Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Book of Common Prayer

Daily Old and New Testament readings based on the Book of Common Prayer.
Duration: 861 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Thánh Thi 137

Lòng Buồn Thảm của Những Người Bị Lưu Ðày

Chúng tôi ngồi bên bờ sông ở Ba-by-lôn;
Chúng tôi nhớ đến Si-ôn và khóc.
Chúng tôi treo cây đàn của mình trên cành liễu bên sông,
Vì những kẻ đem chúng tôi lưu đày bắt chúng tôi phải hát;
Những kẻ hành hạ chúng tôi bắt chúng tôi phải ca;
Chúng bảo, “Hãy hát cho chúng tôi nghe những bài ca của Si-ôn.”
Nơi đất khách quê người,
Làm sao chúng tôi có thể hát được bài ca tôn ngợi Chúa?

Hỡi Giê-ru-sa-lem, nếu ta quên ngươi,
Nguyện tay phải ta quên tài năng của nó.
Nếu ta không còn nhớ đến ngươi,
Nếu ta không thích Giê-ru-sa-lem hơn điều gì vui nhất của ta,
Nguyện lưỡi ta dính cứng vào hốc miệng ta.

Chúa ôi, xin nhớ lại những lời dân Ê-đôm đã nói trong ngày Giê-ru-sa-lem bị thất thủ,
Chúng bảo, “Hãy phá hủy nó. Hãy san bằng nó thành bình địa.”
Hỡi con gái của Ba-by-lôn, kẻ sẽ bị tiêu diệt,
Phước cho người nào báo trả ngươi, về những đau khổ ngươi gây cho chúng ta.
Phước cho người nào bắt các con thơ của ngươi,
Và đập chúng vào các gành đá!

Thánh Thi 144

Xin Chúa Cứu và Ban Phước

Thơ của Ða-vít

Chúc tụng Chúa, Vầng Ðá của con,
Ðấng dạy tay con đánh trận và ngón tay con chiến đấu.
Ngài là Ðấng yêu thương và đồn lũy của con;
Ngài là thành trì và Ðấng Giải Cứu của con;
Ngài là thuẫn khiên của con và Đấng con nương náu;
Ngài đã bắt các dân[a] phải phục tùng dưới quyền con.

Chúa ôi, loài người là gì mà Ngài quan tâm đến?
Con của loài người là chi mà Ngài phải bận lòng?
Loài người mong manh như hơi thở;
Ðời người qua nhanh như chiếc bóng thoáng qua.

Chúa ôi, xin nghiêng các tầng trời và ngự xuống;
Xin đụng các núi non để chúng bốc khói mịt mù.
Xin ban chớp nhoáng ra, khiến quân thù chạy tán loạn;
Xin phát sấm sét ra, làm cho chúng tiêu tan.
Từ trời cao xin tay Ngài vói xuống,
Cứu vớt con và giải thoát con khỏi các dòng nước mạnh,
Tức khỏi tay các dân ngoại,[b]
Những kẻ có miệng chuyên nói dối,
Tay phải chúng là tay phải dối lừa.

Ðức Chúa Trời ôi, con sẽ hát dâng Ngài một bài ca mới;
Hòa với nhạc khí bằng dây,[c] con sẽ hát tôn ngợi Ngài,
10 Hầu dâng lên Ðấng ban chiến thắng[d] cho các vua,
Ðấng giải cứu Ða-vít tôi tớ Ngài khỏi lưỡi gươm ác nghiệt.
11 Xin giải cứu con và giải thoát con khỏi tay các dân ngoại,
Những kẻ có miệng chuyên nói dối,
Tay phải chúng là tay phải dối lừa.

12 Nguyện các con trai chúng con dũng mãnh trong tuổi thanh xuân như những cây xanh mạnh mẽ;
Nguyện các con gái chúng con xinh đẹp tựa những tảng đá góc chạm khắc tuyệt mỹ trong cung đình.

13 Nguyện các kho của chúng con đầy tràn mọi lương thực;
Nguyện các đàn chiên của chúng con sinh sản hằng ngàn hằng vạn trong các cánh đồng.
14 Nguyện các đàn bò của chúng con sinh đẻ thật nhiều.
Nguyện không có gì đổ vỡ và không có gì thất thoát.
Nguyện không có tiếng khóc than nào trong các đường phố của chúng con.

