Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Chronological

Read the Bible in the chronological order in which its stories and events occurred.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Ê-sai 59-63

Tội Lỗi Tạo Nên Chia Cách

59 Này, tay Chúa không phải ngắn mà không cứu được;
Tai Ngài cũng không phải nặng mà không nghe được,
Nhưng ấy là vì tội lỗi các ngươi đã làm cách biệt các ngươi với Ðức Chúa Trời;
Những tội lỗi các ngươi đã làm Ngài lánh mặt, để Ngài không nghe các ngươi nữa;
Bởi bàn tay các ngươi đã ô nhơ vì nhuốm máu;
Ngón tay các ngươi đã vấy đầy tội ác;
Môi các ngươi nói dối;
Lưỡi các ngươi thốt ra điều gian tà.

Chẳng ai muốn thưa kiện để đòi công lý,
Cũng không ai xét xử để tìm ra sự thật.
Chúng tin cậy vào những lời hứa suông;
Chúng nói với nhau những lời giả dối;
Chúng cưu mang điều ác và sinh ra tội lỗi.
Chúng ấp trứng rắn độc;
Chúng giăng mạng nhện;
Ai ăn nhằm trứng của chúng ắt sẽ chết ngay;
Nếu trứng ấy nở ra sẽ đích thị là một con rắn độc.

Tơ sợi của mạng nhện không thể dệt thành quần áo;
Những việc chúng làm cũng không thể che thân;
Những việc của chúng là những việc tội lỗi;
Những việc hung ác bạo tàn ở trong tay chúng.
Chân chúng nhanh nhẹn chạy theo điều ác;
Chúng lẹ làng làm đổ máu vô tội;
Suy nghĩ của chúng là những ý tưởng gian tà;
Ðường chúng đi qua để lại hủy phá và điêu linh.
Ðường đem lại bình an thịnh vượng chúng không hề biết đến;
Ðường chúng đi không có bóng dáng công lý nơi nào;
Chúng đã tạo cho mình những con đường lươn lẹo cong queo;
Ai chọn đi các đường ấy sẽ không biết bình an thịnh vượng.

Xưng Tội

Vì thế công lý đã xa cách chúng con;
Lẽ công chính không đến gần chúng con;
Chúng con trông mong ánh sáng, nhưng này đây, chỉ có tối tăm!
Mong ánh sáng rạng ngời, nhưng vẫn đi trong tối tăm mù mịt!
10 Chúng con mò mẫm mon men theo bức tường như người mù;
Chúng con quờ quạng bước đi như kẻ không có mắt;
Giữa trưa nắng mà chúng con vấp ngã như đi khi trời chạng vạng;
Giữa những người đang năng động mà chúng con như kẻ đã chết rồi.
11 Tất cả chúng con cứ gầm gừ như đàn gấu,
Cứ rên rỉ thê lương như thể các bồ câu gù;
Chúng con mong công lý nhưng vẫn không tìm thấy;
Mong được giải cứu nhưng điều ấy quá xa vời.
12 Vì những vi phạm chúng con quá nhiều trước mặt Ngài;
Các tội lỗi chúng con làm chứng nghịch lại chúng con,
Vì các vi phạm chúng con hằng ở với chúng con,
Chúng con biết rõ các tội lỗi của mình:
13 Chúng con dấy nghịch và chối bỏ Chúa,
Xây lưng lìa bỏ Ðức Chúa Trời mình,
Nói điều phản nghịch và nổi loạn,
Toan tính trong lòng rồi thốt ra những lời dối trá.

