Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

M’Cheyne Bible Reading Plan

The classic M'Cheyne plan--read the Old Testament, New Testament, and Psalms or Gospels every day.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Sáng Thế 11

Tháp Ba-bên

11 Bấy giờ cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ, và cùng một thứ tiếng. Từ phương đông đi ra và người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a nên định cư ở đấy.

Họ bảo nhau: “Nào, chúng ta hãy làm gạch và nung cho chín!” Lúc đó, người ta dùng gạch thay cho đá và nhựa chai thay cho hồ. Họ lại nói: “Nào, chúng ta hãy xây một thành và một ngôi tháp ngọn cao tận trời[a] Chúng ta hãy lưu danh mình kẻo bị tản lạc khắp mặt đất!”

CHÚA ngự xuống xem thành và ngôi tháp con cái loài người[b] đang xây cất. CHÚA phán: “Kìa, toàn thể loài người chỉ có một dân tộc, một ngôn ngữ. Kìa chúng bắt đầu làm việc này, nay không còn gì ngăn cản chúng làm mọi điều chúng hoạch định nữa. Nào, Chúng Ta hãy xuống xáo trộn ngôn ngữ của chúng, làm chúng không thể nào hiểu tiếng nói của nhau được.”

CHÚA phân tán loài người từ nơi đó ra khắp mặt đất, và họ ngưng xây cất thành này. Vì thế, thành ấy mang tên là Ba-bên, vì tại đấy CHÚA làm xáo trộn ngôn ngữ cả thế giới và Ngài phân tán họ ra khắp mặt đất.

Gia Phả Của Áp-ra-ham

10 Đây là dòng dõi của Sem:

Hai năm sau cơn lụt, Sem được một trăm tuổi và sinh A-bác-sát. 11 Sau khi sinh A-bác-sát, Sem còn sống năm trăm năm, sinh con trai con gái.

12 A-bác-sát được ba mươi lăm tuổi sinh Sa-lách. 13 Sau khi sinh ra Sa-lách, A-bác-sát còn sống bốn trăm lẻ ba năm, sinh con trai con gái.

14 Sa-lách được ba mươi tuổi sinh Hê-be. 15 Sau khi sinh Hê-be, Sa-lách còn sống bốn trăm lẻ ba năm, sinh con trai con gái.

16 Hê-be được ba mươi bốn tuổi sinh Bê-léc. 17 Sau khi sinh Bê-léc, Hê-be còn sống bốn trăm ba mươi năm, sinh con trai con gái.

18 Bê-léc được ba mươi tuổi sinh Rê-hu. 19 Sau khi sinh Rê-hu, Bê-léc còn sống hai trăm lẻ chín năm, sinh con trai con gái.

20 Rê-hu được ba mươi hai tuổi sinh Sê-rúc. 21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-hu còn sống hai trăm lẻ bảy năm, sinh con trai con gái.

22 Sê-rúc được ba mươi tuổi sinh Na-cô. 23 Sau khi sinh Na-cô, Sê-rúc còn sống hai trăm năm, sinh con trai con gái.

24 Na-cô được hai mươi chín tuổi sinh Tha-rê. 25 Sau khi sinh Tha-rê, Na-cô còn sống một trăm mười chín năm, sinh con trai con gái.

26 Tha-rê được bảy mươi tuổi sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran.

27 Đây là dòng dõi của Tha-rê:

Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran, Ha-ran sinh Lót. 28 Ha-ran qua đời tại quê hương mình ở thành U-rơ của người Canh-đê, khi cha mình là Tha-rê còn sống. 29 Áp-ram và Na-cô cưới vợ; vợ Áp-ram tên là Sa-rai; còn vợ Na-cô tên là Minh-ca, con gái của Ha-ran. Ha-ran là cha của Minh-ca và Dích-ca. 30 Sa-rai bị hiếm muộn không có con.

31 Tha-rê đem Áp-ram, con trai mình, Lót, con Ha-ran, cháu mình và Sa-rai, dâu mình, vợ của Áp-ram đồng ra khỏi U-rơ của người Canh-đê để qua xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ ở lại tại đó.

32 Tha-rê hưởng thọ hai trăm lẻ năm tuổi rồi qua đời tại Cha-ran.

Ma-thi-ơ 10

Chúa Chọn Mười Hai Môn Đệ(A)

10 Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ đến và ban cho quyền uy để đuổi tà linh và chữa lành mọi bệnh tật.

Tên của mười hai sứ đồ như sau: Trước hết[a] là Si-môn, cũng gọi là Phê-rơ và An-rê, em người; Gia-cơ con của Xê-bê-đê và Giăng em người; Phi-líp và Ba-thê-lê-mi; Thô-ma và Ma-thi-ơ, người thu thuế; Gia-cơ con của A-phê và Tha-đê; Si-môn người thuộc đảng Quá Khích và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là người phản Chúa.

Chúa Sai Mười Hai Sứ Đồ(B)

Đó là mười hai sứ đồ Đức Giê-su sai đi và dặn bảo: “Đừng đi vào vùng dân ngoại quốc hay thành phố người Sa-ma-ri. Nhưng hãy đến cùng bầy chiên[b] lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên. Hãy đi, truyền giảng rằng: ‘Nước Thiên Đàng đã đến gần.’ Hãy chữa lành kẻ đau yếu, khiến người chết sống lại, chữa sạch người phung, và đuổi quỷ trừ tà. Các con đã nhận lãnh miễn phí, hãy tặng miễn phí.[c] Đừng mang theo vàng, bạc hay tiền của[d] trong lưng. 10 Đừng mang theo túi đi đường, không cần hai áo, giày hoặc gậy, bởi vì công nhân được hưởng tiền công mình.

11 Khi vào một thành phố hay làng xã nào, hãy tìm người xứng đáng mà trọ cho đến khi đi. 12 Khi vào nhà ai, hãy chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà đó xứng đáng, sự bình an của các con sẽ ở với họ. Nếu không xứng đáng, lời chúc bình an sẽ trở về với các con. 14 Nếu ai không tiếp nhận, hoặc không nghe lời các con, hãy phủi sạch bụi dính chân các con khi ra khỏi nhà hay thành phố đó. 15 Thật, Ta bảo các con, vào ngày phán xét, dân thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ sẽ bị đoán phạt nhẹ hơn dân thành phố đó.”

Những Sự Bắt Bớ(C)

16 “Này, Ta sai các con đi như đàn chiên giữa muông sói. Vì thế, hãy khôn khéo như rắn và đơn sơ như chim bồ câu.

17 Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con cho các hội đồng và đánh đòn các con tại các hội đường. 18 Các con sẽ bị điệu đến trước mặt các thống đốc và vua chúa vì cớ Ta, để làm chứng cho họ và cho các dân ngoại quốc. 19 Khi bị bắt, các con đừng lo cách nói thế nào hay sẽ nói gì, vì lúc ấy các con sẽ được ban cho lời phải đáp. 20 Vì không phải tự các con nói ra, nhưng Đức Thánh Linh của Cha các con sẽ nói qua các con.

21 Anh em sẽ tố cáo nhau để giết nhau. Cha tố con, ngay cả con cũng chống lại cha và gây cho cha bị giết. 22 Các con sẽ bị mọi người ghen ghét vì danh Ta, nhưng ai kiên trì cho đến cuối cùng sẽ được cứu rỗi. 23 Khi các con bị bắt bớ ở thành phố này, hãy trốn sang thành phố khác. Vì thật, Ta bảo các con, các con chưa đi hết các thành phố Y-sơ-ra-ên thì Con Người đã đến.

24 Trò không hơn thầy, tớ cũng không hơn chủ. 25 Trò bằng thầy và tớ bằng chủ cũng đủ rồi. Nếu họ gọi chủ nhà là quỷ Bê-ên-xê-bun, thì họ sẽ còn mắng nhiếc người nhà thậm tệ đến đâu nữa!”

Sợ Ai(D)

26 “Vậy, các con đừng sợ chúng, vì không gì che giấu mà không bị phô bày ra, không gì bí mật mà không bị tiết lộ. 27 Những gì Ta bảo các con trong bóng tối, hãy nói ra giữa ban ngày; những gì các con nghe được, hãy công bố trên sân thượng. 28 Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn. Thà sợ Đấng có thể hủy diệt cả linh hồn lẫn thân thể nơi hỏa ngục. 29 Có phải hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng? Thế nhưng không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha các con. 30 Ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã đếm rồi. 31 Thế thì đừng sợ. Các con quý hơn những con chim sẻ nhiều.”