15 Phước cho dân nào được như vậy.
Phước cho dân nào có Chúa là Đức Chúa Trời[e] của mình!

Ca Tụng Lòng Tốt của CHÚA

Thơ chúc tụng của Ða-vít

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Thánh Thi 104

Hãy ca ngợi Chúa, hỡi linh hồn ta!
Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ngài thật vĩ đại thay!
Ngài mặc bằng sự huy hoàng và sự uy nghi.
Ngài bao phủ mình bằng ánh sáng như chiếc áo choàng;
Ngài giăng các tầng trời ra như căng một cái trại.
Ngài đặt các đà ngang cho các thiên cung của Ngài trên nước;
Ngài dùng mây làm xa giá;
Ngài bước đi trên cánh gió;
Ngài dùng gió làm các sứ giả Ngài,
Lửa hừng làm bầy tôi hầu hạ Ngài.

Ngài đặt trái đất trên nền của nó,
Ðể đến đời đời nó chẳng chuyển lay.
Ngài bao phủ đất bằng biển sâu như phủ một chiếc áo;
Các nguồn nước lại đứng trên các ngọn núi cao.
Khi Ngài quở trách, chúng thất kinh chạy trốn;
Nghe tiếng sấm sét của Ngài, chúng vụt chạy cho xa.
Núi đồi trồi lên, thung lũng sụp xuống,
Ðúng vào nơi Ngài định cho chúng.
Ngài định giới hạn để nước không thể vượt qua,
Hầu không được phủ ngập mặt đất nữa.

10 Trong các thung lũng Ngài ban các dòng nước ngọt;
Chúng lượn quanh tuôn chảy giữa núi đồi;
11 Chúng cung cấp thức uống cho mọi sinh vật trong đồng;
Nhờ chúng những lừa rừng được thỏa mãn cơn khát.
12 Bên cạnh chúng chim trời làm tổ,
Cất tiếng hót ca giữa các cành cây.
13 Từ thiên cung Ngài đổ nước xuống tưới các núi rừng;
Trái đất được no nê nhờ bông trái của công việc Ngài.

14 Ngài khiến cỏ xanh mọc lên cho súc vật,
Và rau trái sinh ra để phục vụ loài người;
Từ ruộng đất người ta có thể đem về cho mình thực phẩm,
15 Rồi chế thành rượu để uống cho lòng vui vẻ,
Chế thành dầu để xức cho mặt mày tươi sáng,
Và làm cơm bánh để ăn cho vững mạnh lòng người.
16 Những cây cối của Chúa đều được nước uống no nê,
Kể cả những cây bá hương Ngài đã trồng ở Li-băng,
17 Cùng những cây cối khác, nơi các chim trời làm tổ,
Luôn cả những cây bách, nơi chim hạc chọn làm nhà.

18 Ngài dựng nên những núi cao cho các dê rừng làm chỗ ở;
Các gành đá cheo leo cho các chuột núi nương thân.
19 Ngài dựng nên mặt trăng để ấn định các mùa;
Còn mặt trời tự biết khi nào lặn xuống.
20 Ngài dựng nên bóng tối, và nó trở thành ban đêm;
Ấy là khi các thú rừng đi ra săn mồi.
21 Các sư tử tơ gầm rống tìm mồi,
Và tìm kiếm thức ăn từ Ðức Chúa Trời.
22 Ðến khi mặt trời mọc lên chúng lại rút về,
Và nằm xuống trong hang.
23 Người ta đi ra làm việc,
Và làm lụng cho đến hoàng hôn.

24 Chúa ôi, công việc của Ngài thật nhiều thay!
Ngài đã dựng nên tất cả bằng sự khôn ngoan của Ngài;
Trái đất đầy dẫy muôn vật do Ngài dựng nên.
25 Kìa là đại dương sâu rộng mênh mông,
Trong đó chứa nhung nhúc biết bao sinh vật;
Thật là vô sốsinh vật lớn và nhỏ.
26 Rồi cũng có các ghe thuyền tàu bè qua lại,
Và con quái vật[a] Ngài đã dựng nên đùa chơi trong đó.

27 Tất cả đều trông chờ nơi Ngài,
Ðể Ngài ban cho chúng vật thực phải thì.
28 Khi Ngài cho ăn, chúng liền tụ lại;
Khi Ngài sè tay ra, chúng được ăn uống no nê.
29 Khi Ngài ẩn mặt, chúng hoảng kinh bối rối;
Khi Ngài lấy hơi thở chúng đi, chúng liền chết và trở về cát bụi.
30 Khi Ngài ban Thần Khí Ngài ra, chúng được dựng nên,
Và Ngài làm cho mặt đất mới lại.

