Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Historical

Read the books of the Bible as they were written historically, according to the estimated date of their writing.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Thánh Thi 140-145

Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng

140 CHÚA ôi, xin giải cứu tôi khỏi kẻ ác,
    Bảo vệ tôi khỏi người hung dữ;
Chúng âm mưu điều ác trong lòng;
    Suốt ngày gây chiến.
Chúng mài lưỡi mình nhọn như lưỡi rắn;
    Dưới môi chúng là nọc độc rắn hổ mang. Sê-la
Lạy CHÚA, xin gìn giữ tôi khỏi tay kẻ ác,
    Bảo vệ tôi khỏi người hung dữ;
    Là kẻ âm mưu gây cho tôi vấp ngã.
Những kẻ kiêu ngạo đã gài bẫy hại tôi;
    Chúng giăng dây, bủa lưới dọc bên đường;
    Chúng đặt bẫy hại tôi. Sê-la
Tôi thưa cùng CHÚA rằng chính Ngài là Đức Chúa Trời tôi;
    Lạy CHÚA, xin lắng nghe lời cầu xin của tôi.
Lạy CHÚA, là Chúa tôi, Đấng giải cứu đầy dũng lực của tôi;
    Chúa che phủ đầu tôi trong ngày chiến trận.
Lạy CHÚA, xin đừng ban cho kẻ ác điều chúng ao ước;
    Xin chớ để âm mưu của chúng được thành;
    E chúng tự cao chăng. Sê-la
Nguyện những điều gian ác từ môi miệng những kẻ bao vây tôi
    Tràn ngập đầu chúng nó.
10 Nguyện than lửa đỏ đổ trên chúng nó;
    Nguyện chúng nó bị ném xuống vực sâu
    Không lên được.[a]
11 Nguyện những kẻ miệng lưỡi hay vu cáo không được vững lập trên đất;
    Nguyện tai họa dồn dập săn đuổi kẻ hung dữ.
12 Tôi biết rằng CHÚA sẽ bênh vực quyền lợi cho những kẻ khốn cùng
    Và thi hành công bình cho những kẻ nghèo khó.
13 Chắc chắn những người công chính sẽ cảm tạ danh Chúa,
    Những người ngay thẳng sẽ ở trước sự hiện diện của Ngài.

Thơ Đa-vít

141 CHÚA ôi, tôi cầu khẩn Ngài, xin mau mau đến cùng tôi;
    Xin lắng tai nghe lời cầu xin của tôi khi tôi cầu khẩn Chúa.
Nguyện lời cầu nguyện của tôi như hương dâng lên trước mặt Chúa,
    Nguyện sự khẩn cầu của tôi giống như vật tế lễ buổi chiều.
Lạy CHÚA, xin cử người canh gác miệng tôi;
    Xin gìn giữ môi tôi.
Xin chớ để lòng tôi hướng về điều ác,
    Làm những việc gian tà,
Tham gia với những kẻ làm điều tội lỗi;
    Xin chớ để tôi ăn tiệc với chúng.
Xin để người công chính đánh
    Và mắng tôi trong tình yêu thương;
    Nhưng kẻ ác sẽ chẳng bao giờ xức dầu cho đầu tôi;[b]
Vì tôi luôn luôn cầu nguyện chống lại các việc ác của họ.
    Khi những kẻ cai trị chúng bị ném xuống từ bờ đá,
    Chúng sẽ biết rằng những lời tôi nói là sự thật.
Như người ta cày và vỡ đất,
    Xương cốt chúng nó sẽ bị rải ra trước cửa mộ phần.[c]
Lạy CHÚA, là Chúa tôi, mắt tôi ngưỡng vọng Chúa;
    Tôi trú ẩn nơi Ngài, xin chớ để linh hồn tôi không phương tự vệ.
Nguyện Chúa gìn giữ tôi khỏi bẫy chúng gài hại tôi
    Và khỏi lưới của những kẻ làm ác.
10 Nguyện những kẻ ác cùng nhau sa vào lưới chúng đã gài,
    Còn tôi thì thoát khỏi.

