Add parallel Print Page Options

Thầy tế lễ Mên-chi-xê-đéc

Mên-chi-xê-đéc là vua Xa-lem và là thầy tế lễ của Thượng Đế Chí Cao. Ông ra đón Áp-ra-ham lúc Áp-ra-ham trở về sau khi chiến thắng các vua. Lúc hai người gặp nhau, Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ra-ham, còn Áp-ra-ham dâng cho vua một phần mười của các món cướp được từ quân giặc. Trước hết, tên Mên-chi-xê-đéc nghĩa là “vua nhân đức” và là vua của Xa-lem, nghĩa là “vua hòa bình.” Không ai biết gốc gác Mên-chi-xê-đéc, [a] hoặc ông từ đâu đến, sinh ra khi nào hoặc chết lúc nào. Mên-chi-xê-đéc giống như Con Thượng Đế. Ông làm thầy tế lễ đời đời.

Như vậy anh chị em thấy Mên-chi-xê-đéc cao trọng đến mức nào vì Áp-ra-ham, tổ phụ đáng kính của chúng ta dâng cho vua một phần mười những chiến lợi phẩm. Luật pháp buộc những người thuộc chi tộc Lê-vi đang giữ chức tế lễ thu một phần mười từ dân chúng—tức đồng bào mình—mặc dù cả thầy tế lễ và dân chúng đều cùng thuộc gia đình Áp-ra-ham. Mên-chi-xê-đéc không thuộc chi tộc Lê-vi nhưng ông lại thu một phần mười từ Áp-ra-ham. Ông chúc phước cho Áp-ra-ham là người nhận được lời hứa của Thượng Đế. Ai cũng biết rằng người bậc trên chúc phước cho kẻ bậc dưới là lẽ đương nhiên. Các thầy tế lễ thu một phần mười dù rằng họ cũng chỉ là người sống rồi cũng chết. Nhưng Mên-chi-xê-đéc, người nhận được một phần mười từ Áp-ra-ham, sống mãi, theo như Thánh Kinh ghi. Chúng ta cũng có thể nói Lê-vi, người nhận một phần mười, cũng đã trả một phần mười qua Áp-ra-ham khi Áp-ra-ham dâng một phần mười cho Mên-chi-xê-đéc. 10 Mặc dù khi Mên-chi-xê-đéc ra đón Áp-ra-ham thì Lê-vi lúc ấy chưa sinh ra vì còn ở trong lòng của tổ tiên.

11 Dân chúng được ban cho luật pháp [b] dựa trên một hệ thống thầy tế lễ thuộc chi tộc Lê-vi, nhưng họ không thể nhờ hệ thống ấy mà trở nên toàn thiện cho nên phải cần một thầy tế lễ khác, giống như Mên-chi-xê-đéc chứ không như A-rôn. 12 Và khi một loại thầy tế lễ khác đến thì luật pháp cũng phải thay đổi. 13 Những điều nầy chỉ về Chúa Cứu Thế. Ngài thuộc về một chi tộc khác. Chưa có ai thuộc chi tộc ấy phục vụ chức tế lễ nơi bàn thờ cả. 14 Hiển nhiên là Chúa chúng ta xuất thân từ chi tộc Giu-đa. Mô-se không hề đề cập đến các thầy tế lễ thuộc chi tộc ấy.

Chúa Giê-xu giống Mên-chi-xê-đéc

15 Điểm nầy sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta thấy một thầy tế lễ sẽ đến giống như Mên-chi-xê-đéc. 16 Ngài được lập làm tế lễ không phải theo qui tắc và luật pháp loài người, căn cứ vào gia thế nhưng qua quyền năng của đời sống Ngài, là một đời sống còn mãi mãi. 17 Có lời viết về Ngài như sau, “Con làm thầy tế lễ đời đời, như Mên-chi-xê-đéc.” [c]

18 Qui tắc cũ được gác qua một bên vì yếu kém và vô dụng. 19 Luật pháp Mô-se không thể làm cho điều gì toàn thiện được. Nhưng nay chúng ta được ban cho một hi vọng tốt hơn và nhờ hi vọng ấy chúng ta có thể đến gần Thượng Đế.

20 Điều nầy quan trọng đến nỗi Thượng Đế phải thực hiện bằng lời thề. Các thầy tế lễ khác lãnh chức vụ mà không cần lời thề. 21 Nhưng Chúa Cứu Thế trở thành thầy tế lễ bằng lời thề của Thượng Đế. Ngài phán:

“Chúa đã thề và sẽ không đổi ý.
    ‘Con làm thầy tế lễ đời đời.’” (A)

22 Điều nầy có nghĩa là Chúa Giê-xu là sự bảo đảm về một giao ước tốt hơn do Thượng Đế kết lập với dân sự Ngài.

23 Khi một trong những thầy tế lễ qua đời thì chức vụ của thầy tế lễ ấy bị gián đoạn nên cần có nhiều thầy tế lễ. 24 Nhưng Chúa Giê-xu sống mãi cho nên bao giờ Ngài cũng giữ chức tế lễ. 25 Nghĩa là lúc nào Ngài cũng có quyền cứu những người đến cùng Thượng Đế qua Ngài, vì Ngài luôn luôn sống để nài xin Thượng Đế giúp họ.

26 Chúa Giê-xu chính là thầy tế lễ mà chúng ta cần. Ngài thánh thiện, không tội lỗi, trong sạch, không bị tội nhân ảnh hưởng và trổi cao hơn các từng trời. 27 Ngài không như các thầy tế lễ khác phải dâng sinh tế mỗi ngày, trước vì tội mình, sau vì tội dân chúng. Chúa Cứu Thế dâng chính mình Ngài làm sinh tế một lần đủ cả. 28 Luật pháp chọn lựa các thầy tế lễ tối cao là những người bất toàn như mọi người nhưng lời thề của Thượng Đế đến sau khi có luật pháp. Lời ấy lập Con Thượng Đế làm thầy tế lễ tối cao, và Con ấy là Đấng toàn thiện đời đời.

Chúa Giê-xu là thầy tế lễ tối cao của chúng ta

Đây là điểm chúng ta đang nói: Chúng ta có một thầy tế lễ tối cao đang ngồi bên phải [d] ngôi của Thượng Đế trên thiên đàng. Thầy tế lễ tối cao của chúng ta phục vụ Nơi Chí Thánh [e], chỗ thờ phụng thật sự [f], không phải do loài người lập mà do Thượng Đế lập ra.

Thầy tế lễ nào cũng được chỉ định dâng của lễ và hi sinh cho Thượng Đế, nên thầy tế lễ tối cao của chúng ta cũng phải dâng món gì cho Ngài. Nếu thầy tế lễ tối cao của chúng ta vẫn đang sống trên đất thì không phải là thầy tế lễ nữa, vì đã có các thầy tế lễ khác trên đất đang tuân theo luật pháp mà dâng của lễ cho Thượng Đế rồi. Nhiệm vụ tế lễ chỉ là tượng trưng và hình bóng của những việc trên thiên đàng. Vì thế Thượng Đế căn dặn Mô-se rất kỹ khi ông chuẩn bị dựng Lều Thánh: “Hãy thận trọng làm y theo như sơ đồ ta chỉ cho ngươi trên núi.” [g] Nhưng nhiệm vụ tế lễ giao cho Chúa Giê-xu lớn hơn nhiệm vụ của các thầy tế lễ kia rất nhiều. Cũng thế, giao ước mới mà Chúa Giê-xu mang từ Thượng Đế xuống cho dân Ngài lớn hơn giao ước cũ. Giao ước mới dựa trên lời hứa về những điều tốt đẹp hơn.

Nếu giao ước đầu tiên không có khuyết điểm gì thì không cần phải thay thế bằng giao ước thứ nhì. Nhưng Thượng Đế thấy dân sự Ngài sơ xuất nên Ngài phán:

“Chúa phán, thời kỳ đến
    khi ta lập một giao ước mới
    với dân Ít-ra-en và dân Giu-đa.
Không giống như giao ước
    ta lập với tổ tiên họ
    khi ta dắt họ ra khỏi Ai-cập.
Nhưng vì họ không tôn trọng giao ước ấy,
    nên ta quay mặt khỏi họ,
Chúa phán vậy.
10 Chúa phán,
Đây là giao ước ta sẽ lập
    với dân Ít-ra-en lúc bấy giờ,
Ta sẽ đặt luật lệ ta trong trí họ,
    ghi những lời ấy vào lòng họ.
Ta sẽ làm Thượng Đế của họ,
    còn họ sẽ làm dân ta.
11 Không ai còn cần dạy
    xóm giềng hay thân quyến mình
    học biết về Chúa nữa,
    vì mọi người đều sẽ biết ta,
    từ người thấp kém nhất
    cho đến người cao trọng nhất.
12 Ta sẽ tha thứ họ
    về những điều ác họ làm,
Ta sẽ không nhớ đến tội lỗi họ nữa.” (B)

13 Thượng Đế gọi giao ước nầy là mới cho nên Ngài biến giao ước đầu tiên thành cũ. Cái gì đã cũ và vô dụng thì sẽ biến mất.

