M’Cheyne Bible Reading Plan
Y-sác Xuống Ghê-ra Và Được Lời Hứa Của Chúa
26 Ngoài nạn đói thời trước trong đời Áp-ra-ham, xứ lại bị nạn đói nữa. Y-sác đến với A-bi-mê-léc, vua dân Phi-li-tin ở xứ Ghê-ra. 2 CHÚA hiện ra gặp Y-sác mà bảo: “Con đừng xuống Ai-cập, con cứ ở lại xứ mà Ta sẽ chỉ bảo con. 3 Hãy tạm trú trong xứ này, thì Ta sẽ ở với con, ban phước cho con. Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con tất cả các xứ này và Ta sẽ giữ vững lời Ta đã thề với Áp-ra-ham, thân phụ con. 4 Ta sẽ gia tăng dòng dõi con đông như sao trên trời, sẽ ban cho chúng các xứ này. Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sẽ nhờ hậu tự con mà được phước; 5 vì Áp-ra-ham đã nghe theo tiếng phán Ta, vâng lời Ta căn dặn, tuân hành các điều răn, quy luật và luật lệ Ta.” 6 Vậy Y-sác ở tại Ghê-ra.
7 Khi đàn ông trong xứ hỏi thăm về vợ ông thì ông đáp: “Cô ấy là em tôi!” Vì ông sợ nếu nhận nàng là vợ thì đàn ông trong xứ sẽ giết mình vì Rê-bê-ca, bởi nàng có nhan sắc.
8 Y-sác cư ngụ tại đó lâu ngày, một lần kia A-bi-mê-léc, vua người Phi-li-tin nhìn qua cửa sổ, chợt thấy Y-sác âu yếm Rê-bê-ca. 9 A-bi-mê-léc gọi Y-sác vào bảo: “Kìa, nàng quả là vợ nhà ngươi, sao ngươi lại nói: ‘Cô ta là em tôi?’ ”
Y-sác đáp: “Vì tôi tự nhủ; phải nói thế để khỏi bỏ mạng vì nàng”.
10 A-bi-mê-léc trách: “Ngươi làm chi cho chúng ta vậy? Nếu có ai trong dân ta ăn nằm với vợ ngươi, thế là ngươi gây cho chúng ta mắc tội đấy!”
11 Vua A-bi-mê-léc truyền cho tất cả dân chúng: “Ai đụng đến người này hay vợ người thì sẽ bị xử tử!”
12 Y-sác gieo trồng trong xứ đó, năm ấy gặt hái được hơn trăm lần vì CHÚA ban phước cho ông. 13 Y-sác thành ra giàu có, của cải ngày càng gia tăng và ông trở nên rất lớn. 14 Ông có nhiều bầy chiên, bầy bò và nhiều tôi tớ nên bị dân Phi-li-tin ganh tị. 15 Họ lấp tất cả các giếng mà tôi tớ của cha ông là Áp-ra-ham đã đào lúc người còn sống.
16 Vua A-bi-mê-léc bảo ông: “Ngươi hãy đi khỏi đây vì ngươi cường thịnh hơn chúng ta!”
17 Y-sác từ đó ra đi và cắm trại tại thung lũng Ghê-ra và cư ngụ tại đó. 18 Y-sác khơi lại các giếng đã đào trong thời cha mình là Áp-ra-ham còn sống nhưng đã bị dân Phi-li-tin lấp lại khi người qua đời. Ông gọi các giếng ấy theo tên cha mình đã đặt.
19 Các tôi tớ của Y-sác còn đào thêm giếng trong thung lũng và tìm được một mạch nước. 20 Nhưng những người chăn ở Ghê-ra giành giật với những người chăn của Y-sác và bảo: “Mạch nước này là của chúng tao!” Y-sác gọi mạch nước ấy là Ê-sết (nghĩa là cãi lộn). 21 Kế đó, các tôi tớ của Y-sác đào được một giếng khác, cũng bị tranh giành nữa nên ông gọi giếng này là Sít-na (nghĩa là ganh ghét). 22 Ông rời nơi đó đi đào một giếng khác nữa; lần này không còn tranh giành nên ông đặt tên giếng này là Rê-hô-bốt (nghĩa là những nơi rộng rãi) và nói: “Bây giờ, CHÚA đã dành chỗ rộng rãi cho chúng ta nên chúng ta sẽ thịnh vượng trong xứ này.”