14 Công lý bị đẩy lui;
Công chính đứng đằng xa;
Sự thật bị ngã nhào ngoài đường;
Chính trực không được vào.
15 Vì sự thật không còn nên ai lìa bỏ thói gian tà là tự biến thành con mồi.
Chúa thấy điều ấy và Ngài rất phật lòng, bởi vì công lý chẳng còn nữa.
16 Ngài thấy rằng chẳng ai phản đối,
Và lấy làm lạ vì không ai can thiệp.
Vì vậy Ngài phải tự tay giải cứu lấy mình,
Ngài dùng đức công chính của Ngài bảo vệ mình.
17 Ngài lấy đức công chính mang vào làm áo giáp,
Lấy ơn cứu rỗi đội trên đầu làm mão an toàn,
Lấy sự báo trả mặc vào làm quần áo,
Lấy lòng nhiệt thành khoác lên làm áo choàng.
18 Ngài cứ dựa theo các công việc của chúng mà báo trả,
Trút thịnh nộ trên những kẻ chống nghịch Ngài;
Ngài báo trả những kẻ thù của Ngài;
Kể cả những kẻ sống ở hải ngoại xa xăm cũng nhận sự báo trả đầy đủ.
19 Vì thế ở phương tây danh Chúa được người ta kính sợ;
Ở phương đông vinh hiển Ngài thật rực rỡ rạng ngời,
Vì Ngài sẽ đến như nước lụt bất thần tràn tới,
Do Thần Khí của Chúa tác động ập vào.[a]
20 “Ðấng Cứu Chuộc sẽ đến với Si-ôn,
Và đến với những ai trong nhà Gia-cốp lìa bỏ tội lỗi mình,”
Chúa phán.

21 Chúa phán, “Về phần Ta, đây là giao ước giữa Ta với chúng: Thần Ta ngự trên ngươi. Những lời Ta đã đặt trong miệng ngươi sẽ không rời khỏi miệng ngươi, hay rời khỏi miệng của con cháu ngươi, hay rời khỏi miệng của con cháu của con cháu ngươi, từ nay cho đến đời đời,” Chúa phán.

Tương Lai Rực Rỡ của Giê-ru-sa-lem

60 “Hãy vùng dậy!
Hãy bừng sáng lên!
Vì ánh sáng của ngươi đã đến!
Vinh quang của Chúa đang tỏa rạng trên ngươi.
Vì kìa, bóng tối sẽ bao trùm mặt đất;
Một màn đen bao phủ muôn dân,
Nhưng Chúa sẽ tỏa sáng trên ngươi,
Và vinh quang Ngài sẽ xuất hiện trên ngươi.
Muôn dân sẽ đến với ánh sáng của ngươi;
Các vua sẽ hướng về ánh sáng từ ngươi tỏa rạng.

Hãy ngước mắt lên và nhìn quanh ngươi:
Chúng thảy đều tụ họp lại;
Chúng kéo đến với ngươi.
Các con trai ngươi sẽ từ phương xa trở về;
Các con gái ngươi sẽ được bồng ẵm bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ thấy và mặt ngươi rạng rỡ;
Lòng dạ ngươi sẽ rộn rã vui mừng,
Vì tài nguyên vô ngần của biển cả sẽ đổ dồn về cho ngươi;
Sự giàu có của muôn dân sẽ đến với ngươi.
Vô số lạc đà sẽ tràn khắp đất nước ngươi;
Nào các lạc đà tơ của xứ Mi-đi-an và xứ Ê-pha;
Tất cả những người từ xứ Sê-ba sẽ đem vàng và trầm hương đến;
Họ sẽ công bố tin mừng qua lời ca ngợi Chúa.
Tất cả các bầy súc vật của xứ Kê-đa sẽ được nhóm lại để dẫn đến ngươi;
Những chiên đực của xứ Nê-ba-giốt sẽ được ngươi dùng làm con vật hiến tế;
Chúng sẽ được chấp nhận để dâng trên bàn thờ Ta;
Ta sẽ làm tăng vinh hiển của nhà vinh hiển Ta.