Xưng Nhận Chúa Cứu Thế(E)

32 “Vì thế, ai xưng nhận Ta trước mặt người đời, chính Ta sẽ xưng nhận người ấy trước mặt Cha Ta ở trên trời. 33 Còn ai chối Ta trước mặt người đời, chính Ta sẽ chối người ấy trước mặt Cha Ta ở trên trời.

34 Đừng nghĩ rằng Ta đến để đem hòa bình trên đất. Ta đến không phải để đem hòa bình nhưng đem gươm giáo. 35 Vì Ta đến để phân rẽ, khiến con trai nghịch với cha, con gái với mẹ và nàng dâu cùng bà gia. 36 Kẻ thù của người ta chính là người nhà mình.

37 Ai yêu cha mẹ hơn Ta, người ấy không xứng đáng cho Ta. Ai yêu con trai, con gái hơn Ta cũng không xứng đáng cho Ta. 38 Ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta cũng không xứng đáng cho Ta. 39 Ai cố giữ sự sống mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta hy sinh sự sống mình thì sẽ tìm lại được.”

Phần Thưởng(F)

40 “Ai đón tiếp các con, tức là đón tiếp Ta. Ai đón tiếp Ta tức là đón tiếp Đấng sai Ta. 41 Ai đón tiếp một tiên tri của Chúa vì người ấy là tiên tri, người ấy sẽ nhận phần thưởng của tiên tri. Ai đón tiếp một người công chính vì người ấy là công chính, thì sẽ nhận được phần thưởng của người công chính. 42 Ai cho một trong những người bé mọn này chỉ một ly nước lạnh vì người đó là môn đệ Ta, thật, Ta bảo các con, người ấy sẽ không mất phần thưởng của mình đâu.”

Ê-xơ-ra 10

Giải Quyết Vấn Đề

10 Trong khi Ê-xơ-ra phủ phục trước đền thờ Đức Chúa Trời, cầu nguyện, và khóc xưng tội, một đám đông người Y-sơ-ra-ên gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, họp lại chung quanh ông, vì dân chúng khóc thảm thiết lắm. Bấy giờ Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, thuộc con cháu Ê-lam, thưa với Ê-xơ-ra: “Chúng tôi có phạm tội bất trung với Đức Chúa Trời chúng ta, cưới vợ ngoại tộc thuộc các dân địa phương. Nhưng bây giờ hãy còn hy vọng cho dân Y-sơ-ra-ên về vấn đề này. Ngày giờ này, chúng tôi xin lập giao ước trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta, hứa nguyện bỏ tất cả những người vợ ngoại tộc và con cái do họ sinh ra, theo lời chỉ bảo của Chúa tôi[a] và của những người run sợ khi nghe mạng lịnh của Đức Chúa Trời chúng ta. Xin ông thi hành chiếu theo Kinh Luật. Xin ông bắt tay vào việc,[b] vì đây là trọng trách của ông. Chúng tôi sẽ ủng hộ ông. Xin ông can đảm hành động.”

Vậy Ê-xơ-ra đứng lên, xin các thầy thượng tế, người Lê-vi, và toàn dân Y-sơ-ra-ên thề sẽ thi hành theo đề nghị trên; và họ thề. Sau đấy, Ê-xơ-ra rời khỏi nơi phía trước đền thờ Đức Chúa Trời, đi về phòng của Giê-hô-ha-nan, con trai Ê-li-a-síp, và ông nghỉ đêm tại đây, không ăn bánh, cũng không uống nước, vì ông vẫn còn khóc than về tội bất trung của những người lưu đày hồi hương.

Có lời truyền rao khắp đất Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, kêu gọi mọi người lưu đày hồi hương tập họp về Giê-ru-sa-lem. Người nào không đến trong vòng ba ngày, sẽ bị tịch thu tất cả tài sản, và chính người sẽ bị khai trừ khỏi hội chúng lưu đày hồi hương, theo quyết định của các nhà lãnh đạo và trưởng lão.

Triệu Tập Cộng Đồng

Mọi người nam trong Giu-đa và Bên-gia-min đều tập họp tại Giê-ru-sa-lem trong vòng ba ngày. Lúc ấy nhằm ngày 20 tháng chín.[c] Toàn dân ngồi tại quảng trường trước đền thờ Đức Chúa Trời, run sợ vì vụ này, lại cũng run lạnh vì mưa to. 10 Bây giờ thầy tế lễ Ê-xơ-ra đứng lên tuyên bố: “Anh em phạm tội bất trung vì cưới vợ ngoại tộc, do đó anh em làm cho tội của Y-sơ-ra-ên nặng thêm. 11 Bây giờ anh em hãy thú tội[d] với CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, và làm theo ý Ngài, phân ly khỏi dân địa phương và vợ ngoại tộc.”

12 Toàn hội chúng đáp lớn tiếng: “Đúng vậy. Chúng tôi chắc chắn phải làm theo điều ông dạy. 13 Tuy nhiên, chúng tôi đông người lắm,[e] lại vào mùa mưa, chúng tôi không thể tiếp tục đứng ngoài trời như thế này. Hơn nữa, công việc này không thể nào giải quyết xong trong một hoặc hai ngày, vì có rất nhiều người trong vòng chúng tôi phạm tội này.[f] 14 Xin chỉ để các nhà lãnh đạo đại diện cho hội chúng ở lại đây. Trong các thành chúng ta, tất cả những người nào có vợ ngoại tộc phải trình diện trước các nhà lãnh đạo[g] vào ngày giờ ấn định, mỗi người trình diện cùng với trưởng lão và thẩm phán của thành mình, cho đến khi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời chúng ta vì vấn đề này xoay khỏi chúng ta.” 15 Chỉ có Giô-na-than, con trai A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiệc-va, phản đối đề nghị này. Mê-su-lam và Sáp-bê-tai, người Lê-vi, ủng hộ họ.

16 Vậy những người lưu đày hồi hương thực hành quyết định trên. Thầy tế lễ Ê-xơ-ra biệt riêng các trưởng tộc, chỉ định đích danh từng trưởng tộc cho mỗi gia tộc. Họ họp lại tra xét vấn đề vào ngày mồng một tháng mười, 17 và hoàn tất việc điều tra tất cả những người đàn ông có vợ ngoại tộc vào ngày mồng một tháng giêng.

Danh Sách Những Người Phạm Tội Cưới Vợ Ngoại Tộc

18 Trong thành phần các thầy tế lễ, họ tìm được những người sau đây có vợ ngoại tộc:

Thuộc con cháu Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, và anh em ông: Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-se, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia, 19 những người này[h] cam kết bỏ vợ và dâng một cừu đực trong bầy làm lễ chuộc lỗi.[i]

20 Thuộc con cháu Y-mê:

Ha-na-ni và Xê-ba-đia;

21 Thuộc con cháu Ha-rim:

Ma-a-sê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xia;

22 Thuộc con cháu Phát-hua:

En-giô-ê-nai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ên-a-xa;

23 Thuộc thành phần người Lê-vi:

Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (tức Kê-li-ta), Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-se;

24 Thuộc thành phần ca nhạc sĩ:

En-gia-síp;

thuộc thành phần người gác cổng:

Sa-lum, Tê-lem, và U-ri;

25 Thuộc thành phần thường dân Y-sơ-ra-ên:

thuộc con cháu Pha-rốt:

Ram-gia, I-xi-gia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia;

26 Thuộc con cháu Ê-lam:

Mát-tan-gia, Xa-cha-ri-gia, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li-gia;

27 Thuộc con cháu Xát-tu:

En-giô-ê-nai, En-gia-síp, Mát-tan-gia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa;

28 Thuộc con cháu Bê-bai:

Giô-ha-nan, Ha-nan-gia, Xáp-bai, và Át-lai;

29 Thuộc con cháu Ba-ni:

Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-súp, Sê-anh, và Ra-mốt;

30 Thuộc con cháu Pha-hát Mô-áp:

Át-na, Kê-lanh, Rê-na-gia, Ma-a-sê-gia, Mát-tan-gia, Bê-xanh-ên, Bin-nui, và Ma-na-se;

31 Thuộc con cháu Ha-rim:

Ê-li-ê-se, Ích-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, 32 Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ri-gia;

33 Thuộc con cháu Ha-sum:

Mát-tê-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mi, Ma-na-se, và Si-mê-i;

34 Thuộc con cháu Ba-ni:

Ma-a-dai, Am-ram, Giô-ên,[j] 35 Bê-na-gia, Bê-đi-gia, Kê-lu-hu, 36 Van-gia, Mê-rê-mốt, En-gia-síp, 37 Mát-tan-gia, Mát-tê-nai, và Gia-a-su;

38 Thuộc con cháu Bin-nui:

Si-mê-i, 39 Sê-lem-gia, Na-than, A-đa-gia, 40 Mác-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-sa-rên, Sê-lem-gia, Sê-ma-ri-gia, 42 Sa-lum, A-ma-ri-gia, Giô-sép;

43 Thuộc con cháu Nê-bô:

Giê-i-ên, Mát-tít-gia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên, và Bê-na-gia.

44 Tất cả những người ấy đều có vợ ngoại tộc; và một số đã sinh con.[k]

Công Vụ 10

Cọt-nây

10 Tại Sê-sa-rê có một người tên Cọt-nây, là đội trưởng, thuộc trung đoàn Y-ta-lia. Ông và cả gia đình là người sùng kính Đức Chúa Trời, thường cứu giúp những người nghèo khổ và thường xuyên cầu nguyện Đức Chúa Trời. Một hôm vào khoảng ba giờ chiều, ông thấy rõ ràng khải tượng một thiên sứ của Đức Chúa Trời bước vào nhà gọi ông: “Cọt-nây!”

Ông nhìn chăm chăm thiên sứ, run sợ đáp: “Thưa Chúa, có việc chi?” Thiên sứ bảo: “Các lời cầu nguyện và việc cứu tế của ông đã thấu đến và được ghi nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Bây giờ, ông hãy sai người đến Giốp-bê, mời Si-môn gọi là Phê-rơ. Ông ta đang ở trọ với Si-môn, thợ thuộc da, nhà ở gần biển.”

Khi thiên sứ nói chuyện cùng ông đã đi rồi, ông gọi hai gia nhân và một quân nhân sùng kính Đức Chúa Trời đang phục vụ mình và thuật cho họ nghe mọi chi tiết rồi sai họ đi Giốp-bê.

Hôm sau, khi họ gần đến Giốp-bê, khoảng giữa trưa Phê-rơ lên mái nhà cầu nguyện. 10 Ông đói và thèm ăn. Khi người ta đang dọn ăn thì ông xuất thần, 11 thấy bầu trời mở ra và có vật gì như tấm khăn lớn buộc bốn góc hạ xuống đất, 12 chứa đủ các loài vật bốn chân, loài bò sát dưới đất và loài chim trời. 13 Rồi một tiếng nói bảo ông: “Phê-rơ, hãy đứng dậy làm thịt mà ăn!”

14 Nhưng Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa! Không được đâu! Con chẳng bao giờ ăn vật gì ô uế hoặc không tinh sạch.” 15 Tiếng ấy lại bảo: “Đừng coi những vật Đức Chúa Trời đã thanh tẩy là ô uế!” 16 Việc đó lập lại ba lần, rồi lập tức tấm khăn được thu lên trời.

17 Phê-rơ đang phân vân tìm hiểu ý nghĩa khải tượng này. Ngay lúc ấy, những người Cọt-nây sai đi đã tìm ra nhà của Si-môn, vừa đến đứng ngay trước cửa. 18 Họ lớn tiếng hỏi: “Si-môn gọi là Phê-rơ có trọ tại đây không?” 19 Phê-rơ còn đang suy nghiệm về khải tượng ấy, thì Thánh Linh bảo: “Kìa có ba người đang tìm con. 20 Con hãy đứng dậy xuống dưới nhà và đi với họ, đừng do dự, vì Ta đã sai họ đến!”

21 Phê-rơ xuống và bảo họ: “Tôi là người các ông đang tìm, vì lý do nào các ông đến đây?” 22 Họ đáp: “Đội trưởng Cọt-nây sai chúng tôi đến đây. Ông ta là người công chính và sùng kính Đức Chúa Trời, được toàn dân Do Thái kính nể. Một thiên sứ thánh đã bảo ông ta mời ông về nhà để nghe những điều ông dạy.” 23 Phê-rơ mời họ vào nhà nghỉ. Hôm sau, Phê-rơ cùng họ lên đường, có vài anh em tín hữu ở Giốp-bê tháp tùng.

24 Ngày hôm sau, họ đến Sê-sa-rê. Cọt-nây đang chờ đợi và đã mời bà con, thân hữu tề tựu đông đủ. 25 Phê-rơ vừa bước vào, Cọt-nây ra đón, quỳ dưới chân ông mà lạy. 26 Nhưng Phê-rơ đỡ Cọt-nây dậy, bảo rằng: “Xin ông đứng lên cho! Tôi cũng là người thường thôi!”

27 Vừa nói chuyện với Cọt-nây, vừa tiến vào trong nhà, Phê-rơ thấy một đám đông đang tụ họp. 28 Ông nói: “Quý vị thừa biết theo phong tục người Do Thái, kết thân với người khác chủng tộc hoặc đến thăm họ là điều cấm kỵ. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ cho tôi biết tôi không được gọi ai là phàm tục hoặc ô uế cả. 29 Do đó, khi được mời là tôi đến ngay, không phản đối gì. Vậy xin quý vị cho biết vì lý do nào quý vị mời tôi đến đây?”

30 Cọt-nây đáp: “Bốn ngày trước đây, vào khoảng giờ này, tức ba giờ chiều, tôi đang ở nhà cầu nguyện. Bỗng một người mặc áo sáng rực đến đứng ngay trước mặt tôi 31 mà bảo: ‘Ông Cọt-nây, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện ông và ghi nhớ việc ông cứu tế người nghèo khổ, 32 Hãy sai người đến Giốp-bê tìm Si-môn gọi là Phê-rơ. Ông ấy đang trọ ở nhà Si-môn, thợ thuộc da, nhà ở gần biển.’ 33 Vậy nên tôi lập tức sai người đi mời ông và ông có lòng tốt đến đây. Giờ đây, tất cả chúng tôi hiện diện trước mặt Đức Chúa Trời để nghe mọi điều Chúa đã truyền dạy ông.”

34 Phê-rơ bắt đầu nói: “Bây giờ, tôi ý thức rằng Đức Chúa Trời thật chẳng thiên vị ai, 35 nhưng trong tất cả các dân tộc, hễ ai kính sợ Ngài và làm điều công chính đều được Ngài hài lòng. 36 Đây là sứ điệp Đức Chúa Trời gửi cho người Y-sơ-ra-ên, nói về Phúc Âm bình an qua Chúa Cứu Thế Giê-su, là Chủ Tể của mọi người. 37 Quý vị đã rõ các diễn biến tại toàn xứ Giu-đê, bắt đầu từ xứ Ga-li-lê sau phép báp-tem mà Giăng truyền giảng. 38 Thế nào Đức Chúa Trời đã xức dầu Đức Giê-su ở Na-xa-rét bằng Thánh Linh và quyền năng, Ngài đi khắp nơi làm việc phúc đức và chữa lành tất cả những người bị quyền lực quỷ vương áp bức, vì Đức Chúa Trời ở với Ngài.

39 Chúng tôi là nhân chứng đã thấy tận mắt tất cả những việc Ngài làm trong đất nước người Do Thái và tại Giê-ru-sa-lem. Họ đã giết Ngài bằng cách treo Ngài trên cây gỗ. 40 Nhưng ba ngày sau, Đức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại và cho người ta thấy Ngài. 41 Không phải cho toàn thể dân chúng, nhưng chỉ những nhân chứng mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn, tức chúng tôi là những người đã từng ăn uống với Chúa sau khi Ngài chết rồi sống lại. 42 Chúa ra lệnh cho chúng tôi truyền giảng cho dân chúng và xác chứng rằng Ngài là Đấng được Đức Chúa Trời lập làm Thẩm Phán xét xử mọi người, kẻ sống và kẻ chết. 43 Tất cả các tiên tri của Chúa đều làm chứng về Ngài rằng ai tin cậy Ngài đều được tha tội nhờ danh Ngài.”

44 Phê-rơ còn đang nói, Thánh Linh đã giáng xuống trên tất cả những người nghe sứ điệp ấy.

45 Các tín hữu tháp tùng Phê-rơ đều kinh ngạc vì ân tứ Thánh Linh cũng đổ xuống trên người ngoại quốc nữa, 46 vì họ cũng nghe những người ấy nói các tiếng lạ và ca tụng Đức Chúa Trời. Lúc ấy, Phê-rơ tuyên bố: 47 “Những người này đã tiếp nhận Thánh Linh cũng như chúng ta. Thế thì còn ai dám ngăn họ chịu phép báp-tem bằng nước nữa?” 48 Vậy, ông bảo làm phép báp-tem cho họ nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su. Họ mời ông lưu lại vài ngày nữa.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)