31 Nguyện vinh hiển của Chúa còn đến đời đời.
Nguyện Chúa vui thích về các công việc Ngài.
32 Ngài nhìn vào trái đất, nó run lên lẩy bẩy;
Ngài đụng đến núi non, chúng bốc khói mịt mù.

33 Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ ca tụng Chúa bấy lâu;
Hễ tôi còn sống chừng nào, tôi sẽ ca ngợi Ðức Chúa Trời tôi chừng nấy.
34 Nguyện những suy nghĩ của tôi được đẹp lòng Ngài;
Về phần tôi, tôi sẽ cứ vui mừng trong Chúa.
35 Nguyện những kẻ tội lỗi bị diệt trừ khỏi mặt đất;
Nguyện những kẻ ác không còn nữa.

Hãy chúc tụng Chúa, hỡi linh hồn ta,
Hãy ca ngợi Chúa!

Gióp 3

Gióp Nguyền Rủa Ngày Sinh của Ông

Sau đó Gióp mở miệng và nguyền rủa ngày sinh của ông. Gióp nói:

Ước chi ngày tôi sinh ra biến mất;
Ước chi đêm người ta nói “Bà đã mang thai một cháu trai” triệt tiêu.
Ước chi ngày ấy trở thành tăm tối.
Ước chi Ðức Chúa Trời từ trời cao không đoái đến nó,
Và ánh sáng không tỏa rạng trên nó.
Ước chi bóng tối và màn đen mù mịt cứ bám giữ lấy nó;
Ước chi mây đen bao phủ nó.
Ước chi bóng tối xảy ra giữa ban ngày làm nó kinh hãi.
Ðêm đó ước chi màn đêm cứ giữ chặt lấy nó.
Nguyện nó không được kể vào số những ngày trong năm.
Nguyện nó không được tính vào số các ngày trong tháng.
Phải, ước chi đêm đó chỉ là một đêm tĩnh mịch.
Ước chi trong đêm đó không ai nghe tiếng reo to mừng rỡ, vì đã nghe tiếng trẻ khóc chào đời.
Nguyện những ai hay nguyền rủa hãy nguyền rủa ngày ấy;
Ðó là những người có khả năng chửi rủa đến nỗi quái vật[a] cũng phải nổi khùng.
Nguyện những sao mai của ngày ấy bị khuất đi trong tăm tối;
Nguyện nó mong đợi ánh bình minh nhưng chẳng có gì;
Nguyện mắt nó sẽ không thấy tia hừng đông nào xuất hiện;
10 Bởi vì nó đã không đóng cửa lòng của mẹ tôi lại,
Hầu mắt tôi khỏi phải nhìn thấy cảnh đau đớn như thế nầy.
11 Sao tôi đã không chết đi khi vừa mới chào đời?
Sao lúc tôi ra khỏi lòng mẹ không là lúc tôi vừa tắt thở?
12 Tại sao đã có những đầu gối để nâng niu tôi,
Hay đã có bầu sữa mẹ để cho tôi bú?
13 Vì nếu được chết yểu, bây giờ tôi đã nằm im và nín lặng;
Tôi đã được an giấc và nghỉ ngơi,
14 Với các vị vua và các mưu sĩ trên đất,
Những người đã xây mộ cho mình trong nơi hoang vắng,
15 Hay với những nhà quyền quý có lắm bạc nhiều vàng,
Những người chất chứa trong các nhà họ biết bao tiền bạc.
16 Hay tại sao tôi không được chôn như một bào thai bị sảo,
Như một thai nhi không trông thấy ánh sáng mặt trời?
17 Ở nơi đó kẻ gian ác hết còn cơ hội để gây rối,
Những người mệt mỏi đã được nghỉ ngơi.
18 Ở nơi đó các tù nhân cùng nhau được thoải mái;
Họ không còn phải nghe tiếng quát tháo của cai tù.
19 Ở nơi đó kẻ nhỏ và người lớn đều như nhau;
Ngay cả các nô lệ cũng được tự do khỏi các chủ nhân của họ.
20 Tại sao lại ban ánh sáng cho người đau khổ,
Và ban mạng sống cho linh hồn kẻ sầu khổ bi thương,
21 Những kẻ chỉ mong được chết, nhưng cái chết không đến;
Họ đào bới tìm kiếm nó còn hơn tìm kho báu bị chôn giấu;
22 Những kẻ đã quá đỗi vui mừng,
Và nức lòng mừng rỡ khi tìm được phần mộ cho mình?
23 Sao lại ban ánh sáng cho người không biết mình sẽ đi đâu;
Người đã bị Ðức Chúa Trời dựng hàng rào bao vây bốn phía?
24 Vì tiếng thở dài ảo não đến với tôi đều đặn như cơm bánh,
Và tiếng rên rỉ của tôi cứ tuôn ra như uống nước hằng ngày.
25 Quả thật những gì tôi lo sợ đã xảy đến với tôi;
Những gì tôi kinh hãi đã xảy ra cho tôi.
26 Tôi không được thoải mái, tôi không được bình tịnh,
Tôi không được nghỉ ngơi, vì rắc rối phiền muộn đã ập đến rồi.