Thơ Đa-vít Để Dạy Dỗ

142 Tôi cất tiếng kêu nài cùng CHÚA;
    Tôi cất tiếng xin CHÚA thương xót.
Trước mặt Chúa tôi dốc lòng than thở;
    Tôi bày tỏ nỗi gian nan trước mặt Ngài.
Khi tâm thần tôi kiệt quệ,
    Chúa biết đường lối tôi;
Trên con đường tôi đi,
    Chúng nó gài bẫy hại tôi.
Xin Chúa nhìn qua bên phải và xem,
    Không ai để ý đến tôi;
Tôi không còn nơi trú ẩn;
    Chẳng ai quan tâm đến sinh mạng[d] tôi.
Lạy CHÚA, tôi kêu nài cùng Chúa;
    Tôi nói rằng, chính Ngài là nơi trú ẩn của tôi,
    Là phần sản nghiệp của tôi trên đất người sống.
Xin Chúa lắng nghe lời cầu xin của tôi
    Vì tôi quá thất vọng;[e]
Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ áp bức tôi
    Vì chúng mạnh hơn tôi.
Xin giải cứu linh hồn tôi ra khỏi ngục tù
    Để tôi cảm tạ danh Chúa;
Những người công chính sẽ vây quanh tôi
    Vì Chúa sẽ hậu đãi tôi.

Thánh Thi Đa-vít

143 CHÚA ôi, xin nghe lời cầu nguyện của tôi;
    Vì lòng thành tín Chúa,
Xin lắng nghe lời cầu xin của tôi;
    Trong sự công chính Ngài, xin đáp lời tôi.
Xin chớ đoán xét tôi tớ Chúa
    Vì không có người sống nào là công chính trước mặt Chúa.
Vì kẻ thù săn đuổi linh hồn tôi;
    Chà đạp mạng sống tôi dưới đất;
Bắt tôi ngồi trong bóng tối
    Như kẻ chết từ lâu.
Vì thế tinh thần tôi nao núng,
    Lòng dạ tôi sầu não.
Tôi nhớ lại những ngày xưa,
    Tôi suy gẫm tất cả những phép lạ của Chúa;
    Tôi suy tư về những công việc tay Ngài đã làm.
Tôi giơ tay hướng về Chúa cầu nguyện,
    Linh hồn tôi khao khát Chúa như vùng đất khô khan. Sê-la
Lạy CHÚA, xin mau mau đáp lời tôi;
    Tinh thần tôi bị nao núng;
Xin đừng lánh mặt khỏi tôi,
    E rằng tôi sẽ như người đi xuống huyệt sâu.
Buổi sáng xin cho tôi nghe thấy tình yêu thương Chúa
    Vì tôi tin cậy nơi Ngài;
Xin dạy tôi con đường tôi nên theo
    Vì linh hồn tôi ngưỡng vọng Chúa.
Lạy CHÚA, xin giải cứu tôi khỏi kẻ thù;
    Tôi trú ẩn nơi Chúa.
10 Xin dạy tôi làm theo ý Chúa
    Vì Ngài là Đức Chúa Trời tôi;
Xin thần linh tốt lành của Chúa
    Hướng dẫn tôi vào vùng đất bằng phẳng.
11 Lạy CHÚA, vì cớ danh Ngài, xin ban sức sống cho tôi;
    Vì sự công chính của Chúa xin giải cứu tôi khỏi cơn hoạn nạn.
12 Vì lòng nhân từ của Ngài, xin diệt kẻ thù tôi;
    Xin hủy diệt tất cả những kẻ áp bức tôi,
    Vì tôi là tôi tớ Chúa.