Những người ấy là ai mà như một đám mây cùng bay về một hướng,
Giống như các bồ câu cùng bay về chuồng của mình?
Chắc chắn những kẻ sống ở hải ngoại sẽ trông chờ Ta;
Ðoàn tàu từ Tạt-si đến trước,
Chở các con cái ngươi từ phương xa trở về,
Mang theo bạc và vàng với chúng,
Ðể tôn vinh danh Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi,
Cùng tôn vinh Ðấng Thánh của I-sơ-ra-ên,
Bởi vì Ngài đã làm cho ngươi được vinh hiển.
10 Con cái của các dân ngoại sẽ xây dựng lại các tường thành ngươi;
Các vua chúng sẽ phục vụ ngươi;
Vì trong cơn thịnh nộ Ta đã đánh phạt ngươi,
Nhưng bởi đặc ân Ta đã tỏ lòng thương xót với ngươi.
11 Vì vậy các cổng của ngươi sẽ luôn luôn mở rộng,
Ngày lẫn đêm không đóng lại bao giờ,
Ðể người ta có thể mang những của cải của các dân đến cho ngươi,
Và các vua chúng sẽ dẫn đầu từng phái đoàn một.
12 Vì dân nào hoặc nước nào không thần phục ngươi sẽ bị tiêu diệt;
Các dân ấy sẽ bị hủy diệt hoàn toàn.

13 Vinh hiển của Li-băng sẽ đến với ngươi;
Cây tùng, cây thông, và cây hoàng dương đều sẽ được dùng để xây cất thánh điện Ta cho đẹp đẽ;
Ta sẽ làm cho nơi Ta đặt chân được vinh hiển rạng ngời.
14 Rồi con cái của những kẻ đã gây cho ngươi đau khổ sẽ khúm núm đến cúi đầu trước mặt ngươi;
Tất cả những kẻ khinh bỉ ngươi sẽ đến phủ phục nơi chân ngươi;
Chúng sẽ gọi ngươi là ‘Thành của Chúa,’
Là ‘Si-ôn, thành của Ðấng Thánh của I-sơ-ra-ên.’
15 Nơi đây ngươi đã từng bị bỏ rơi và chán ghét, đến độ không ai còn muốn ghé qua ngươi;
Ta sẽ làm cho ngươi nên huy hoàng mãi mãi,
Thành nguồn vui cho những thế hệ về sau.
16 Những gì ngon bổ nhất của muôn dân ngươi sẽ hưởng;
Những gì cao lương mỹ vị của các vua ngươi sẽ dùng;
Bấy giờ ngươi sẽ biết rằng Ta, Chúa, chính là Ðấng Giải Cứu ngươi,
Và Ðấng Cứu Chuộc ngươi, cũng là Ðấng Quyền Năng của Gia-cốp.

17 Thay vì đồng, Ta sẽ đem vàng đến;
Thay vì sắt, Ta sẽ đem bạc về;
Thay vì gỗ, sẽ là đồng;
Thay vì đá, sẽ là sắt.
Ta sẽ ban cho ngành hành pháp của ngươi sự hòa bình,
Ban cho ngành tư pháp của ngươi sự công chính.
18 Trong xứ của ngươi sẽ không còn nghe nói đến bạo lực;
Trong bờ cõi của ngươi sẽ không còn hoang phế và điêu tàn;
Nhưng ngươi sẽ gọi các tường thành của ngươi là Cứu Rỗi,
Các cổng thành ngươi sẽ được gọi là Ngợi Ca.

Chúa Là Vinh Quang của Si-ôn

19 Mặt trời sẽ không còn là nguồn sáng cho ngươi ban ngày;
Ánh trăng sẽ không còn là ánh sáng cho ngươi ban đêm;
Nhưng chính Chúa sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi;
Ðức Chúa Trời của ngươi sẽ là vinh quang của ngươi.
20 Mặt trời của ngươi sẽ không bao giờ lặn nữa;
Mặt trăng của ngươi cũng sẽ chẳng hề tàn,
Vì chính Chúa sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi;
Những ngày than khóc của ngươi sẽ chấm dứt.
21 Tất cả dân ngươi sẽ trở thành những người công chính;
Chúng sẽ làm chủ đất nước này đến muôn đời.
Chúng là những chồi non do Ta trồng lấy;
Chúng chính là công việc của tay Ta,
Ðể qua chúng chính Ta được vinh hiển.
22 Kẻ nhỏ nhất của chúng sẽ có hàng ngàn con cháu,
Người bị xem là hèn yếu nhất sẽ phát triển thành một dân tộc hùng cường;
Ta là Chúa,
Ðến thời điểm của nó,
Ta sẽ nhanh chóng thực hiện điều ấy.”