Giao ước cũ

Giao ước cũ có những qui tắc thờ phụng và nơi thờ phụng do tay người dựng nên. Lều Thánh có hai phần riêng biệt. Phần đầu tiên của Lều gọi là Nơi Thánh. Trong đó có cái đèn và cái bàn chưng bánh được Thượng Đế thánh hóa. Sau bức màn thứ nhì là một phòng gọi là Nơi Chí Thánh. Trong đó có bàn thờ bằng vàng để đốt hương và Rương Giao ước bọc vàng, bên trong hộp đựng giao ước cũ. Bên trong hộp có một cái bình đựng bánh ma-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn và hai bảng đá của giao ước cũ. Phía trên hộp là các thiên sứ [h] phô bày sự vinh hiển của Thượng Đế và các cánh che nắp hộp. Các thiên sứ ngồi trên nắp thương xót [i]. Nhưng bây giờ chúng ta không thể mô tả tỉ mỉ những vật ấy.

Khi mọi vật trong Lều được sắp xếp sẵn sàng như thế rồi thì mỗi ngày các thầy tế lễ đi vào gian phòng đầu tiên để thờ phụng. Nhưng chỉ có một mình thầy tế lễ tối cao mới được vào gian phòng thứ nhì, mỗi năm một lần thôi. Thầy tế lễ tối cao không thể vào phòng ấy mà không mang huyết theo dâng cho Thượng Đế để chuộc tội mình và chuộc tội vô tình của dân chúng. Thánh Linh dùng điều nầy để cho thấy rằng khi hệ thống Lều Thánh cũ vẫn đang được dùng thì đường vào Nơi Chí Thánh [j] chưa mở ra. Đây là ví dụ về thời hiện tại. Hình ảnh ấy cho thấy rằng các của lễ và sinh tế không thể khiến lương tâm kẻ thờ phụng toàn thiện được. 10 Các của lễ và sinh tế chỉ liên quan đến thực phẩm, thức uống và nghi thức tẩy sạch. Đó là những qui luật cho thân thể phải tuân theo cho đến khi Thượng Đế chỉ cách thức mới.

Giao Ước Mới

11 Khi Chúa Cứu Thế Giê-xu đến làm thầy tế lễ tối cao mang những điều tốt đẹp chúng ta hiện đang hưởng, thì Ngài đi vào một lều lớn hơn và hoàn toàn hơn, không do tay người làm ra và cũng không thuộc về trần gian nầy. 12 Chúa Cứu Thế đi vào Nơi Chí Thánh một lần đủ cả. Ngài không mang theo huyết của dê hoặc bò con. Sinh tế của Ngài mang vào là chính huyết mình, nhờ huyết ấy Ngài giải thoát chúng ta đời đời khỏi tội lỗi. 13 Nếu huyết của dê, bò đực và tro của bò cái rắc lên những người không tinh sạch còn làm cho thân thể họ được sạch, 14 huống chi huyết của Chúa Cứu Thế còn hữu hiệu đến mức nào nữa. Ngài dâng chính mình qua Thần linh [k] đời đời để làm một sinh tế toàn vẹn cho Thượng Đế. Huyết Ngài tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những hành vi dẫn đến cái chết để chúng ta có thể thờ kính và phục vụ Thượng Đế hằng sống.

15 Do đó, Chúa Cứu Thế mang đến cho dân chúng một Giao Ước Mới từ Thượng Đế. Những ai được Thượng Đế kêu gọi thì bây giờ có thể hưởng được phúc lành đời đời mà Ngài đã hứa. Họ nhận được những phúc lành ấy là vì Chúa Cứu Thế chịu chết để ai sống dưới giao ước cũ đều được giải thoát khỏi tội.