Thơ Đa-vít

144 Hãy ca tụng CHÚA, vầng đá của tôi;
    Ngài huấn luyện tay tôi cho chiến tranh,
    Luyện ngón tay tôi để chiến đấu.
Chúa là Đấng yêu thương tôi và thành lũy của tôi;
    Là thành trì và Đấng giải cứu tôi;
Là thuẫn đỡ và nơi trú ẩn cho tôi;
    Ngài khiến các dân[f] quy phục tôi.
Lạy CHÚA, loài người là gì mà Chúa quan tâm đến,
    Con người là chi mà Chúa nghĩ đến.
Người phàm giống như hơi thở,
    Đời người như bóng lướt qua.
Lạy CHÚA, xin Ngài hạ các tầng trời và ngự xuống;
    Xin Ngài đụng đến các núi và núi sẽ bốc khói.
Xin Ngài làm chớp phát ra, kẻ thù[g] chạy tán loạn;
    Xin Ngài bắn tên ra, đuổi chúng chạy.
Xin Ngài từ trên cao
    Đưa tay cứu tôi,
Vớt tôi ra khỏi nước sâu;
    Cứu tôi thoát khỏi tay người ngoại quốc;
Là người có miệng giả dối,
    Có tay phải thề dối.[h]
Lạy Đức Chúa Trời, tôi sẽ hát một bài ca mới cho Chúa,
    Đánh đàn hạc mười dây cho Ngài.
10 Đấng ban chiến thắng cho các vua,
    Giải cứu Đa-vít, tôi tớ Ngài;
11 Cứu tôi thoát khỏi lưỡi gươm độc ác;
    Giải cứu tôi khỏi tay người ngoại quốc;
Là người có miệng giả dối;
    Có tay phải thề dối.
12 Nguyện các con trai chúng tôi
    Như những cây cao lớn xanh tươi;
Các con gái chúng tôi như những cây cột
    Chạm trổ để trang trí đền thờ.
13 Nguyện các kho của chúng tôi đầy tràn,
    Cung cấp đủ thứ;
Nguyện đàn chiên của chúng tôi ở nơi đồng cỏ sinh sản hàng ngàn,
    Hàng vạn.
14     Nguyện đàn bò chúng tôi sinh sản nhiều,
Không sẩy thai,
    Không mất mát;
    Nguyện không có tiếng khóc đau khổ nơi đường phố chúng tôi.[i]
15 Phước cho dân tộc nào được như vậy;
    Phước cho dân tộc nào có CHÚA là Đức Chúa Trời mình.

Bài Hát Ca Ngợi Của Đa-vít

145 Lạy Đức Chúa Trời tôi, cũng là vua tôi,
    Tôi sẽ tôn cao Chúa và ca tụng danh Ngài mãi mãi vô cùng.
Mỗi ngày tôi sẽ ca tụng Chúa
    Và ca ngợi danh Ngài mãi mãi vô cùng.
CHÚA là vĩ đại và rất đáng ca ngợi;
    Sự vĩ đại của Ngài vượt quá sự hiểu biết của con người.
Đời này sẽ truyền tụng công việc của Chúa cho đời sau;
    Họ sẽ công bố những việc quyền năng của Ngài.
Họ sẽ nói[j] về uy nghi, vinh quang và huy hoàng của Chúa;
    Còn tôi sẽ suy gẫm các phép lạ của Ngài.
Người ta sẽ nói về quyền năng của các công việc đáng sợ của Chúa;
    Còn tôi sẽ công bố sự vĩ đại của Ngài.
Người ta sẽ làm lễ kỷ niệm phúc lành lớn của Chúa
    Và hân hoan ca hát về sự công chính của Ngài.
CHÚA hay ban ơn và có lòng thương xót;
    Chậm nóng giận và đầy tình yêu thương.
CHÚA là phúc lành cho tất cả mọi người;
    Ngài thương xót mọi tạo vật Ngài làm nên.
10 Lạy CHÚA, mọi tạo vật của Chúa đều sẽ cảm tạ Ngài
    Và những người kính sợ Chúa sẽ ca tụng Ngài.
11 Họ sẽ nói về vinh quang nước Chúa
    Và kể lại quyền năng của Ngài;
12 Để loài người biết các việc quyền năng Chúa
    Và sự vinh quang huy hoàng của nước Ngài.
13 Nước Chúa còn mãi vô cùng; quyền cai trị của Ngài đến đời đời.
    CHÚA thành tín trong mọi lời hứa của Ngài và yêu thương đối với mọi công việc Ngài.[k]
14 CHÚA nâng đỡ mọi người bị ngã;
    Ngài đỡ tất cả những người phải cúi đầu đứng dậy.
15 Mắt của mọi vật đều ngưỡng trông Chúa,
    Ngài ban cho chúng đồ ăn đúng thì.
16 Chúa xòe bàn tay Ngài ra,
    Thỏa mãn nhu cầu của mọi sinh vật.
17 CHÚA công chính trong mọi đường lối Ngài
    Và yêu thương đối với mọi công việc Ngài.
18 CHÚA ở gần mọi người cầu khẩn Ngài,
    Tức là những người cầu khẩn Ngài với lòng thành thật.
19 Chúa thỏa mãn nhu cầu của những kẻ kính sợ Ngài;
    Nghe tiếng khóc của họ và giải cứu cho.
20 CHÚA bảo vệ mọi người yêu mến Ngài
    Nhưng sẽ hủy diệt mọi kẻ ghét Ngài.
21 Miệng tôi sẽ dâng lời ca ngợi CHÚA,
    Hỡi mọi loài, hãy ca tụng danh thánh của Ngài muôn đời.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)