Tin Mừng Ðược Giải Thoát

61 Thần của Chúa Hằng Hữu ngự trên tôi,
Chúa đã xức dầu cho tôi,
Ðể tôi rao báo tin mừng cho người nghèo;
Ngài sai tôi rịt lành những tấm lòng tan vỡ,
Ðể công bố lệnh ân xá cho những người bị lưu đày,
Rao lịnh phóng thích cho những người bị giam trong ngục tối,
Ðể công bố năm hồng ân của CHÚA
Và ngày báo trả của Ðức Chúa Trời chúng ta,
Ðể an ủi mọi kẻ khóc than,
Ðể ban cho những ai than khóc ở Si-ôn:
Mão hoa thay cho tro bụi,
Dầu vui mừng thay cho tiếng khóc than,
Áo ngợi ca thay cho tâm hồn sầu thảm.
Họ sẽ được gọi là những cây sồi công chính,
Ðược Chúa trồng để bày tỏ vinh hiển của Ngài.

Họ sẽ xây lại những tàn tích cổ xưa;
Họ sẽ cất lại những nơi tiêu điều ngày trước;
Họ sẽ dựng lại những thành quách đổ nát điêu tàn,
Tức những nơi đã bị hoang phế trải qua bao thế hệ.

“Các kiều dân sẽ đứng chăn bầy cho các ngươi,
Người ngoại quốc sẽ làm ruộng và trồng tỉa trong các vườn nho cho các ngươi.
Các ngươi sẽ được gọi là những tư tế của Chúa,
Các ngươi sẽ được xưng là những người hầu việc Ðức Chúa Trời chúng ta.
Vinh hoa phú quý muôn dân các ngươi sẽ hưởng;
Của cải giàu sang các nước các ngươi sẽ dùng.
Thay vì hổ thẹn dân Ta sẽ nhận phước gấp đôi;
Thay vì tủi nhục chúng sẽ vui mừng hưởng nhận phần của mình.[b]
Như vậy chúng sẽ hưởng gấp đôi phần được chia trong xứ;
Niềm vui đời đời sẽ ở với chúng luôn luôn.

Vì Ta là Chúa, Ta yêu công lý,
Ta ghét cướp bóc và tội lỗi;[c]
Ta sẽ ban thưởng cho chúng theo đức thành tín của Ta,
Và Ta sẽ lập một giao ước đời đời với chúng.
Dòng dõi chúng sẽ nổi tiếng giữa các dân;
Con cháu chúng sẽ vang danh trong các nước;
Tất cả những ai thấy chúng đều sẽ biết rằng,
Chúng là một dòng dõi đã được Chúa ban phước.”

10 Tôi sẽ hết sức vui mừng trong Chúa;
Linh hồn tôi sẽ quá đỗi sung sướng trong Ðức Chúa Trời mình;
Vì Ngài đã mặc cho tôi bộ y phục cứu rỗi,
Rồi Ngài khoác trên tôi chiếc áo choàng công chính,
Như chàng rể bảnh bao với áo quần thanh lịch,
Như cô dâu lộng lẫy với nhiều thứ nữ trang.
11 Vì như đất làm đâm chồi nẩy lộc,
Và như vườn cho nở hạt sinh mầm thể nào,
Chúa Hằng Hữu cũng sẽ làm cho đức công chính và sự ca ngợi trỗi lên trước mặt muôn dân thể ấy.

Ơn Cứu Rỗi Sẽ Ðến Với Si-ôn

62 “Vì cớ Si-ôn Ta sẽ không nín lặng;
Vì cớ Giê-ru-sa-lem Ta sẽ chẳng lặng yên,
Cho đến khi đức công chính của nàng rực rỡ tựa bình minh,
Và ơn cứu rỗi dành cho nàng như ngọn đèn ngời sáng.

Bấy giờ muôn dân sẽ nhìn thấy đức công chính của ngươi;
Các vua sẽ chiêm ngưỡng vinh hiển của ngươi.
Ngươi sẽ được gọi bằng một danh xưng mới,
Do chính miệng Chúa đặt cho ngươi.
Ngươi sẽ là một mão miện huy hoàng trong bàn tay Chúa,
Một vương miện trong tay Ðức Chúa Trời mình.
Ngươi sẽ không bị ai gọi là ‘Ðồ bỏ,’
Xứ của ngươi sẽ không bị gọi là ‘Xứ bỏ hoang’;
Thay vào đó họ sẽ gọi ngươi là ‘Người nữ được Ta yêu,’
Xứ của ngươi sẽ được gọi là ‘Xứ được kết hôn.’
Chúa yêu mến ngươi,
Và xứ của ngươi sẽ được kết hôn.
Vì như một thanh niên kết hôn với một trinh nữ thể nào,
Ðấng dựng nên ngươi sẽ cưới ngươi thể ấy;
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể thể nào,
Chính ngươi sẽ là niềm vui cho Ðức Chúa Trời của ngươi thể ấy.

Hỡi Giê-ru-sa-lem, Ta đã đặt những người canh gác trên tường thành ngươi;
Những người ấy sẽ ngày đêm không nín lặng.”

Hỡi anh chị em là những người có phận sự kêu cầu với Chúa,
Xin anh chị em đừng bao giờ nín lặng;
Xin đừng để Ngài nghỉ ngơi chút nào,
Cho đến khi Ngài thiết lập xong,
Cho đến khi Ngài làm cho Giê-ru-sa-lem thành cớ ca tụng khắp nơi trên đất.

Chúa đã đưa tay phải Ngài lên,
Tức cánh tay quyền năng của Ngài lên mà thề rằng,
“Chắc chắn Ta sẽ không để cho lúa gạo của ngươi trở thành thực phẩm cho quân thù của ngươi;
Con cái của các dân ngoại sẽ không được uống rượu mới của ngươi,
Tức rượu mà ngươi đã vất vả làm ra.
Nhưng kẻ gặt lúa sẽ được ăn lúa gạo của mình, và ca ngợi Chúa;
Còn những kẻ hái nho sẽ được uống rượu nho trong sân đền thánh của Ta.”

10 Hãy đi qua,
Hãy đi qua các cổng thành.
Hãy chuẩn bị con đường cho dân.
Hãy xây dựng,
Hãy xây dựng một đại lộ;
Hãy nhặt hết những sỏi đá.
Hãy giương lên một ngọn cờ để muôn dân đều biết.

11 Này, Chúa đã công bố đến tận cùng trái đất:
Hãy nói với Ái Nữ của Si-ôn:
Kìa, ngày giải cứu của ngươi đến.
Kìa, Ngài đem phần thưởng theo với Ngài,
Và vật ban thưởng của Ngài đi trước Ngài.
12 Người ta sẽ gọi họ là “Dân Thánh,” “Những Người Ðược Chúa Cứu Chuộc;”
Ngươi sẽ được gọi là “Ðối Tượng Ðược Nhiều Người Ðeo Ðuổi,” “Thành Không Bị Bỏ Rơi.”

Ê-đôm Bị Báo Trả

63 Ai đang từ Ê-đôm đi đến, mà y phục của mình đã nhuộm đỏ tại Bốt-ra?
Ai đã mặc y phục thật huy hoàng rực rỡ, và bước đi với quyền phép lớn lao?

“Ấy chính là Ta,
Ðấng nói điều công chính,
Ðấng giải cứu quyền năng.”

Thưa, tại sao y phục của Ngài lại mang màu đỏ thắm?
Sao áo quần của Ngài giống như áo quần của người đạp bồn nho?

“Một mình Ta đã đạp bồn nho ấy;
Trong muôn dân chẳng ai đạp với Ta;
Ta đã đạp chúng trong khi Ta nóng giận;
Ta đã giẫm nát chúng trong cơn thịnh nộ của Ta;
Máu chúng đã văng lên quần áo Ta;
Toàn bộ y phục của Ta đã bị vấy đầy máu chúng.
Vì đã đến ngày báo trả mà lòng Ta đã quyết;
Năm cứu chuộc của Ta nay đã đến rồi.
Ta nhìn quanh nhưng chẳng thấy ai muốn giúp;
Ta ngỡ ngàng khi không một kẻ phụ tay;
Vì thế Ta phải tự tay giải cứu lấy mình,
Cơn giận của Ta đã bảo vệ Ta.
Ta đã giày đạp muôn dân trong cơn giận,
Bắt chúng phải uống chén thịnh nộ của Ta,
Và làm chúng phải đổ máu khắp nơi trên đất.”

