừng để khỏi bị mắc phải điều các tiên tri Chúa đã cảnh cáo:

41 ‘Hỡi những kẻ khinh miệt, xem đây!
    Hãy kinh ngạc và chết đi!
Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc,
    Dù nghe ai nói
    Các ngươi cũng không tin!’ ”[g]

42 Khi ra về, dân chúng yêu cầu hai ông ngày Sa-bát sau, cũng giảng luận thêm cho họ nghe các điều ấy nữa. 43 Cuộc họp đã tan, nhiều người Do Thái và người ngoại quốc theo Do Thái giáo đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai ông chuyện trò với họ và khích lệ họ cứ tiếp tục sống theo ân sủng của Đức Chúa Trời.

44 Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân trong thành đều họp lại để nghe Đạo Chúa. 45 Thấy đoàn dân đông đảo, những người Do Thái đầy lòng ganh tị, chống đối những điều Phao-lô giảng dạy và nhục mạ ông.

46 Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn tuyên bố: “Cần phải truyền Đạo Đức Chúa Trời cho các người trước nhất, vì các người chối bỏ Đạo Chúa và tự xét mình không xứng đáng được sự sống vĩnh phúc nên bây giờ chúng tôi quay sang các dân tộc ngoại quốc. 47 Vì Chúa đã truyền bảo tôi:

‘Ta đã lập con lên làm ánh sáng cho các dân tộc,
    Để con đem sự cứu rỗi đến tận cùng quả đất.’ ”[h]

48 Nghe lời này, người ngoại quốc hân hoan và tôn vinh Đạo Chúa; những người đã được định để hưởng sự sống vĩnh phúc đều tin nhận Chúa.

49 Đạo Chúa được truyền bá khắp cả miền ấy. 50 Nhưng người Do Thái sách động một số phụ nữ quý phái theo Do Thái giáo và các cấp lãnh đạo của thành phố, xúi giục họ bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ. 51 Để phản ứng lại, hai ông phủi bụi dính chân mình và qua thành Y-cô-ni. 52 Còn các môn đệ Chúa được đầy dẫy Thánh Linh và vui mừng.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)