Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Sáng Thế 28

Y-sác Bảo Gia-cốp Đi Cha-ran

28 Y-sác gọi Gia-cốp vào chúc phước lành rồi căn dặn: “Con đừng cưới vợ người Ca-na-an! Con hãy lên đường ngay về xứ Pha-đan A-ram, đến nhà Bê-tu-ên, ông ngoại con; rồi cưới vợ trong vòng con gái của cậu La-ban! Cầu Đức Chúa Trời Toàn Năng ban phước cho con, cho con đông con, cho dòng dõi con sinh sôi nẩy nở và trở thành một dân đông đảo. Cầu Chúa cho con và dòng dõi con hưởng phước lành của Áp-ra-ham và cho con làm chủ miền đất con đang kiều ngụ[a] mà Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham!” Vậy, Y-sác sai Gia-cốp đi qua xứ Pha-đan A-ram, đến nhà La-ban, cậu của Gia-cốp, và là con trai của Bê-tu-ên, người A-ram.

Ê-sau Cưới Con Của Ích-ma-ên

Ê-sau nhận thấy cha mình chúc phước cho Gia-cốp, bảo Gia-cốp qua xứ Pha-đan A-ram kiếm vợ và nghiêm cấm Gia-cốp cưới vợ người Ca-na-an; và được cha chúc phước lành. Gia-cốp vâng lời và lên đường qua xứ Pha-đan A-ram. Ê-sau thấy những người vợ Ca-na-an của mình không đẹp lòng Y-sác, cha mình. Ê-sau bèn đi đến nhà chú mình là Ích-ma-ên, cưới thêm cô vợ thứ ba. Nàng tên là Ma-ha-bát, con Ích-ma-ên, cháu nội Áp-ra-ham và em của Nê-ba-giốt.

Giấc Mộng Của Gia-cốp Tại Bê-tên

10 Gia-cốp rời Bê-a Sê-ba đi qua xứ Pha-đan A-ram. 11 Đêm ấy, Gia-cốp dừng chân, chọn một tảng đá gối đầu nằm ngủ. 12 Gia-cốp nằm mộng thấy một chiếc thang bắc từ đất lên trời và thấy các thiên sứ lên xuống trên thang ấy. 13 CHÚA đứng trên đầu thang, gọi Gia-cốp: “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, và của Y-sác, cha con. Đất con đang nằm đây thuộc về con! Ta ban miền đất này cho con và cho dòng dõi con. 14 Dòng dõi con sẽ đông như cát bụi trên mặt đất. Con sẽ mở rộng biên cương cả đông tây, nam bắc. Các dân tộc[b] trên thế giới sẽ nhờ con và hậu tự của con mà được phước.

15 Này, Ta sẽ ở cùng con luôn, con đi đâu Ta sẽ theo gìn giữ đó và đem con về xứ này, vì Ta không bao giờ bỏ con, cho đến khi Ta hoàn thành lời Ta đã hứa với con.” 16 Gia-cốp thức giấc, tự nhủ: “Thật, CHÚA ngự tại đây mà ta không biết!” 17 Ông sợ hãi nói: “Nơi này thật đáng kính sợ. Đây chính là nhà của Đức Chúa Trời, là cổng trời!”

18 Gia-cốp dậy sớm, lấy tảng đá gối đầu đêm qua dựng lên làm trụ, đổ dầu trên đỉnh, 19 rồi đặt tên địa điểm này là Bê-tên, thay vì tên cũ là Lu-xơ.

20 Gia-cốp khấn nguyện: “Nếu Đức Chúa Trời ở với con, gìn giữ con trên đường con đang đi, cho con đủ ăn đủ mặc, 21 và đưa con trở về nhà cha con bình an vô sự, thì CHÚA sẽ là Đức Chúa Trời của con. 22 Còn tảng đá con đã dựng làm trụ này sẽ trở thành nhà Chúa và con sẽ dâng lại cho Chúa một phần mười mọi vật Chúa ban cho.”

Ma-thi-ơ 27

27 Sáng sớm hôm sau tất cả các thượng tế và trưởng lão trong dân bàn mưu để giết Đức Giê-su. Họ trói Ngài và giải nộp cho quan thống đốc Phi-lát.

Cái Chết Của Giu-đa(A)

Khi ấy, Giu-đa, kẻ phản Chúa, thấy Ngài bị lên án, ông hối hận; ông đem ba chục miếng bạc trả lại cho các thượng tế và trưởng lão, và nói: “Tôi đã phạm tội phản bội, làm người vô tội phải đổ máu.”[a] Nhưng họ đáp: “Việc đó can hệ gì đến chúng ta? Việc của anh mặc anh.”

Giu-đa ném bạc vào đền thờ, trở ra và đi thắt cổ.

Nhưng các thượng tế nhặt những miếng bạc ấy rồi nói: “Không nên bỏ bạc này vào kho của đền thờ vì đây là giá của huyết.”[b] Họ bàn với nhau dùng số bạc ấy mua thửa ruộng của người thợ gốm để làm nơi chôn cất ngoại kiều. Cho nên đến nay ruộng ấy vẫn được gọi là Ruộng Máu. Như thế lời tiên tri Giê-rê-mi được ứng nghiệm: “Họ đã lấy ba chục miếng bạc, là giá con cái Y-sơ-ra-ên đã định trên Ngài và 10 đem bạc mua thửa ruộng của người thợ gốm như Chúa đã truyền cho Ta!”[c]

Phi-lát Hỏi Cung Đức Giê-su(B)

11 Đức Giê-su đứng trước quan thống đốc. Quan hỏi Ngài: “Anh có phải là vua dân Do Thái không?” Đức Giê-su đáp: “Như ông nói đó.”

12 Trong lúc bị các thượng tế và trưởng lão tố cáo, Ngài không đối đáp gì cả. 13 Nên Phi-lát hỏi Ngài: “Anh không nghe bao nhiêu lời chứng tố cáo anh sao?” 14 Nhưng Ngài không đáp một lời nào, đến nỗi quan thống đốc rất ngạc nhiên.

Đức Giê-su Bị Kết Án Tử Hình(C)

15 Vào dịp lễ[d] quan thống đốc có lệ ân xá một tù nhân tùy theo ý dân chúng. 16 Lúc đó có một tù nhân khét tiếng tên Ba-ra-ba. 17 Khi dân chúng tụ tập, Phi-lát hỏi: “Các người muốn ta tha ai, Ba-ra-ba hay Giê-su, người mệnh danh là Chúa Cứu Thế?” 18 Vì ông biết rõ bởi lòng ganh ghét họ đã nộp Ngài.

19 Khi Phi-lát đương ngồi xử án, vợ ông sai người đến nói: “Đừng đụng đến người công chính đó vì hôm nay tôi bị khổ sở nhiều trong giấc chiêm bao về người đó.”

20 Nhưng các thượng tế và các trưởng lão xúi giục dân chúng xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Giê-su.

21 Quan thống đốc lại hỏi đám dân: “Trong hai người, các người muốn ta tha ai?” Họ đáp: “Ba-ra-ba.”

22 Phi-lát nói với họ: “Vậy thì ta sẽ xử thế nào với Giê-su, người mệnh danh là Chúa Cứu Thế!” Tất cả đều đáp: “Hãy đóng đinh nó!”

23 Ông hỏi: “Tại sao? Người này đã làm điều ác gì?” Họ lại càng la lớn hơn nữa: “Hãy đóng đinh nó!”

24 Phi-lát thấy không làm được gì, mà lại gây thêm náo động. Ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng rồi bảo: “Ta vô tội về máu người này, các người phải chịu trách nhiệm lấy!”

25 Cả dân chúng đáp: “Nguyện máu của hắn đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!”

26 Phi-lát liền tha Ba-ra-ba cho họ. Sau khi cho đánh đòn Đức Giê-su, ông giao Ngài cho họ đóng đinh.

27 Lúc đó lính của quan thống đốc đem Đức Giê-su vào công đường,[e] cả đội quân bao quanh Ngài. 28 Chúng lột áo Ngài ra và mặc cho Ngài một chiếc áo đỏ tía. 29 Chúng đan một mão bằng gai, đội lên đầu Ngài và đặt vào tay phải Ngài một cây sậy rồi quỳ xuống trước mặt Ngài và chế nhạo: “Hoan hô, Vua dân Do Thái!” 30 Chúng khạc nhổ trên Ngài và lấy cây sậy đánh vào đầu Ngài. 31 Chế nhạo Ngài xong, chúng lột áo đỏ tía ra và mặc áo lại cho Ngài, rồi dẫn đi đóng đinh.

Đức Giê-su Bị Đóng Đinh(D)

32 Khi đi ra họ gặp một người quê ở Si-ren tên là Si-môn, chúng bắt ông này vác thập tự giá cho Ngài. 33 Đến một nơi tên Gô-gô-tha, nghĩa là “Đồi Sọ;” 34 chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, Ngài nếm thử nhưng không uống. 35 Sau khi đóng đinh Ngài, chúng bắt thăm chia nhau áo Ngài. 36 Rồi chúng ngồi đó canh giữ Ngài. 37 Phía trên đầu Ngài chúng để một bản án ghi: “Đây là Giê-su, Vua dân Do Thái!” 38 Lúc đó có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài, một tên bên phải, một tên bên trái. 39 Những người qua lại phỉ báng[f] Ngài, 40 lắc đầu nói rằng: “Này, anh sẽ phá hủy đền thờ rồi xây lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi! Nếu anh là Con Đức Chúa Trời hãy xuống khỏi thập tự giá đi!”

41 Các thượng tế, giáo sư Kinh Luật và trưởng lão cũng nhạo báng rằng: 42 “Nó cứu người khác nhưng không thể tự cứu mình, nếu nó là vua Y-sơ-ra-ên,[g] hãy xuống khỏi thập tự giá đi rồi chúng ta sẽ tin nó. 43 Nó tin cậy Đức Chúa Trời, hãy để Đức Chúa Trời giải cứu nó đi nếu Ngài muốn, vì nó tuyên bố rằng: ‘Ta là Con Đức Chúa Trời.’ ” 44 Hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng nhục mạ Ngài.

Đức Giê-su Chết(E)

45 Từ trưa[h] đến ba giờ chiều[i] trời trở nên tối tăm khắp trên đất. 46 Khoảng ba giờ chiều Đức Giê-su kêu lên lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma sa-bách-tha-ni,” nghĩa là: “Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?”

47 Vài người đứng gần đó nghe tiếng Ngài, họ nói: “Người này gọi tiên tri Ê-li.”[j]

48 Một người trong đám họ liền chạy đi lấy miếng bọt biển nhúng đầy giấm, để trên đầu cây sậy rồi đưa cho Ngài uống. 49 Nhưng những người khác lại bảo: “Hãy khoan, để xem Ê-li có đến cứu nó không?”

50 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn và trút linh hồn.[k]

51 Kìa, bức màn trong đền thờ bị xé ra làm đôi từ trên xuống dưới; đất rúng động và đá nứt ra. 52 Mồ mả mở ra, nhiều xác của các thánh đã chết được sống lại, 53 ra khỏi mộ. Sau khi Đức Giê-su sống lại, họ đi vào thành thánh hiện ra cho nhiều người.

54 Khi viên đội trưởng và những lính canh Đức Giê-su thấy đất rúng động và những điều xảy ra, họ kinh sợ, nói: “Người này thật là Con Đức Chúa Trời!”

55 Cũng có nhiều phụ nữ ở đó nhìn xem Ngài từ đằng xa. Họ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để phục vụ Ngài. 56 Trong số các bà ấy có Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ của Gia-cơ và Giô-sép, và mẹ của hai con trai Xê-bê-đê.

Đức Giê-su Được Chôn(F)

57 Đến chiều, có một người giàu ở thành A-ri-ma-thê tên là Giô-sép, cũng là môn đệ Đức Giê-su, 58 đến cùng Phi-lát để xin thi thể Ngài. Phi-lát truyền lịnh giao thi thể cho ông. 59 Giô-sép lấy thi thể, liệm trong tấm vải sạch, 60 và đặt trong ngôi mộ mới mà ông đã đục trong đá cho mình. Ông lăn một tảng đá lớn chận cửa mộ rồi đi. 61 Có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác cũng ở đó, ngồi đối diện mộ Ngài.

Lính Canh Mộ

62 Hôm sau, sau ngày sửa soạn, các thượng tế và người Pha-ri-si họp nhau đến gặp Phi-lát, 63 thưa rằng: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ lại tên gian dối này khi còn sống có nói: ‘Sau ba ngày Ta sẽ sống lại.’ 64 Vậy xin ngài truyền canh giữ mộ cẩn thận cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó đến lấy trộm xác rồi nói với dân chúng rằng: ‘Ngài đã sống lại từ cõi chết,’ và sự gian dối sau còn tệ hơn sự gian dối trước.”

65 Phi-lát bảo họ: “Các người có lính canh, hãy đem lính canh đi canh mộ cẩn thận theo cách các người biết.” 66 Họ đi niêm phong tảng đá trước cửa mộ và cắt lính canh giữ cẩn thận.

Ê-xơ-tê 4

Phản Ứng Của Người Do Thái Khi Sắc Lệnh Được Công Bố

Khi Mạc-đô-chê biết được mọi việc xảy ra, ông liền xé áo, quấn vải thô, và rắc tro lên đầu. Ông đi ra giữa thành, lớn tiếng than khóc đắng cay. Ông dừng lại ngay trước cổng cung điện, vì không ai quấn vải thô được phép vào cổng. Trong khắp các tỉnh, nơi nào sắc lệnh vua truyền tới, người Do-thái kêu la thảm thiết, họ kiêng ăn, khóc lóc, thở than. Nhiều người nằm trên vải thô rắc tro.

Mạc-đô-chê Báo Cho Ê-xơ-tê Biết Về Sắc Lệnh Của Vua

Khi các nữ tỳ và thái giám của Ê-xơ-tê báo cáo tình hình cho hoàng hậu, hoàng hậu xúc động vô cùng. Hoàng hậu gửi áo quần cho Mạc-đô-chê mặc để ông cởi bỏ lớp vải thô quấn quanh mình, nhưng ông không nhận. Ê-xơ-tê sai gọi Hà-thác, một trong những thái giám của vua, được vua cắt đặt hầu cận hoàng hậu, và sai Hà-thác đến gặp Mạc-đô-chê để tìm hiểu sự tình. Hà-thác đi ra gặp Mạc-đô-chê tại quảng trường của thành phố, đối ngang cổng vào hoàng cung. Mạc-đô-chê kể cho Hà-thác nghe mọi chuyện xảy ra cho ông, ngay cả số lượng bạc chính xác Ha-man hứa đóng vào ngân khố hoàng gia để hủy diệt dân Do-thái. Ông cũng trao cho Hà-thác một bản sao sắc lệnh của vua công bố tại Su-san về việc hủy diệt dân Do-thái. Ông dặn Hà-thác cho Ê-xơ-tê xem sắc lệnh ấy, và trình lại cho bà rõ sự việc. Ông cũng bảo bà phải ra mắt vua, nài khẩn van xin vua cho dân tộc của bà. Hà-thác về tâu lại cho Ê-xơ-tê mọi lời của Mạc-đô-chê.

Ê-xơ-tê Quyết Định Vâng Theo Lời Chỉ Dạy Của Mạc-đô-chê

10 Ê-xơ-tê bảo Hà-thác trở lại thưa với Mạc-đô-chê: 11 “Tất cả các triều thần của vua, và ngay cả dân chúng trong các tỉnh của vua đều biết rằng bất luận đàn ông hay đàn bà, nếu không được vua đòi mà vào sân nội điện ra mắt vua, thì chỉ có một luật thôi: người ấy phải bị xử tử. Chỉ khi vua đưa vương trượng bằng vàng ra cho người thì người mới được sống. Về phần con, đã ba mươi ngày rồi con chưa được lệnh đòi hầu vua.”

12 Khi họ trình lại Mạc-đô-chê sứ điệp của Ê-xơ-tê, 13 Mạc-đô-chê sai đáp lại Ê-xơ-tê: “Con chớ tưởng rằng trong tất cả những người Do-thái, chỉ mình con sẽ thoát chết vì con ở trong cung vua. 14 Nếu con giữ yên lặng trong lúc này, người Do-thái sẽ được giúp đỡ và giải cứu từ nơi khác. Nhưng con và dòng họ con sẽ bị tiêu diệt. Biết đâu con được chức hoàng hậu là vì cớ thời điểm như thế này!”

15 Ê-xơ-tê sai người thưa lại với Mạc-đô-chê: 16 “Con xin cha tập họp lại tất cả những người Do-thái tại Su-san. Xin cha và họ vì con mà kiêng ăn, xin đừng ăn uống chi cả suốt ba ngày ba đêm. Con và các nữ tỳ của con cũng sẽ kiêng ăn như vậy. Sau đó con sẽ đến ra mắt vua, dù trái luật. Nếu con phải chết thì con chết!” 17 Mạc-đô-chê ra về, làm theo mọi điều Ê-xơ-tê cầu xin.

Công Vụ 27

Phao-lô Được Giải Đi Rô-ma

27 Khi đã quyết định cho chúng tôi đi tàu thủy qua nước Y-ta-li, người ta giao Phao-lô và vài tù nhân khác cho đội trưởng Giu-li, thuộc trung đoàn ngự lâm quân. Chúng tôi đáp một chiếc tàu đến từ A-tra-mít sắp chạy về các hải cảng tỉnh Tiểu Á. Tàu nhổ neo ra khơi. Có A-ri-tạc, người Ma-xê-đoan ở Tê-sa-lô-ni-ca, cùng đi với chúng tôi.

Hôm sau, chúng tôi đến Si-đôn. Đội trưởng Giu-li đối xử tử tế với Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu và được họ chăm sóc. Rời bến Si-đôn, vì bị ngược gió, tàu chúng tôi phải chạy sát đảo Síp. Chúng tôi vượt ngang hải phận Si-li-si và Bam-phi-li, đến My-ra, thuộc Ly-sia. Tại đây, đội trưởng thấy một chiếc tàu từ A-lê-xan-đơ-ri đến, sắp đi Y-ta-li, liền cho chúng tôi lên tàu. Tàu chúng tôi chạy chậm chạp mất nhiều ngày, phải vất vả lắm mới đến ngang thành phố Cơ-nít. Vì gió ngược, tàu phải chạy sát đảo Cơ-rết vượt ngang Mũi Sanh-môn. Cứ chạy sát bờ biển, chật vật lắm tàu mới đến một bến gọi là Mỹ Cảng, gần thành phố La-sê.

Chúng tôi ở lại đây một thời gian dài, quá ngày đại lễ Chuộc Tội; đến lúc này vượt biển thật là nguy hiểm. 10 Phao-lô khuyên họ: “Thưa các ông, tôi nhận thấy chuyến hải trình từ đây thật nguy hiểm, chẳng những thiệt hại lớn cho chiếc tàu và hàng hóa, mà còn nguy hiểm cho tính mạng chúng ta nữa.” 11 Nhưng đội trưởng Giu-li tin lời bàn của thuyền trưởng và chủ tàu hơn lời Phao-lô nói. 12 Vì hải cảng này không tiện đậu mùa đông, nên đa số đồng ý ra khơi, để may ra có thể chạy đến Phê-nít để tạm trú qua mùa đông. Phê-nít là một hải cảng của đảo Cơ-rết, về hướng tây nam và tây bắc.

13 Thấy gió nam bắt đầu thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được điều dự định, nên nhổ neo chạy dọc theo bờ đảo Cơ-rết.

Bị Bão Chìm Tàu

14 Chẳng bao lâu, một trận bão dữ dội tên là Đông Bắc từ trên đảo thổi quật xuống. 15 Tàu bị bão dập dồi, không thể nào chạy ngược chiều gió được nữa, nên chúng tôi bỏ mặc cho gió cuốn tàu đi. 16 Tạt ngang phía nam một đảo nhỏ tên là Cơ-lô-đa, chúng tôi phải chật vật lắm mới giữ được chiếc thuyền cấp cứu. 17 Người ta kéo thuyền lên và tìm cách buộc chặt tàu lại. Sợ bị mắc cạn trên bãi cát ngoài hải phận Si-rơ-tơ, nên họ thả neo xuống, để mặc cho tàu bị cuốn đi. 18 Bão tiếp tục thổi vô cùng dữ dội, nên hôm sau, người ta quăng hàng hóa xuống biển. 19 Ngày thứ ba, hành khách tự tay ném dụng cụ trên tàu xuống biển. 20 Suốt nhiều ngày, mặt trời không xuất hiện, các ngôi sao cũng không, mà bão thì cứ tiếp tục thổi rất mạnh. Rốt cuộc, chúng tôi đành tuyệt vọng, không còn mong được cứu thoát nữa.

21 Sau khi cả tàu nhịn ăn lâu ngày, Phao-lô đứng dậy giữa mọi người khuyên nhủ: “Thưa các ông, giá các ông nghe lời tôi và không rời đảo Cơ-rết thì đã khỏi bị thiệt hại mất mát như thế này. 22 Nhưng bây giờ, tôi khuyên các ông hãy vui lên! Vì không một ai trong các ông thiệt mạng cả, chỉ mất chiếc tàu mà thôi. 23-24 Đêm qua, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đứng bên tôi bảo rằng: ‘Phao-lô ơi! Đừng sợ vì anh phải ứng hầu Hoàng Đế La Mã và này, Đức Chúa Trời đã ban cho anh tất cả những người đồng thuyền với anh, tôi thuộc về Đức Chúa Trời và đang phục vụ Ngài. 25 Vậy, xin các ông hãy vui lên đi! Vì tôi tin chắc nơi Đức Chúa Trời rằng sự việc sẽ xảy ra như lời đã phán cùng tôi. 26 Nhưng chắc hẳn chúng ta sẽ phải tấp vào một hòn đảo nào đó!’

27 Đã đến đêm thứ mười bốn mà chúng tôi vẫn lênh đênh giữa biển A-đờ-ria. Khoảng nửa đêm, các thủy thủ đoán rằng tàu chúng tôi đang tới gần một vùng đất nào đó. 28 Họ thả trái dò đo được hai mươi sải; đi một ít nữa, lại dò thấy mười sải. 29 Sợ tàu đụng phải đá ngầm, họ thả bốn neo đặt sau lái xuống biển, đợi đến sáng. 30 Các thủy thủ tìm cách trốn khỏi tàu nên họ hạ chiếc thuyền con xuống giả bộ đi thả neo trước mũi tàu. 31 Phao-lô bảo đội trưởng Giu-li và các binh sĩ: ‘Nếu những người này không ở lại trên tàu thì quý ông không được cứu thoát đâu!’ ” 32 Các binh sĩ liền cắt các dây buộc, cho chiếc thuyền con rơi xuống biển.

33 Trời gần sáng, Phao-lô nài khuyên mọi người hãy ăn: “Hôm nay nữa là được mười bốn ngày các ông nhịn ăn, chờ đợi, không ăn gì cả. 34 Vì thế, tôi nài khuyên các ông hãy ăn để bảo toàn mạng sống. Vì không một ai trong các ông sẽ mất đến một sợi tóc trên đầu!” 35 Vừa nói ông vừa lấy bánh, tạ ơn Đức Chúa Trời trước mặt mọi người rồi bẻ ăn. 36 Mọi người đều được khích lệ nên cũng ăn. 37 Tổng số người trên tàu đếm được hai trăm bảy mươi sáu. 38 Ăn no nê xong, người ta quăng lúa mì xuống biển cho nhẹ tàu.

Đắm Tàu

39 Trời đã sáng, các thủy thủ cũng không nhận ra được đó là vùng đất nào; nhưng thấy một cái vịnh có bãi cát, họ quyết định cho tàu cập vào đó. 40 Họ cắt neo bỏ xuống biển, đồng thời mở dây buộc lái tàu, kéo buồm đàng mũi lên cho tàu theo chiều gió chạy vào bờ. 41 Nhưng tàu chạy nhằm chỗ hai dòng nước gặp nhau, nên bị mắc cạn, mũi tàu cắm xuống bãi cát ngầm, không xoay trở được, trong khi phía đuôi tàu bị sóng đánh tan nát.

42 Binh sĩ bàn định giết các tù nhân vì sợ có người lội trốn thoát, 43 nhưng đội trưởng Giu-li muốn cứu Phao-lô nên bác bỏ đề nghị này. Đội trưởng ra lệnh: “Những người biết bơi cứ nhảy xuống nước trước để vào bờ, 44 số còn lại bám vào các tấm ván, hoặc các mảnh vỡ của chiếc tàu.” Thế là tất cả đều vào tới bờ an toàn.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)