Nhớ Lại Ơn Thương Xót của CHÚA

Tôi xin nhắc lại tình thương của Chúa,
Cùng dâng lời ca ngợi Chúa,
Vì mọi điều mà Chúa đã ban cho chúng tôi,
Vì lòng tốt lớn lao của Ngài đối với nhà I-sơ-ra-ên,
Mà Ngài đã ban cho họ theo ơn thương xót của Ngài,
Và theo tình thương vô lượng của Ngài,
Vì Ngài đã phán,
“Chắc chắn chúng là dân Ta,
Những đứa con không lừa dối của Ta.”
Vì thế Ngài đã trở thành Ðấng Giải Cứu của họ.
Trong mọi đau khổ của họ, Ngài đã chịu đau khổ với họ,
Thiên sứ ở trước mặt Ngài đã cứu họ;[d]
Vì tình thương và lòng thương xót của Ngài, Ngài đã cứu chuộc họ;
Ngài đã nhấc họ lên và bồng ẵm họ suốt những ngày xa xưa.
10 Nhưng họ đã nổi loạn và làm buồn Ðức Thánh Linh của Ngài,
Nên Ngài đã trở thành kẻ thù của họ,
Và Ngài đã chiến đấu chống lại họ.

11 Bấy giờ dân Ngài mới nhớ lại những ngày xa xưa;
Họ nhớ đến Môi-se và đoàn dân theo ông ấy ra đi.
Ðâu rồi Ðấng đã đem họ lên khỏi lòng biển cả,
Dùng những người chăn dẫn dắt bầy của Ngài?
Ðâu rồi Ðấng đã đặt Thần Ngài giữa vòng họ,
12 Dùng tay phải của Môi-se để dẫn dắt họ ra đi?
Bằng cánh tay vinh hiển của mình, Ngài rẽ nước ra trước mặt họ,
Tạo cho Ngài một danh tiếng đời đời.
13 Ðâu rồi Ðấng đã dẫn họ vượt qua các vực thẳm?
Như ngựa phi vùn vụt giữa đồng hoang, họ đã không vấp ngã.
14 Như đàn súc vật khoan thai đi vào thung lũng,
Thần của Chúa đã cho họ được nghỉ ngơi.

Vậy Ngài đã dẫn dắt dân của Ngài như thế,
Khiến danh Ngài được vinh hiển lẫy lừng.

Lời Cầu Nguyện Ăn Năn

15 Xin Chúa từ trời nhìn xuống và xem,
Tức từ nơi ngự thánh và vinh hiển của Ngài;
Lòng nhiệt thành của Ngài và quyền năng của Ngài,
Sự thúc giục trong lòng Ngài và ơn thương xót của Ngài dành cho con đâu rồi?
Chẳng lẽ chúng đã bị kiềm hãm rồi sao?
16 Vì chính Ngài là Cha chúng con.
Dù cho Áp-ra-ham không còn biết đến chúng con,
Và dù cho I-sơ-ra-ên không còn nhìn nhận chúng con nữa,
Thì Chúa ôi, Ngài vẫn là Cha chúng con, Ðấng Cứu Chuộc chúng con.
Đó là danh Ngài từ muôn đời về trước.
17 Lạy Chúa, sao Ngài nỡ để chúng con xa lạc đường lối Ngài?
Sao Ngài để cho lòng chúng con ra chai đá mà không kính sợ Ngài?
Nay vì cớ các tôi tớ Ngài, các chi tộc làm cơ nghiệp Ngài, cầu xin Ngài quay trở lại.
18 Dân thánh của Ngài chiếm ngụ nơi này chưa được bao lâu,
Thì kẻ thù của chúng con đã đến giày đạp nơi thánh Ngài.
19 Chúng con đã trở thành những kẻ như thời xa xưa, khi chưa được Ngài trị vì,
Thời chúng con chưa được mang lấy danh Ngài.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang