Old/New Testament
Công Việc Xây Cất Gặp Chống Đối
4 Khi San-ba-lát nghe tin chúng tôi xây lại tường thành, ông nổi giận và bực tức lắm. Ông chế nhạo người Do-thái. 2 Trước mặt các cộng sự viên[a] và quân nhân Sa-ma-ri, ông nói: “Bọn Do-thái yếu đuối này đang làm gì đây? Chúng định sửa sang lại sao? Chúng định dâng tế lễ sao? Chúng định hoàn tất trong ngày sao? Chúng tưởng có thể dựng[b] lại những hòn đá từ trong đống đổ nát này, mặc dù đã cháy rụi sao? 3 Tô-bia, người Am-môn, bên cạnh San-ba-lát, phụ họa: ‘Đúng vậy, dù họ xây được cái chi đi nữa, một con chồn leo lên cũng đủ phá sập bức tường đá này của họ.’
4 Ôi! Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, cúi xin Ngài nghe chúng con bị khinh miệt dường nào. Xin Ngài đổ lại trên đầu họ những lời chế nhạo của họ. Xin Ngài biến họ như chiến lợi phẩm bị đưa qua vùng đất phu tù. 5 Xin Ngài đừng che lấp sự gian ác của họ, xin Ngài đừng xóa sạch tội lỗi họ trước mặt Ngài, vì họ dám chọc Ngài giận ngay trước mặt những thợ xây cất.”
6 Chúng tôi xây vách thành, và toàn vách nối liền chung quanh thành, đến phân nửa chiều cao, vì dân chúng quyết tâm làm việc.
Chống Đối Gia Tăng
7 Khi San-ba-lát, Tô-bia, người Ả-rập, người Am-môn, và người Ách-đốt nghe tin việc tu bổ tường thành Giê-ru-sa-lem tiến triển tốt vì các phần tường thủng khởi sự được vá lành, họ liền nổi giận, 8 cùng nhau bàn mưu đến tấn công Giê-ru-sa-lem và gây rối loạn. 9 Chúng tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời chúng tôi, và vì cớ họ, chúng tôi đặt người canh gác ngày đêm. 10 Bấy giờ có tiếng than giữa hội chúng người Giu-đa;[c] “Sức người khuân vác hao mòn, đống đổ nát quá to, chúng ta thật không đủ sức xây lại tường thành này.” 11 Trong khi đó, kẻ thù chúng tôi bàn tính;[d] “Trước khi chúng nó biết hoặc nhận ra điều gì, chúng ta sẽ đột nhập vào ngay giữa bọn chúng, giết chúng nó và làm ngưng công việc của chúng nó.”
12 Những người Giu-đa sống gần họ[e] đến với chúng tôi từ mọi hướng, và nài nỉ chúng tôi hàng chục lần: “Anh chị em phải trở về với chúng tôi.” 13 Tôi sắp cho dân chúng đứng chỗ thấp nhất phía sau tường, nơi trống trải, đứng theo từng gia đình, vũ trang bằng gươm, giáo và cung. 14 Tôi kiểm điểm xong, liền nói[f] với giới quý tộc, các viên chức, và hết thảy dân chúng; “Anh em đừng sợ họ. Hãy nhớ đến Chúa chúng ta, là Đấng vĩ đại uy nghi, và hãy chiến đấu vì cớ gia đình họ hàng[g] của anh em, con trai và con gái, vợ và nhà cửa của anh em.”
Kiên Trì Xây Cất
15 Khi kẻ thù chúng tôi nghe tin chúng tôi biết mọi sự, và Đức Chúa Trời đã phá hủy mưu đồ của họ, chúng tôi hết thảy đều quay về nơi tường thành, mỗi người làm công việc mình.
16 Từ ngày ấy trở đi, phân nửa số gia nhân của tôi làm việc, trong khi phân nửa cầm khiên, và giáo, cung và áo giáp. Các vị chỉ huy đứng phía sau toàn thể nhà Giu-đa 17 xây tường thành. Những người khuân vác chuyền gánh nặng một tay, còn tay kia cầm khí giới. 18 Những người xây cất, mỗi người làm việc đeo gươm bên hông mình, còn người thổi kèn đứng ngay bên cạnh tôi. 19 Tôi nói với giới quý tộc, các viên chức, và hết thảy dân chúng: “Công việc nhiều và trải rộng nên chúng ta phải phân tán dọc theo tường thành, người này cách xa người kia. 20 Bất cứ nơi nào anh em nghe tiếng kèn, hãy tụ họp lại nơi đó với chúng tôi. Đức Chúa Trời chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta.”
21 Thế là chúng tôi tiếp tục làm việc[h] từ rạng đông cho đến khi sao mọc. 22 Cùng lúc ấy, tôi cũng nói thêm với dân chúng: “Mỗi người cùng gia nhân mình phải ngủ đêm lại trong thành Giê-ru-sa-lem, ban đêm làm phận sự canh gác, còn ban ngày làm việc.” 23 Ngay cả tối, anh em tôi, các gia nhân tôi, và những người hộ vệ theo sau tôi, không một ai trong chúng tôi cởi quần áo mình ra; mỗi người giữ khí giới trong tay phải mình.[i]
Tệ Nạn Kinh Tế Và Xã Hội
5 Lúc ấy, một số người thường dân Giu-đa cùng vợ lớn tiếng kêu ca phản đối một số người đồng hương. 2 Có người nói: “Con trai và con gái chúng tôi đông đảo, chúng tôi cần lúa ăn để sống.” 3 Người khác nói: “Chúng tôi phải cầm ruộng nương, vườn nho, và nhà của chúng tôi mới có lúa ăn vì nạn đói.” 4 Người khác nữa lại nói: “Chúng tôi phải cầm ruộng và vườn nho chúng tôi lấy tiền đóng thuế cho vua. 5 Nay chúng tôi cũng đồng máu mủ với anh em chúng tôi, con cái chúng tôi cũng như con cái họ, thế mà chúng tôi sắp sửa phải bắt ép con trai và con gái chúng tôi vào kiếp tôi mọi. Thật vậy, một số con gái chúng tôi đã bị bắt ép rồi. Chúng tôi không thể làm gì hơn được, vì đồng ruộng và vườn nho chúng tôi đã thuộc về người khác.”
6 Tôi rất công phẫn khi nghe tiếng kêu ca của họ và những lời phân trần trên. 7 Sau khi suy nghĩ kỹ càng,[j] tôi khiển trách giới quý tộc và các viên chức: “Anh em nỡ lòng nào xiết nợ anh em mình sao?”[k] Để giải quyết vấn đề,[l] tôi triệu tập đại hội, 8 và nói với họ: “Chúng tôi đã cố gắng hết sức chuộc lại anh em chúng ta là người Do-thái, đã phải bán mình cho người ngoại quốc; mà nay anh em lại bán chính anh em của mình, để rồi họ phải bị bán lại cho chúng tôi sao?” Họ im lặng, không tìm được lời gì đáp lại cả. 9 Tôi nói tiếp: “Việc anh em làm không phải chút nào. Đáng lẽ anh em phải bước đi trong sự kính sợ Đức Chúa Trời của chúng ta để khỏi bị dân ngoại quốc, kẻ thù của chúng ta, sỉ nhục. 10 Chính tôi, anh em tôi, và gia nhân tôi cũng cho anh em chúng ta[m] vay tiền và thóc. Chúng ta hãy từ bỏ thói cầm đồ cho vay này đi! 11 Ngày hôm nay, tôi xin anh em hãy trả lại đồng ruộng, vườn nho, vườn ô-liu, và nhà cửa cho họ, luôn cả một phần trăm lãi bằng tiền, thóc, rượu và dầu mà anh em đã lấy của anh em chúng ta.” 12 Họ đáp: “Chúng tôi sẽ trả lại cho họ, không đòi hỏi gì cả. Chúng tôi sẽ làm y như lời ông nói.” Vậy, tôi gọi các thầy tế lễ đến, và tôi buộc họ thề làm theo như lời họ vừa nói. 13 Tôi cũng giũ áo và nói: “Xin Đức Chúa Trời giũ sạch như thế này khỏi nhà và sản nghiệp người nào không thực hiện lời hứa trên; nguyện xin người ấy bị giũ sạch như thế này và trở thành trắng tay!” Toàn thể hội chúng đáp: “A-men,” và ca tụng CHÚA. Dân chúng làm theo như lời đã hứa.
Tổng Trấn Nê-hê-mi Nêu Gương Liêm Khiết
14 Hơn nữa, từ ngày tôi giữ chức tổng trấn Giu-đa, từ năm thứ hai mươi cho đến năm thứ ba mươi hai triều Át-ta-xét-xe, tổng cộng mười hai năm, tôi và các anh em tôi không hề nhận phần phụ cấp ẩm thực dành cho tổng trấn. 15 Nhưng các vị tổng trấn trước tôi áp bức dân chúng nặng nề, bắt họ cấp dưỡng thức ăn và rượu hàng ngày đến bốn mươi sê-ken[n] bạc. Gia nhân của họ cũng ra oai ức hiếp dân chúng. Tuy nhiên tôi không làm như vậy, vì tôi kính sợ Đức Chúa Trời. 16 Trái lại, tôi dồn mọi nỗ lực[o] vào công tác xây dựng tường thành. Chúng tôi không thu thập đất đai, hết thảy những gia nhân của tôi đều tập trung tại đây, vào công tác xây dựng. 17 Có đến một trăm năm mươi người Do-thái và viên chức cũng ăn nơi bàn tôi, chưa kể những người đến với chúng tôi từ những nước láng giềng. 18 Mỗi ngày phải dọn một con bò, sáu con chiên chọn lọc cùng với gà vịt, và cứ cách mười ngày, đủ mọi loại rượu dư dật. Dù vậy, tôi cũng không đòi phần phụ cấp ẩm thực dành cho tổng trấn, vì dân chúng phải gánh thuế má nặng nề rồi.
19 Lạy Đức Chúa Trời, con cầu xin Ngài ghi nhận tất cả những gì con làm cho dân sự này, và xin Ngài làm ơn cho con!
Chiến Dịch Khủng Bố
6 Khi San-ba-lát, Tô-bia, Ghê-sem người Ả-rập, và những kẻ thù khác của chúng tôi nghe tin tôi đã xây lại tường thành, và không còn nơi nào hư thủng nữa, mặc dù lúc ấy tôi chưa tra các cánh cổng, 2 San-ba-lát và Ghê-sem sai người đến nói với tôi: “Mời ông đến họp với chúng tôi tại Kê-phi-rim,[p] trong đồng bằng Ô-nô.” Nhưng họ mưu toan hại tôi, 3 cho nên tôi sai người đáp lời họ: “Tôi bận thực hiện một công tác lớn lao. Tôi không thể xuống được, e công việc đình trệ trong khi tôi bỏ việc xuống gặp các ông.” 4 Họ sai người đến mời tôi bốn lần như vậy, và lần nào tôi cũng đáp lời họ y như nhau.
5 Lần thứ năm, San-ba-lát sai gia nhân đến với tôi y như trước, nhưng lần này kèm theo một phong thư không niêm. 6 Thư viết: “Tin đồn lan khắp các nước, và chính Gát-mu[q] cũng xác nhận tin ấy, rằng ông âm mưu cùng người Giu-đa làm phản, vì thế ông mới xây tường thành này. Theo tin đồn, ông sẽ làm vua họ. 7 Ông cũng đã sắp xếp cho các tiên tri rao báo về ông tại Giê-ru-sa-lem rằng ‘Có một vua ở Giu-đa.’ Tất nhiên vua sẽ nghe những tin này. Vậy mời ông đến, chúng ta cùng nhau thảo luận.”
8 Tôi sai người đáp: “Những chuyện ông nói chẳng hề xảy ra. Ông chỉ tưởng tượng trong đầu ông thôi.” 9 Tất cả những người ấy đều tìm cách dọa chúng tôi sợ vì họ nghĩ rằng: “Chúng sẽ nản chí buông xuôi, và công việc sẽ không hoàn thành.” Nhưng tôi lại càng quyết tâm làm việc hơn nữa.[r]
10 Sau đó, tôi đến thăm Sê-ma-gia, con Đê-la-gia, cháu Mê-hê-ta-bên, vì ông sống biệt lập tại nhà. Ông nói:
“Chúng ta hãy gặp nhau tại đền thờ Đức Chúa Trời,
Ngay bên trong đền thánh,
Rồi chúng ta hãy đóng cửa đền thánh lại,
Vì họ sẽ đến để giết ông,
Họ sẽ đến giết ông trong ban đêm!”
11 Tôi đáp: “Một người trong địa vị tôi lẽ nào lại chạy trốn sao? Hơn nữa, có người nào như tôi vào đền thánh mà được sống đâu? Tôi không vào đâu.” 12 Bấy giờ tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời không có sai ông, nhưng ông đã nói tiên tri nghịch lại tôi vì Tô-bia và San-ba-lát đã mua chuộc ông. 13 Chúng mua chuộc ông để làm cho tôi sợ hoảng rồi hành động theo như lời ông ta đề nghị,[s] vậy tôi sẽ phạm tội, mang tiếng xấu, và chúng sẽ có cớ lăng nhục tôi.
14 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin Ngài nhớ lại những điều Tô-bia và San-ba-lát đã làm! Con cũng xin Ngài nhớ lại nữ tiên tri Nê-a-đia và các tiên tri khác, thế nào họ đã tìm cách làm cho con khiếp sợ!
Hoàn Tất Tường Thành
15 Ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun,[t] tường thành hoàn tất trong năm mươi hai ngày. 16 Khi hết thảy những kẻ thù của chúng tôi nghe tin ấy, tất cả các dân tộc láng giềng đều khiếp sợ, họ xuống tinh thần nhiều lắm, vì họ biết rằng công trình này thực hiện được là nhờ Đức Chúa Trời chúng tôi giúp đỡ.
17 Cũng trong thời gian ấy, giới quý tộc của Giu-đa gửi nhiều thư cho Tô-bia và Tô-bia cũng gửi thư lại cho họ, 18 vì có nhiều người trong Giu-đa thề giúp Tô-bia, vì hắn là con rể của Sê-ca-nia, con A-ra, và Giô-ha-nan, con Tô-bia, lại cưới con gái Mê-su-lam, con Bê-rê-kia. 19 Họ thường ca ngợi Tô-bia trước mặt tôi, và học lại cho hắn những lời tôi nói. Còn Tô-bia thì gửi nhiều thư đe dọa tôi.
Bảo Vệ An Ninh Cho Thành Giê-ru-sa-lem
7 Sau khi tường thành đã xây xong, tôi tra các cánh cổng. Những người gác cổng, ca nhạc sĩ, và người Lê-vi nhận trách nhiệm canh gác. 2 Tôi giao cho Ha-na-ni, em tôi, và Ha-na-ni-ya, sĩ quan chỉ huy thành lũy, nhiệm vụ cai trị Giê-ru-sa-lem. Ha-na-ni-ya là người đáng tin cậy và kính sợ Đức Chúa Trời hơn nhiều người khác. 3 Tôi dặn họ: “Anh em không nên để cổng thành Giê-ru-sa-lem mở trong[u] giờ nắng gắt,[v] và trong khi còn phiên trực, người trực[w] phải đóng cổng cài then cho chắc. Anh em cũng nên cắt phiên gác cho dân cư Giê-ru-sa-lem, người này nơi vọng gác, kẻ kia nơi đối ngang nhà mình.”
4 Thành phố rộng lớn, nhưng dân cư thưa thớt, và nhà cửa xây lại chưa đủ vào đâu.[x] 5 Đức Chúa Trời giục lòng tôi triệu tập các nhà quyền quý, các viên chức, và thường dân để đăng ký hộ tịch.
Danh Sách Người Hồi Hương
Tôi tìm được gia phả của những người trở về đợt đầu, có ghi như sau:
6 Đây là những người trong tỉnh đã trở về từ giữa vòng những phu tù mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lưu đày. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. 7 Họ cũng về với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-cai, Binh-san, Mích-bê-rết. Biết-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.
Tổng số những người nam trong dân Y-sơ-ra-ên:
8 Con cháu Pha-rốt, 2,172 người,
9 Con cháu Sê-pha-tia, 372 người,
10 Con cháu A-ra, 652 người,
11 Con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu Giê-sua và Giô-áp, 2,818 người,
12 Con cháu Ê-lam, 1,254 người,
13 Con cháu Xát-tu, 845 người,
14 Con cháu Xác-cai, 760 người,
15 Con cháu Bin-nui, 648 người,
16 Con cháu Bê-bai, 628 người,
17 Con cháu A-gát, 2,322 người,
18 Con cháu A-đô-ni-cam, 667 người,
19 Con cháu Biết-vai, 2,067 người,
20 Con cháu A-đin, 655 người,
21 Con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia, 98 người,
22 Con cháu Ha-sum, 328 người,
23 Con cháu Bết-sai, 324 người,
24 Con cháu Ha-ríp, 112 người,
25 Con cháu Ghi-bê-ôn, 95 người,
26 Người Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, 188 người,
27 Người A-na-tốt, 128 người,
28 Người Bết-Ách-ma-vết, 42 người,
29 Người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, 743 người,
30 Người Ra-ma và Ghê-ba, 621 người,
31 Người Mích-ma, 122 người,
32 Người Bê-tên và A-hi, 123 người,
33 Người Nê-bô khác, 52 người,
34 Con cháu Ê-lam khác, 1,254 người,
35 Con cháu Ha-rim, 320 người,
36 Người Giê-ri-cô, 345 người,
37 Người Lô-đơ, Ha-đi, và Ô-nô, 721 người,
38 Con cháu Sê-na, 3,930 người,
39 Thầy tế lễ:
Con cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua, 973 người,
40 Con cháu Y-mê, 1,052 người,
41 Con cháu Phát-hua, 1,247 người,
42 Con cháu Ha-rim, 1,017 người,
43 Người Lê-vi:
con cháu Giê-sua, thuộc họ Cát-mi-ên, thuộc con cháu Hô-dê-va, 74 người,
44 Ca nhạc sĩ:
con cháu A-sáp, 148 người,
45 Người gác cổng:
con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn,
con cháu A-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, 138 người,
46 Người phục dịch đền thờ:
con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
47 con cháu Kê-rốt, con cháu Sia, con cháu Pha-đôn,
48 con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai,
49 con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha-rơ,
50 con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Nê-cô-đa,
51 con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pha-sê-a,
52 con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sim,
53 con cháu Bạc-búc, con cháu Ha-khu-pha, con cháu Hát-bua,
54 con cháu Bát-lit, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Hát-sa,
55 con cháu Bát-cốt, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tha-mác,
56 con cháu Nê-xia, con cháu Ha-ti-pha.
57 Con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn:
con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Phê-ri-da,
58 con cháu Gia-a-la, con cháu Đạt-côn, con cháu Ghi-đên,
59 con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn.
60 Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời vua Sa-lô-môn là 392 người.
61 Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đôn và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên:
62 Con cháu Đê-la-gia,
con cháu Tô-bi-gia, con cháu Nê-cô-đa, tổng cộng 642 người.
63 Về phía những thầy tế lễ:
con cháu Hô-bai-gia, con cháu Ha-cốt, con cháu Bát-xi-lai, (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ).
64 Những người này tìm tên mình trong gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. 65 Quan tổng trấn cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời.
66 Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42,360 người. 67 Ngoài ra, có 7,337 nam nữ gia nhân 68 và 245 nam nữ ca sĩ, 69 435 con lạc đà, và 6,720 con lừa.
70 Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất.[y] Quan tổng trấn dâng vào quỹ một ngàn đa-riếc[z] 50 cái chậu, và 530 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ. 71 Một số các trưởng tộc dâng vào quỹ xây cất hai mươi ngàn đa-riếc[aa] vàng, và hai ngàn hai trăm mi-na[ab] bạc. 72 Dân chúng còn lại dâng hai mươi ngàn đa-riếc vàng, hai ngàn mi-na bạc, và 67 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ.
73 Các thầy tế lễ, những người Lê-vi, người gác cổng, ca nhạc sĩ, một số thường dân, những người phục dịch đền thờ, và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình.
Khi tháng bảy đến, dân Y-sơ-ra-ên đều ở trong thành mình.
22 Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin hãy nghe các lời này: Đức Giê-su, người Na-xa-rét đã được Đức Chúa Trời chứng nhận trước mặt quý vị bằng những việc quyền năng, phép mầu và dấu lạ mà qua Ngài, Đức Chúa Trời đã làm giữa quý vị như chính quý vị đã biết rõ. 23 Ngài đã bị nộp cho quý vị theo chương trình và sự biết trước của Đức Chúa Trời, và quý vị đã mượn tay kẻ gian ác mà đóng đinh xử tử Ngài trên thập tự giá. 24 Nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại, giải cứu Ngài khỏi nỗi thống khổ của sự chết, vì nó không thể giam giữ Ngài được. 25 Bởi vua Đa-vít đã nói về Ngài:
‘Tôi luôn luôn thấy Chúa trước mặt tôi
Vì Ngài ở bên phải tôi,
Nên tôi sẽ không bị rúng động.
26 Vì thế, lòng tôi vui mừng, lưỡi tôi hoan ca
Thân thể tôi sẽ sống trong niềm hy vọng.
27 Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi nơi Âm Phủ,
Cũng chẳng cho Đấng Thánh của Ngài thấy sự hư nát.
28 Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống.
Chúa sẽ làm cho tôi đầy dẫy sự vui mừng trước mặt Ngài.’[a]
29 Thưa các anh em, tôi có thể nói rõ về tổ phụ Đa-vít rằng người đã chết và được an táng, lăng tẩm người vẫn còn ở giữa chúng ta đến ngày nay. 30 Nhưng người là một tiên tri nên biết Đức Chúa Trời đã hứa bằng một lời thề rằng Ngài sẽ đặt một hậu tự của người lên ngai.[b] 31 Thấy trước việc tương lai, vua Đa-vít nói về sự phục sinh của Chúa Cứu Thế[c] rằng: Ngài chẳng bị bỏ nơi Âm Phủ, thân thể Ngài không bị hư nát.[d] 32 Đức Chúa Trời đã khiến Đức Giê-su này sống lại, và tất cả chúng tôi đều là nhân chứng về sự kiện này. 33 Vì thế, Ngài được đưa lên bên phải Đức Chúa Trời, nhận lãnh Thánh Linh từ Cha, như đã hứa, và đổ Thánh Linh ra như quý vị đang nghe thấy. 34 Vì vua Đa-vít không lên trời nhưng lại nói:
‘Chúa phán cùng Chúa tôi:
Hãy ngồi bên phải Ta
35 Cho đến khi nào Ta đặt các kẻ thù nghịch con
Dưới bệ chân con.’[e]
36 Vậy xin toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy biết chắc chắn rằng Đức Chúa Trời đã lập Đức Giê-su mà quý vị đã đóng đinh trên thập tự giá làm Chúa Tể và Chúa Cứu Thế.”
37 Nghe xong, lòng họ đau nhói, nên hỏi Phê-rơ và các sứ đồ: “Anh em ơi, chúng tôi phải làm chi?”
38 Phê-rơ đáp: “Hãy ăn năn, và mỗi người phải nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su mà chịu báp-tem để tội lỗi quý vị được tha thứ, rồi sẽ nhận được ân tứ Thánh Linh. 39 Vì lời hứa đó dành sẵn cho quý vị, con cái quý vị và tất cả những người ở xa xôi, tức là những người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta kêu gọi.”
40 Phê-rơ cũng dùng nhiều lời khác để cảnh cáo và khích lệ họ rằng: “Quý vị hãy thoát khỏi thế hệ băng hoại này.” 41 Vậy, những người đáp ứng lời kêu gọi của Phê-rơ đều chịu báp-tem; hôm ấy số tín đồ tăng thêm ba ngàn người.
42 Họ chuyên cần giữ lời giáo huấn của các sứ đồ, sự thông công với anh em, lễ bẻ bánh và các buổi cầu nguyện.
43 Mọi người đều kinh sợ vì nhiều phép mầu và dấu lạ được các sứ đồ thực hiện. 44 Tất cả các tín hữu đều hợp nhất với nhau, lấy mọi vật sở hữu làm của chung, 45 bán tài sản của cải mà phân phát cho mọi tín hữu tùy theo nhu cầu của mỗi người. 46 Hằng ngày, họ cứ đồng tâm chuyên cần đến đền thờ, họp nhau bẻ bánh từ nhà này sang nhà khác, dùng bữa với nhau cách vui vẻ rộng lượng, 47 ca ngợi Đức Chúa Trời và được lòng tất cả mọi người. Mỗi ngày, Chúa tăng thêm số người được cứu.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)