Chúa Lại Phán Hứa Với Y-sác
23 Y-sác từ đó đi đến Bê-a Sê-ba. 24 Ngay đêm đó, CHÚA hiện ra cùng ông và phán dạy: “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha con. Con đừng sợ chi, Ta ở cùng con. Ta sẽ ban phước và gia tăng dòng dõi con vì Áp-ra-ham là tôi tớ Ta.”
25 Y-sác lập một bàn thờ, cầu khẩn danh CHÚA và cắm trại tại đó. Rồi các tôi tớ ông đào một cái giếng tại đây.
Thỏa Ước Giữa Y-sác Và A-bi-mê-léc
26 Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đến thăm Y-sác. Tháp tùng nhà vua có A-bu-sát, một cố vấn và Phi-côn là tướng. 27 Y-sác hỏi: “Các ông đã ghét tôi, đuổi tôi đi rồi, tại sao các ông còn đến với tôi?”
28 Họ đáp: “Chúng ta thấy rõ CHÚA đã ở với ngươi nên chúng ta nói: ‘Ta hãy lập một lời thề với nhau, giữa chúng ta với ngươi. Ta hãy lập giao ước với ngươi’ 29 để ngươi không làm hại chúng ta cũng như trước kia chúng ta không động chạm đến ngươi và chỉ đối xử tốt với ngươi và để ngươi đi bình an. Bây giờ ngươi được CHÚA ban phước.”
30 Y-sác dọn tiệc đãi họ và cùng ăn uống với nhau. 31 Sáng hôm sau, họ dậy sớm và thề với nhau; rồi Y-sác tiễn đưa họ lên đường. Họ từ biệt ông và ra đi bình an.
32 Chính hôm ấy, các tôi tớ của Y-sác đến báo tin về cái giếng họ đã đào: “Chúng tôi đã tìm được nước.” 33 Ông đặt tên giếng là Si-ba; vì thế thành này mang tên là Bê-a Sê-ba cho đến ngày nay.
34 Ê-sau bốn mươi tuổi thì cưới vợ, một người tên là Gia-đích, con gái của Bê-ê-ri, người Hê-tít và một người tên là Ba-sê-mát, con gái của Ê-long, cũng người Hê-tít. 35 Hai nàng dâu này gây nhiều đắng cay cho Y-sác và Rê-bê-ca.
Ngụ Ngôn Về Mười Trinh Nữ
25 “Bấy giờ Nước Thiên Đàng sẽ ví như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. 2 Trong số đó có năm cô dại, năm cô khôn. 3 Các cô dại đem đèn nhưng không mang theo dầu. 4 Mấy cô khôn đem bình dầu theo đèn của mình. 5 Vì chàng rể đến muộn nên tất cả các cô buồn ngủ rồi ngủ thiếp đi.
6 Đến nửa đêm có tiếng gọi lớn: ‘Chàng rể đến kìa, hãy ra tiếp đón!’
7 Các trinh nữ đều thức dậy, khêu đèn lên cho sáng. 8 Các cô dại nói với mấy cô khôn: ‘Xin các chị chia cho chúng em một ít dầu vì đèn chúng em sắp tắt.’
9 Mấy cô khôn trả lời: ‘Không được, sợ không đủ cho cả chúng em và các chị, tốt hơn các chị nên ra cửa hàng mà mua.’
10 Nhưng đang khi các cô gái kia đi mua dầu thì chàng rể đến. Những cô gái đã sẵn sàng thì vào dự tiệc cưới với chàng rể và cửa đóng lại.