Công Vụ Các Sứ đồ 9:10-19

A-na-nia và Sau-lơ

10 Khi ấy tại Thành Ða-mách có một môn đồ tên là A-na-nia. Chúa phán với ông trong một khải tượng, “Hỡi A-na-nia!”

Ông thưa, “Lạy Chúa, có con đây.”

11 Chúa phán với ông, “Hãy đứng dậy, đi đến con đường tên là Ngay Thẳng, tìm nhà của Giu-đa, để gặp một người tên là Sau-lơ quê ở Tạt-sơ. Này, người ấy đang cầu nguyện. 12 Trong một khải tượng, người ấy thấy một người tên là A-na-nia bước vào, đặt tay trên người ấy, để người ấy được sáng mắt lại.”

13 A-na-nia thưa, “Lạy Chúa, con có nghe nhiều người nói về người ấy. Người ấy đã làm hại các thánh đồ của Ngài tại Giê-ru-sa-lem biết bao, 14 và bây giờ người ấy ở đây với trọn quyền của các trưởng tế để bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Ngài.”

15 Nhưng Chúa phán với ông, “Hãy đi, vì Ta đã chọn người ấy làm một đồ dùng của Ta, để đem danh Ta đến với các dân ngoại, các vua, và các con cái I-sơ-ra-ên; 16 vì Ta sẽ tỏ cho người ấy biết người ấy phải chịu khổ vì danh Ta nhiều dường bao.”

17 A-na-nia ra đi, vào nhà, đặt tay trên ông, và nói, “Hỡi anh Sau-lơ, Chúa là Ðức Chúa Jesus, Ðấng đã hiện ra cho anh trên đường anh đến đây, đã sai tôi đến gặp anh để anh được sáng mắt lại và được đầy dẫy Ðức Thánh Linh.” 18 Ngay lập tức có gì giống như những cái vảy từ trong mắt Sau-lơ rớt ra, và ông thấy lại được; ông đứng dậy và chịu phép báp-têm. 19 Sau khi ăn uống, ông được phục hồi sức lực.

Sau-lơ Giảng về Chúa tại Ða-mách

Sau-lơ ở với các môn đồ tại Thành Ða-mách vài ngày,

Giăng 6:41-51

41 Bấy giờ người Do-thái xầm xì bàn tán về Ngài, vì Ngài nói, “Ta là bánh từ trời xuống.” 42 Họ nói, “Người này chẳng phải là Jesus con của Giô-sép, mà cha và mẹ ông ấy chúng ta đều biết cả sao? Thế mà sao bây giờ ông ấy lại bảo, ‘Ta từ trời xuống’ ?”

43 Ðức Chúa Jesus trả lời và nói với họ, “Các ngươi đừng xầm xì bàn tán với nhau nữa. 44 Không ai có thể đến với Ta, nếu Cha, Ðấng sai Ta, không kéo người ấy đến, và Ta sẽ làm cho người ấy sống lại trong ngày cuối cùng. 45 Như có chép trong Các Tiên Tri,

‘Và mọi người sẽ được Ðức Chúa Trời dạy dỗ.’ Ê-sai 54:13; Giê 31:33, 34

Vậy hễ ai đã nghe và học từ Cha thì đến với Ta. 46 Không ai đã thấy Cha ngoại trừ Ðấng từ Ðức Chúa Trời đến; Ðấng ấy đã thấy Cha.

47 Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, kẻ nào tin thì có sự sống đời đời. 48 Ta là bánh của sự sống. 49 Tổ tiên các ngươi đã ăn bánh ma-na trong đồng hoang, và họ đã chết. 50 Ðây là bánh từ trời xuống, để ai ăn bánh ấy sẽ không chết. 51 Ta là bánh sống từ trời xuống; nếu ai ăn bánh này, người ấy sẽ sống đời đời, và bánh Ta sẽ cho để ban sự sống cho thế gian chính là thịt Ta.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang