Historical
Đức Chúa Trời Đời Đời Và Loài Người Ngắn Ngủi
90 Lạy Chúa, Ngài là nơi cư trú[a] của chúng tôi đời đời.
2 Trước khi núi non được sinh ra;
Trái đất và thế gian được tạo nên;
Từ trước vô cùng cho đến đời đời, Ngài là Đức Chúa Trời.
3 Chúa khiến con người trở về với bụi đất;
Ngài phán: Hỡi loài người, hãy trở về bụi đất.[b]
4 Vì một ngàn năm trước mắt Chúa
Giống như một ngày hôm trước đã trôi qua,
Như một canh trong đêm.
5 Ngài khiến chúng nó trôi đi như dòng nước lũ;
Đời chúng nó như một giấc ngủ;[c]
Như cỏ mọc xanh tươi lúc ban mai;
6 Buổi sáng cỏ nảy nở và tốt tươi;
Đến chiều chúng tàn phai và khô héo.
7 Thật vậy, chúng tôi bị hủy diệt vì cơn giận Chúa;
Bị kinh hoàng vì cơn thịnh nộ của Ngài.
8 Ngài đặt sự gian ác chúng tôi trước mặt Ngài;
Để những tội lỗi bí mật của chúng tôi trong ánh sáng trước mặt Ngài.
9 Bởi cơn thịnh nộ của Ngài mọi ngày chúng tôi đều qua đi;
Các năm chúng tôi kết thúc như tiếng thở dài.
10 Tuổi tác chúng tôi thọ được bảy mươi,
Nếu mạnh khỏe thì tám mươi,
Nhưng sự kiêu căng của chúng chỉ là lao khổ và buồn thảm;
Vì đời sống thoáng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.
11 Ai biết được năng lực của cơn giận Chúa?
Ai hiểu được hậu quả[d] của cơn thịnh nộ Ngài?[e]
12 Vậy, xin dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi,
Để chúng tôi được lòng khôn ngoan.
13 Lạy CHÚA, xin hãy trở lại,[f] Ngài còn giận đến bao giờ?
Xin thương xót các tôi tớ Ngài.
14 Mỗi buổi sáng xin cho chúng tôi được thỏa lòng trong tình yêu thương của Ngài;
Để chúng tôi được hân hoan ca hát và vui mừng suốt đời.
15 Xin cho chúng tôi được vui mừng tương ứng với số ngày mà chúng tôi chịu hoạn nạn;
Tương ứng với số năm mà chúng tôi bị tai họa.
16 Xin cho các tôi tớ Chúa thấy những công việc Ngài,
Và con cháu họ thấy quyền năng vinh quang Ngài.
17 Nguyện xin ân huệ của Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên chúng tôi.
Xin Ngài thiết lập vững vàng công việc tay chúng tôi.
Vâng, xin Ngài thiết lập vững vàng công việc tay chúng tôi làm.
Đức Chúa Trời Là Đấng Bảo Vệ Chúng Ta
91 Người nào ở trong nơi trú ẩn của Đấng Chí Cao
Sẽ được che chở[g] dưới bóng của Đấng Toàn Năng.
2 Tôi nói về CHÚA rằng: Ngài là Đức Chúa Trời tôi, là nơi trú ẩn và thành lũy của tôi,
Tôi tin cậy nơi Ngài.
3 Vì Ngài sẽ giải cứu ngươi thoát khỏi bẫy chim,
Thoát khỏi dịch lệ hủy diệt.
4 Ngài sẽ lấy lông Ngài mà che chở ngươi
Và dưới cánh Ngài ngươi sẽ tìm được nơi trú ẩn.
Lòng thành tín Ngài là cái khiên, cái mộc bảo vệ ngươi.
5 Ngươi sẽ không sợ sự kinh hoàng vào ban đêm
Hay tên bắn lúc ban ngày;
6 Hoặc dịch lệ lan đến trong tối tăm
Hay sự hủy diệt tàn phá lúc giữa trưa.
7 Hàng ngàn người sẽ gục ngã bên cạnh ngươi,
Hàng vạn người ngã bên phải ngươi,
Nhưng tai họa sẽ không đến gần ngươi.
8 Ngươi chỉ lấy mắt nhìn xem
Và sẽ thấy kẻ ác bị báo trả.
9 Lạy CHÚA, vì Ngài là nơi trú ẩn của tôi,
Lạy Đấng Chí Cao, Ngài đã lập nơi cư trú của Ngài;
10 Nên sẽ chẳng có tai họa gì xảy đến ngươi
Và tai họa[h] sẽ không đến gần nhà[i] ngươi.
11 Vì Ngài sẽ truyền lệnh cho thiên sứ coi sóc ngươi,
Bảo vệ ngươi trong mọi đường lối ngươi.
12 Thiên sứ sẽ nâng đỡ ngươi trên tay
Để chân ngươi không vấp phải hòn đá.
13 Ngươi sẽ bước đi trên sư tử và rắn hổ mang;
Còn sư tử tơ và rắn độc ngươi sẽ giày đạp dưới chân.
14 Vì người yêu mến Ta nên ta giải cứu người;
Vì người biết danh Ta nên ta bảo vệ người.
15 Người sẽ cầu khẩn Ta, Ta sẽ trả lời người;
Gặp lúc gian truân Ta sẽ ở cùng người,
Giải cứu người và làm vinh hiển người.[j]
16 Ta sẽ cho người thỏa dạ sống lâu
Và chỉ cho người thấy sự cứu rỗi Ta.
Thánh Thi. Bài Hát Cho Ngày Sa-bát
92 Cảm tạ CHÚA là một điều tốt lành;
Lạy Đấng Chí Cao, ca tụng Danh Ngài là điều tốt đẹp;
2 Buổi sáng rao truyền tình yêu thương của Chúa,
Buổi tối ca ngợi đức thành tín của Ngài;
3 Bằng nhạc khí mười dây cùng đàn lia,
Hợp với giai điệu và đàn hạc.
4 Vì, lạy CHÚA, việc quyền năng của Ngài làm tôi vui mừng;
Các việc của tay Ngài làm tôi hớn hở hoan ca.
5 Lạy CHÚA, công việc của Ngài vĩ đại biết bao!
Tư tưởng Ngài sâu sắc biết dường nào!
6 Kẻ u mê không biết được
Và người ngu dại cũng không hiểu nổi.
7 Dù cho kẻ ác mọc lên như cỏ;
Mọi kẻ bất lương phát đạt;
Ấy là để chúng bị hủy diệt đời đời.
8 Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài là Đấng Tối Cao[k] đời đời.
9 Lạy CHÚA, vì kìa, những kẻ thù Ngài;
Vì kìa, những kẻ thù Ngài sẽ bị hủy diệt;
Mọi kẻ làm ác sẽ chạy tán loạn.
10 Ngài đã làm cho sừng tôi giương cao[l] như sừng con bò rừng;
Tôi được xức bằng dầu mới.
11 Mắt tôi thấy kẻ thù tôi bị thất bại,
Tai tôi đã nghe tiếng than khóc của kẻ ác chống nghịch tôi.[m]
12 Người công chính sẽ lớn mạnh như cây chà là,
Sẽ mọc lên như cây tùng ở Li-ban;
13 Họ được trồng trong nhà CHÚA,
Lớn mạnh trong sân của Đức Chúa Trời chúng ta.
14 Dù đến tuổi già vẫn sinh bông trái,
Được mạnh khỏe và xanh tươi,
15 Để cho thấy CHÚA là ngay thẳng,
Ngài là tảng đá của tôi và trong Ngài không có sự bất công.
CHÚA Trị Vì Vinh Quang
93 CHÚA trị vì; Ngài trang phục bằng sự uy nghi;
CHÚA uy nghi;
Ngài nai nịt bằng sức mạnh.
Phải, thế giới được lập vững vàng,
Không thể rúng động.
2 Ngôi Ngài được lập vững vàng từ thời cổ;
Ngài hằng hữu từ trước vô cùng.
3 Lạy CHÚA, các sông đã dâng lên;
Các sông đã dâng lên cùng tiếng động;
Các sông đã dâng lên ầm ầm.
4 CHÚA trị vì trên cao,
Quyền năng hơn sấm động của nước lớn,
Quyền năng hơn sóng to của biển cả.
5 Lạy CHÚA, các sắc luật của Ngài thật chắc chắn;
Đền thờ Ngài thật là thánh khiết
Đến đời đời.
Đức Chúa Trời Là Đấng Phán Xét Mọi Sự
94 Lạy CHÚA, Ngài là Đức Chúa Trời báo trả;
Ngài là Đức Chúa Trời báo trả, xin bày tỏ thiên quang Ngài.[n]
2 Lạy Đấng phán xét thế giới,[o] xin đứng lên,
Xin báo trả xứng đáng cho những kẻ kiêu ngạo.
3 Lạy CHÚA, cho đến bao giờ?
Kẻ ác sẽ đắc chí cho đến bao giờ?
4 Chúng tuôn đổ lời kiêu ngạo;
Mọi kẻ làm ác đều khoe khoang.
5 Lạy CHÚA, chúng nó chà đạp dân Ngài;
Chúng nó làm con dân[p] Ngài khốn khổ.
6 Chúng giết kẻ góa bụa và người kiều dân;
Chúng tàn sát kẻ mồ côi.
7 Chúng bảo rằng CHÚA sẽ không nhìn thấy,
Đức Chúa Trời của Gia-cốp sẽ không nhận thấy.
8 Hỡi những kẻ u mê nhất trong dân, hãy hiểu biết;
Hỡi những kẻ ngu dại, bao giờ các người mới khôn ngoan?
9 Đấng đã tạo ra tai, lại không nghe được?
Đấng đã nắn nên mắt, lại không thấy sao?
10 Đấng đã trừng phạt các nước, lại không quở trách sao?
Ngài là Đấng dạy dỗ loài người tri thức.
11 CHÚA biết tư tưởng loài người;
Chúng chỉ là hư không.[q]
12 Lạy CHÚA, phước cho người nào Ngài rèn luyện[r]
Và dạy dỗ Kinh Luật cho;
13 Và ban cho họ yên lành khỏi[s] những ngày hoạn nạn,
Cho đến khi nào hố sâu đã đào cho những kẻ ác.
14 Vì CHÚA không ruồng bỏ dân Ngài
Cũng chẳng từ bỏ cơ nghiệp Ngài.
15 Vì sự xét xử công bình sẽ trở về với người công chính;[t]
Và mọi người có lòng ngay thẳng sẽ noi theo.
16 Ai sẽ nổi lên chống lại những kẻ ác cho tôi;
Ai sẽ đứng lên chống lại những kẻ làm điều gian ác giúp tôi?
17 Nếu CHÚA đã không giúp đỡ tôi
Thì linh hồn tôi đã sớm ở nơi Âm Phủ.[u]
18 Lạy CHÚA, khi tôi nghĩ: chân tôi trượt ngã
Thì tình yêu thương vững bền của Ngài nâng đỡ tôi.
19 Khi có nhiều mối lo nghĩ trong lòng tôi,
Thì sự an ủi của Ngài khích lệ tâm hồn tôi.
20 Cậy quyền năng dùng luật hại người,
Thế nào Ngài lại kết ước đồng minh?
21 Chúng hiệp nhau hại mạng sống của người công chính
Và kết án tử hình kẻ vô tội.[v]
22 Nhưng CHÚA là thành lũy bảo vệ tôi;
Đức Chúa Trời tôi là vầng đá nơi tôi trú ẩn.
23 Ngài sẽ báo trả chúng nó vì tội lỗi chúng nó;
Ngài sẽ tiêu diệt chúng nó vì sự gian ác chúng nó;
CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt chúng nó.
Hãy Thờ Phượng Và Quy Phục Đấng Tạo Hóa
95 Hãy đến ca hát tán dương CHÚA;
Hãy hân hoan reo hò cho Chúa[w] là vầng đá cứu rỗi chúng ta.
2 Hãy đến trước mặt Ngài với lời cảm tạ;
Hãy hân hoan reo hò bằng lời ca tụng Ngài.
3 Vì CHÚA là Đức Chúa Trời vĩ đại;
Ngài là vua vĩ đại hơn tất cả các thần.
4 Ngài nắm trong tay các vực sâu[x] của quả đất;
Những đỉnh cao của núi non cũng thuộc về Ngài.
5 Biển cả thuộc về Ngài vì Ngài làm ra chúng;
Lục địa cũng do tay Ngài tạo nên.
6 Hãy đến, cúi đầu và thờ phượng Ngài;
Hãy quỳ gối trước mặt CHÚA, Đấng Tạo Hóa chúng ta.
7 Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng ta;
Chúng ta là con dân mà ngài chăn giữ,
Là đàn chiên mà tay Ngài bảo vệ.[y]
Ngày nay, ước gì các ngươi nghe tiếng Ngài!
8 Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba,
Như ngày ấy tại Ma-sa trong sa mạc;[z]
9 Khi tổ tiên các ngươi thử Ta; chúng thách thức Ta
Dù đã thấy công việc Ta làm.
10 Trong bốn mươi năm Ta chán ghét thế hệ ấy;[aa]
Ta bảo: Chúng nó là một dân có lòng lầm lạc;
Chúng nó không biết đường lối Ta.
11 Vì thế, trong cơn giận Ta thề rằng:
Chúng nó sẽ chẳng bao giờ vào nơi an lạc của Ta.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)