11 Sau đó, các trinh nữ kia mới trở về kêu xin: ‘Chủ ơi, xin mở cửa cho chúng tôi vào với.’
12 Người chủ đáp: ‘Tôi nói thật, tôi không biết các cô là ai.’
13 Vậy hãy tỉnh thức vì các con không biết ngày cũng chẳng biết giờ Con Người đến.”[a]
Ngụ Ngôn Về Ba Người Đầy Tớ(A)
14 “Nước Thiên Đàng cũng ví như một người kia sắp đi xa nên gọi tôi tớ lại để giao tài sản mình cho họ. 15 Ông giao cho người này năm ta-lâng[b] bạc, người kia hai ta-lâng, người nọ một ta-lâng, mỗi người tùy theo khả năng, rồi lên đường. 16 Người đầy tớ đã nhận năm ta-lâng bạc lập tức đi kinh doanh và làm lợi được năm ta-lâng bạc nữa. 17 Người nhận hai ta-lâng bạc cũng thế, làm lợi thêm hai ta-lâng nữa. 18 Nhưng người nhận một ta-lâng bạc, đi đào đất chôn giấu ta-lâng bạc của chủ.
19 Sau đó khá lâu, chủ của các đầy tớ ấy trở về và tính sổ với họ. 20 Người đã nhận năm ta-lâng bạc đem thêm năm ta-lâng khác trình: ‘Thưa chủ, năm ta-lâng bạc chủ giao, tôi đã làm lợi thêm được năm ta-lâng nữa đây.’
21 Chủ bảo rằng: ‘Giỏi lắm, anh là đầy tớ tốt và trung tín! Anh đã trung tín trong các việc nhỏ, ta sẽ đặt anh cai quản những công việc lớn hơn, hãy vào chung vui với chủ anh.’
22 Người đã nhận hai ta-lâng bạc cũng đến trình: ‘Thưa chủ, hai ta-lâng bạc chủ giao, tôi đã làm lợi được hai ta-lâng khác đây.’
23 Chủ bảo rằng: ‘Giỏi lắm, anh là đầy tớ tốt và trung tín. Anh đã trung tín trong các việc nhỏ, ta sẽ đặt anh cai quản những công việc lớn hơn, hãy vào chung vui với chủ anh!’
24 Người đã nhận một ta-lâng bạc cũng đến trình: ‘Thưa chủ, chủ là người nghiêm nhặt, gặt chỗ mình không gieo và thu chỗ mình không rải. 25 Tôi sợ nên đi chôn giấu ta-lâng bạc của chủ dưới đất, tôi xin trả ta-lâng bạc lại chủ.’
26 Chủ trả lời: ‘Anh là đầy tớ gian ác và lười biếng! Anh biết ta gặt chỗ ta không gieo và thu chỗ ta không rải, 27 thì anh phải giao tiền bạc của ta cho ngân hàng để khi về ta sẽ thu được cả vốn lẫn lời.
28 Vậy, hãy lấy ta-lâng bạc của tên này đem cho người có mười ta-lâng. 29 Vì ai đã có, sẽ được cho thêm và sẽ có dư dật; nhưng ai không có thì ngay cả cái họ có cũng sẽ bị lấy mất. 30 Còn tên đầy tớ vô dụng này; hãy ném nó ra ngoài nơi tối tăm, ở đó sẽ có than khóc và rên xiết.’ ”
Sự Xét Xử Các Nước
31 “Khi Con Người đến trong vinh quang với tất cả thiên sứ, Ngài sẽ ngự trên ngai vinh quang. 32 Mọi dân tộc sẽ được triệu tập trước mặt Ngài; Ngài sẽ phân chia họ ra như người chăn chiên tách chiên ra khỏi dê. 33 Ngài sẽ để chiên bên phải và dê bên trái.
34 Bấy giờ vua phán với những người ở bên phải: ‘Hỡi những người được phước của Cha Ta, hãy đến thừa hưởng vương quốc đã được sắm sẵn cho các con từ khi sáng tạo thế giới. 35 Vì khi Ta đói, các con cho Ta ăn; Ta khát, các con cho uống. Khi Ta là khách lạ, các con đến thăm Ta. 36 Ta trần truồng, các con mặc cho Ta; Ta đau ốm, các con chăm sóc Ta; Ta bị tù, các con đến thăm viếng Ta.’
37 Bấy giờ những người công chính thưa: ‘Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, hay khát mà cho uống? 38 Có bao giờ chúng con thấy Chúa là khách lạ mà tiếp đãi, hoặc trần truồng mà mặc cho? 39 Hay có khi nào chúng con thấy Chúa đau ốm hay bị tù đày mà thăm viếng?’
40 Vua phán cùng họ: ‘Thật, Ta bảo cùng các con, hễ các con làm điều đó cho một trong những anh em hèn mọn nhất của Ta, tức là đã làm cho Ta vậy.’
41 Bấy giờ Ngài phán với những người ở bên trái: ‘Hỡi những kẻ bị rủa sả, hãy lui ra khỏi Ta mà vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho quỷ vương và quỷ sứ nó. 42 Vì khi Ta đói, các ngươi không cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi không cho Ta uống. 43 Ta là khách lạ, các ngươi không tiếp đãi; Ta trần truồng, các ngươi không mặc cho; Ta đau ốm, tù đày các ngươi không thăm viếng.’
44 Bấy giờ họ đáp: ‘Lạy Chúa, chúng con có bao giờ thấy Ngài đói khát hay là khách lạ, trần truồng, đau ốm hay tù tội mà không chăm sóc đâu?’
45 Vua bèn phán với họ: ‘Thật, Ta bảo cùng các ngươi, hễ các ngươi không làm điều đó cho một trong những người hèn mọn nhất này, tức là không làm cho Ta.’
46 Vậy, những kẻ này sẽ đi vào hình phạt đời đời còn những người công chính đi vào sự sống vĩnh phúc.”
Ê-xơ-tê Được Chọn Làm Hoàng Hậu
2 Cách ít lâu, khi vua A-suê-ru đã nguôi giận, vua nhớ đến Vả-thi, hành động của bà, và sắc lệnh ký truất bỏ bà. 2 Các cận thần hầu vua đề nghị: “Xin bệ hạ truyền lệnh tìm cho bệ hạ những trinh nữ trẻ đẹp. 3 Xin bệ hạ chỉ định những viên chức trong khắp các tỉnh của đế quốc lo tập họp những trinh nữ trẻ đẹp về hậu cung tại thành nội Su-san, giao cho Hê-gai, quan thái giám của vua, là quan canh giữ các cung nữ, coi sóc. Xin bệ hạ truyền phân phối mỹ phẩm cho các cô ấy. 4 Rồi cô nào đẹp lòng vua sẽ làm hoàng hậu thay cho Vả-thi.” Lời đề nghị này đẹp ý vua. Vua ra lệnh thi hành y như lời.
5 Tại thành nội Su-san có một người Do Thái tên Mạc-đô-chê, con trai Giai-rơ, cháu Si-mê-i, chắt của Kích, thuộc bộ tộc Bên-gia-min. 6 Kích bị Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt đi lưu đày từ Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn người lưu đày, cùng lúc với Giê-cô-nia, vua Giu-đa. 7 Mạc-đô-chê có nuôi dưỡng Ha-đa-sa, cũng gọi là Ê-xơ-tê, con gái của chú mình, vì Ê-xơ-tê mồ côi cha mẹ. Thiếu nữ này dáng người đẹp đẽ, nét mặt xinh tươi. Khi cha mẹ Ê-xơ-tê qua đời, Mạc-đô-chê nhận cô làm con.
8 Khi sắc lệnh vua ban hành, nhiều trinh nữ được đưa về thành nội Su-san, giao cho Hê-gai coi sóc. Ê-xơ-tê cũng bị đưa về hoàng cung giao cho Hê-gai, quan canh giữ các cung nữ. 9 Thiếu nữ này đẹp lòng Hê-gai. Cô chiếm được cảm tình của ông, nên ông vội vàng cung cấp mỹ phẩm và phần ăn cho cô. Ông cũng phân cho cô bảy nữ tỳ chọn lọc từ hoàng cung, rồi dời cô và các nữ tỳ về nơi tốt nhất trong hậu cung.
10 Ê-xơ-tê không tiết lộ cho ai biết về dân tộc và dòng dõi cô, vì Mạc-đô-chê đã căn dặn cô đừng tiết lộ gì cả. 11 Ngày nào Mạc-đô-chê cũng lảng vảng trước sân hậu cung để dò thăm sức khỏe Ê-xơ-tê và việc gì xảy ra cho cô.
12 Các thiếu nữ lần lượt theo phiên mình đến với vua A-suê-ru, sau khi hoàn tất chế độ mười hai tháng ấn định cho phụ nữ, vì đó là thời gian trau dồi sắc đẹp cho các cô: sáu tháng với dầu một dược, và sáu tháng với các hương liệu và mỹ phẩm của phụ nữ. 13 Đây là cách thức thiếu nữ đến cùng vua: bất cứ điều gì cô xin đều ban cho cô để mang theo từ cung phi tần đến cung điện vua. 14 Buổi tối cô đến với vua, và sáng hôm sau, cô trở về hậu cung thứ nhì, dưới quyền quản đốc của Sa-ách-ga, quan thái giám của vua, quan canh giữ các cung phi. Cô không bao giờ vào cùng vua nữa, trừ trường hợp vua ưa thích cô và cho gọi đích danh.
15 Đến phiên Ê-xơ-tê (con gái A-bi-ha-đin, cháu mà Mạc-đô-chê đã nhận làm con) vào cùng vua, cô không xin chi hết ngoại trừ những gì thái giám Hê-gai, quan canh giữ các cung nữ, khuyên cô mang theo. Tuy nhiên mọi người thấy Ê-xơ-tê đều trầm trồ ca ngợi. 16 Ê-xơ-tê được đưa vào cung cùng vua A-suê-ru, trong hoàng cung, vào tháng mười, tức tháng Tê-bết,[a] năm thứ bảy triều vua. 17 Vua yêu thương Ê-xơ-tê hơn tất cả các phụ nữ khác. Cô chiếm được tình cảm và sự sủng ái của vua hơn tất cả các trinh nữ khác. Vua đội vương miện lên đầu cô và lập cô làm hoàng hậu thay cho Vả-thi. 18 Vua mở yến tiệc linh đình thết đãi tất cả các thượng quan và triều thần, gọi là “Tiệc của Ê-xơ-tê.” Vua công bố ngày lễ nghỉ[b] trong các tỉnh và ban phát tặng phẩm rộng rãi, xứng hiệp với tư cách nhà vua.
Mạc-đô-chê Cứu Mạng Sống Vua
19 Tóm lại,[c] từ khi người ta tập họp các trinh nữ, và Mạc-đô-chê trở thành một quan chức trong triều đình,[d] 20 Ê-xơ-tê vẫn không hề tiết lộ cho ai biết về dòng dõi hoặc dân tộc của cô, y như Mạc-đô-chê căn dặn. Ê-xơ-tê vẫn vâng lời Mạc-đô-chê y như lúc cô còn dưới quyền giám hộ của ông.
21 Vào thời ấy, khi Mạc-đô-chê làm việc tại triều đình, Bích-than và Thê-rết, hai thái giám của vua, thuộc đội vệ binh canh gác ngưỡng cửa,[e] oán giận vua A-suê-ru và mưu đồ ám hại vua. 22 Biết được tin này, Mạc-đô-chê báo cho hoàng hậu Ê-xơ-tê, và Ê-xơ-tê lấy danh nghĩa của Mạc-đô-chê tâu lên vua. 23 Sau khi điều tra và thấy đúng như vậy, cả hai thái giám đều bị treo cổ. Biến cố này được ghi vào sách Sử Biên Niên, theo lệnh vua.
Phao-lô Khiếu Nại Lên Hoàng Đế La Mã
25 Sau khi nhậm chức được ba ngày, thống đốc Phê-tu rời Sê-sa-rê lên Giê-ru-sa-lem. 2 Các thượng tế và các nhà lãnh đạo Do Thái buộc tội Phao-lô, và xin thống đốc đặc ân 3 cho giải ông về Giê-ru-sa-lem (vì họ định phục kích giết ông dọc đường). 4 Vì thế, Phê-tu đáp: “Phao-lô đang bị giam giữ tại Sê-sa-rê và chính ta cũng sắp về đó. 5 Vậy một vài bậc lãnh đạo trong vòng các ông hãy theo ta xuống đó, nếu đương sự có tội gì thì cứ việc tố cáo!”
6 Phê-tu lưu lại với họ tám hoặc mười ngày, rồi xuống Sê-sa-rê. Hôm sau thống đốc ra tòa, truyền lệnh giải Phao-lô đến. 7 Phao-lô vừa vào tòa án, những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem xuống liền vây quanh tố cáo ông nhiều tội nặng nhưng không nêu được bằng chứng.
8 Phao-lô tự biện hộ: “Tôi chẳng phạm tội gì trái luật Do Thái, hoặc xúc phạm đền thờ, hoặc chống nghịch hoàng đế La Mã bao giờ.”
9 Nhưng Phê-tu muốn được lòng dân Do Thái, nên hỏi Phao-lô: “Anh có muốn lên Giê-ru-sa-lem cho ta xét xử việc này không?” 10 Phao-lô đáp: “Tôi đang ứng hầu trước tòa án Hoàng Đế là nơi tôi phải được xét xử. Tôi chẳng phạm tội gì với người Do Thái, chính ngài thống đốc thừa biết như thế. 11 Vậy nếu tôi phạm pháp hoặc làm gì đáng bị tử hình thì tôi không xin tha chết đâu! Nhưng nếu họ tố cáo tôi vô bằng cớ thì không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi khiếu nại lên Hoàng Đế!” 12 Phê-tu thảo luận với các cố vấn rồi đáp: “Anh đã khiếu nại lên Hoàng Đế thì sẽ được ứng hầu Hoàng Đế!”
Phê-tu Và Vua Ạc-ríp-ba
13 Mấy ngày sau vua Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít đến Sê-sa-rê chào Phê-tu. 14 Hai người lưu lại đây nhiều ngày; Phê-tu đem vụ Phao-lô trình bày với vua: “Phê-lít có để lại một tù nhân. 15 Khi tôi ở Giê-ru-sa-lem các thượng tế và các trưởng lão Do Thái buộc tội nó và yêu cầu tôi kết án.
16 Tôi đáp rằng theo thông lệ La Mã, không thể nào giải nạp một bị cáo khi chưa có dịp đối chất với nguyên cáo để tự bào chữa. 17 Khi họ họp tại đây, tôi triệu tập phiên tòa ngay hôm sau, không trì hoãn và truyền giải đương sự đến. 18 Các nguyên cáo đứng trước tòa chẳng tố cáo đương sự về tội ác nào như tôi tưởng, 19 nhưng chỉ tranh chấp với đương sự về những vấn đề trong tôn giáo của họ và về một người tên Giê-su đã chết nhưng Phao-lô quả quyết vẫn còn sống. 20 Tôi thật khó hiểu cuộc tranh luận này nên hỏi Phao-lô có muốn lên Giê-ru-sa-lem để hầu tòa về vụ này không. 21 Khi Phao-lô khiếu nại xin trình lên Hoàng Đế phán quyết, thì tôi ra lệnh cứ giam giữ đương sự cho đến ngày giải nạp đương sự lên Hoàng Đế.”
22 Ạc-ríp-ba bảo Phê-tu: “Chính ta cũng muốn nghe người ấy nói!” Phê-tu thưa: “Ngày mai, bệ hạ sẽ nghe!”
23 Hôm sau, Ạc-ríp-ba và bà Bê-rê-nít ngự vào công đường với nghi lễ long trọng cùng các quan cao cấp và các nhà lãnh đạo trong thành phố. Phê-tu ra lệnh điệu Phao-lô đến, 24 rồi ngỏ lời: “Tâu bệ hạ và tất cả quý vị quan khách, Người này đã bị toàn dân Do Thái xin tôi kết án, tại Giê-ru-sa-lem cũng như tại Sê-sa-rê đây. Họ nói rằng đương sự không đáng sống nữa. 25 Tôi thấy đương sự chẳng phạm tội gì đáng xử tử cả, nhưng vì đương sự khiếu nại lên Hoàng Đế La Mã nên tôi quyết định giải đương sự đến Rô-ma. 26 Tuy nhiên, tôi chưa có lý do gì cụ thể để viết sớ tâu trình hoàng đế. Vì thế, tôi cho điệu đương sự đến hầu quý vị, nhất là bệ hạ, tâu vua Ạc-ríp-ba, để nhờ cuộc điều tra này mà tôi có tài liệu viết sớ. 27 Thiết tưởng giải nạp một tù nhân mà không định rõ tội trạng thật là phi lý!”
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)