16 Khi có tờ di chúc thì phải chứng tỏ rằng người viết di chúc đó đã qua đời. 17 Di chúc ấy chẳng có giá trị gì khi người đó còn sống; nó chỉ có hiệu lực sau khi người ấy qua đời. 18 Vì thế giao ước đầu tiên không thể bắt đầu nếu không có huyết để chứng tỏ đã có một cái chết. 19 Trước hết, Mô-se dạy dân sự mọi mệnh lệnh mà luật pháp dặn bảo. Sau đó ông lấy huyết của bò con và dê trộn với nước, rồi lấy len đỏ và nhánh kinh giới rưới lên sách luật và trên dân chúng. 20 Ông nói, “Đây là huyết để bắt đầu Giao ước mà Thượng Đế truyền cho các ngươi phải vâng giữ.” [l] 21 Cũng thế, Mô-se rưới huyết lên Lều Thánh và trên mọi vật dùng trong việc thờ phụng. 22 Luật pháp qui định rằng mọi việc phải được tẩy sạch nhờ huyết vì nếu không đổ huyết thì không thể được tha tội.

Sự chết Chúa Giê-xu xóa sạch tội lỗi

23 Cho nên những gì tượng trưng cho các việc thật trên trời phải được tẩy sạch qua của lễ bằng thú vật; nhưng những việc thật trên trời cần những sinh tế tốt hơn thú vật. 24 Chúa Cứu Thế Giê-xu không phải đi vào Nơi Chí Thánh do tay người làm ra, một nơi tiêu biểu cho Nơi Chí Thánh thật. Ngài đi vào chính thiên đàng và hiện nay đang ở trước mặt Thượng Đế để cầu khẩn cho chúng ta. 25 Thầy tế lễ tối cao mỗi năm đi vào Nơi Chí Thánh một lần mang theo huyết mà không phải huyết mình. Nhưng Chúa Cứu Thế Giê-xu không cần phải hi sinh mạng Ngài nhiều lần. 26 Nếu không thì kể từ khi tạo thiên lập địa, Ngài đã phải chịu khổ nhiều lần. Nhưng Ngài chỉ đến một lần đủ cả vào thời kỳ cuối cùng nầy để xóa tội lỗi đi bằng cách hi sinh chính mình. 27 Vì đã định cho mọi người phải chết một lần rồi chịu xét xử, 28 cho nên Chúa Cứu Thế Giê-xu dâng mình Ngài làm sinh tế một lần đủ cả để xóa tội lỗi của nhiều người. Ngài sẽ trở lại lần thứ hai, không phải để hi sinh vì tội lỗi nữa, mà là đem sự cứu rỗi đến cho những kẻ chờ đợi Ngài.

Sự hi sinh của Chúa Cứu Thế xóa sạch tội lỗi

10 Luật pháp chỉ là tượng trưng những điều tốt đẹp hơn sẽ đến trong tương lai; luật pháp không phải là hình ảnh chính xác của vật thật. Những ai ở dưới luật pháp cứ phải dâng sinh tế mỗi năm, nhưng những sinh tế ấy không thể làm cho những kẻ đến gần để thờ phụng Thượng Đế trở thành toàn thiện được. Vì nếu luật pháp có thể khiến họ toàn thiện thì khỏi cần phải dâng sinh tế nữa. Nếu những kẻ thờ phụng nhờ đó mà được tẩy sạch thì không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Nhưng mỗi năm những sinh tế ấy nhắc họ nhớ lại tội lỗi, vì huyết của bò đực và dê đực không thể nào xóa tội lỗi được.

Cho nên khi Chúa Cứu Thế đến thế gian thì Ngài phán,

“Chúa chẳng muốn sinh tế và của lễ
    nhưng đã chuẩn bị cho tôi một thân thể.
Ngài không hài lòng về của lễ thiêu
    và của lễ xóa tội lỗi.
Rồi tôi nói, ‘Lạy Thượng Đế, tôi đến.
Trong sách có viết về tôi.
    Tôi đến để làm theo ý muốn Ngài.’” (C)

Trong khúc Thánh Kinh nầy lúc đầu Ngài nói, “Chúa không muốn sinh tế và của lễ, Chúa không hài lòng về của lễ thiêu và của lễ xóa tội lỗi” mặc dù đó là những của lễ mà luật pháp qui định. Rồi Ngài nói, “Lạy Thượng Đế, tôi đến để làm theo ý muốn Ngài.” Thượng Đế đã bãi bỏ hệ thống hi sinh cũ để thiết lập hệ thống mới. 10 Vì thế, chúng ta được thánh hóa qua sự hi sinh thân thể của Chúa Cứu Thế một lần đủ cả.

11 Mỗi ngày các thầy tế lễ đứng thi hành nhiệm vụ bao giờ cũng dâng cùng một loại sinh tế. Những sinh tế ấy không bao giờ xóa tội được. 12 Nhưng sau khi Chúa Cứu Thế hi sinh vì tội lỗi một lần đủ cả thì Ngài ngồi bên phải Thượng Đế. 13 Hiện nay Ngài đang chờ đợi kẻ thù bị đặt dưới quyền Ngài [m]. 14 Chỉ cần một của lễ hi sinh thôi, Ngài đã làm cho toàn thiện đời đời những kẻ đã được thánh hóa.

15 Thánh Linh cũng có đề cập về điều nầy cho chúng ta. Trước Ngài nói,

16 “Chúa phán,
Đây là giao ước [n] ta sẽ lập với họ lúc ấy.
Ta sẽ đặt luật lệ ta trong lòng họ
    và ghi những lời đó vào tâm trí họ.” (D)

17 Rồi Ngài phán,

“Ta sẽ không nhớ những tội lỗi và điều ác họ làm nữa.” (E)

18 Sau khi những tội lỗi ấy đã được tha thứ thì không cần sinh tế để chuộc tội nữa.

Hãy vững tin nơi Thượng Đế

19 Cho nên, thưa anh chị em, bây giờ chúng ta nay được hoàn toàn tự do và dạn dĩ đi vào Nơi Chí Thánh [o] do sự chết [p] của Chúa Giê-xu mang lại. 20 Chúng ta có thể đi trên con đường mới và sống mà Chúa Giê-xu đã mở ra cho chúng ta, dẫn chúng ta qua bức màn [q]—tức xác Ngài. 21 Và vì chúng ta có một thầy tế lễ tối cao rất lớn quản trị cả nhà Thượng Đế 22 cho nên chúng ta hãy lấy lòng chân thành với đức tin vững chắc mà đến gần Thượng Đế vì chúng ta đã được tẩy sạch khỏi lương tâm tội lỗi, thân thể được rửa bằng nước trong. 23 Hãy nắm vững hi vọng mà chúng ta đã xưng nhận vì tin chắc Thượng Đế sẽ làm được điều Ngài hứa.

Hãy giúp mọi người thêm vững mạnh

24 Chúng ta hãy suy nghĩ đến nhau và tìm cách khuyến khích nhau, bày tỏ tình yêu thương và làm điều thiện. 25 Đừng xao lãng các cuộc nhóm họp, như một số người đang làm, nhưng hãy siêng năng nhóm họp và khích lệ nhau. Khi thấy ngày ấy [r] đến gần chừng nào thì anh chị em hãy càng sốt sắng thêm chừng nấy.

Đừng quay khỏi Chúa Cứu Thế

26 Nếu sau khi đã học biết chân lý mà chúng ta nhất quyết tiếp tục phạm tội thì không còn sinh tế nào để chuộc lỗi nữa. 27 Chỉ còn có lo sợ chờ đợi sự trừng phạt và lửa khủng khiếp tiêu diệt những kẻ chống nghịch Thượng Đế mà thôi. 28 Ai không vâng giữ luật pháp Mô-se thì bị kết tội dựa theo bằng cớ của hai hoặc ba nhân chứng và bị xử tử, không khoan hồng. 29 Cho nên anh chị em nghĩ phải đối xử thế nào với những kẻ coi thường Con Thượng Đế, xem huyết giao ước đã thánh hóa họ chẳng khác nào một thứ huyết khác, sỉ nhục Thánh Linh của ân phúc Thượng Đế? Chắc chắn họ phải bị trừng phạt nặng hơn. 30 Chúng ta biết Thượng Đế phán, “Ta sẽ trừng phạt kẻ phạm tội; ta sẽ báo trả họ.” [s] Ngài cũng phán thêm, “Chúa sẽ xét xử dân Ngài.” [t] 31 Rơi vào tay Thượng Đế hằng sống là điều khủng khiếp.

Hãy giữ lòng can đảm và tính kiên nhẫn đang có

32 Hãy nhớ lại trước kia lúc anh chị em mới học biết chân lý. Anh chị em phải chiến đấu gay go với nhiều khổ đau nhưng vẫn vững mạnh. 33 Đôi khi bị chế giễu và bị ngược đãi công khai và đôi lúc anh chị em cùng san sẻ với những người gặp đồng hoàn cảnh. 34 Anh chị em giúp đỡ và chia xẻ nỗi khổ của những kẻ tù tội và khi bị người ta tước đoạt tài sản mà vẫn vui dù vì biết mình có những của cải tốt hơn và bền vững hơn.

35 Cho nên đừng mất lòng can đảm của anh chị em, vì có phần thưởng rất lớn đi theo. 36 Anh chị em hãy bền lòng vâng theo ý muốn Thượng Đế và nhận được điều Ngài hứa. 37 Vì ít lâu nữa thôi,

“Đấng phải đến sẽ đến.
    Ngài không chậm trễ đâu.
38 Người đã giảng hòa cùng ta
    sẽ sống bằng đức tin.
Nhưng nếu sợ hãi mà quay đi,
    thì ta sẽ không vui lòng chút nào.” (F) [u]

39 Nhưng chúng ta không phải là những kẻ quay đi để bị chết mất. Chúng ta là những người có đức tin và đã được cứu rỗi.

Footnotes

  1. Hê-bơ-rơ 7:3 Không ai biết gốc gác Mên-chi-xê-đéc Nguyên văn, “Mên-chi-xê-đéc không cha, không mẹ, không gia phổ.”
  2. Hê-bơ-rơ 7:11 Dân chúng … luật pháp Đây nói về dân Ít-ra-en được ban cho luật pháp của Mô-se.
  3. Hê-bơ-rơ 7:17 Con làm … Mên-chi-xê-đéc Thi 110:4.
  4. Hê-bơ-rơ 8:1 bên phải Vị trí tôn trọng và quyền lực.
  5. Hê-bơ-rơ 8:2 Nơi Chí Thánh Nguyên văn, “chỗ cực thánh,” một nơi thiêng liêng nơi Thượng Đế ngự và được thờ kính.
  6. Hê-bơ-rơ 8:2 chỗ thờ phụng thật sự Nguyên văn, “Đền Tạm” hay “Lều Tạm.”
  7. Hê-bơ-rơ 8:5 Hãy thận trọng … trên núi Xuất 25:40.
  8. Hê-bơ-rơ 9:5 thiên sứ Còn gọi là Chê-ru-bim, có khi gọi là hình nhân.
  9. Hê-bơ-rơ 9:5 nắp thương xót Hay “ngôi thương xót,” một nơi trên nắp “Hộp Giao Ước,” chỗ mà thầy tế lễ tối cao rưới huyết của thú vật mỗi năm một lần để chuộc tội cho dân chúng.
  10. Hê-bơ-rơ 9:8 Nơi Chí Thánh Nguyên văn, “chỗ cực thánh,” nơi thiêng liêng mà Thượng Đế ngự và được thờ kính. Xem câu 12, 24.
  11. Hê-bơ-rơ 9:14 Thần linh Có thể là Thánh Linh, thần linh của chính Chúa Cứu Thế hoặc bản chất thiêng liêng và đời đời của sự hi sinh Ngài. Xem “Thánh Linh” ở Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  12. Hê-bơ-rơ 9:20 Đây là … vâng giữ Xuất 24:8.
  13. Hê-bơ-rơ 10:13 bị đặt dưới quyền Ngài Nguyên văn, “làm bệ chân Ngài.”
  14. Hê-bơ-rơ 10:16 giao ước Giao ước mới và tốt hơn và Thượng Đế ban cho dân sự Ngài qua Chúa Giê-xu. Xem Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  15. Hê-bơ-rơ 10:19 Nơi Chí Thánh Nguyên văn, “chỗ cực thánh,” một nơi thiêng liêng nơi Thượng Đế ngự và được thờ kính.
  16. Hê-bơ-rơ 10:19 sự chết Nguyên văn, “huyết.”
  17. Hê-bơ-rơ 10:20 bức màn Bức màn thiêng liêng được thể hiện qua bức màn thật phân cách nơi thánh bên trong (nơi Thượng Đế hiện diện) và các phần các của Lều Thánh và của đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Xem “bức màn” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  18. Hê-bơ-rơ 10:25 ngày ấy Có thể là ngày Chúa Cứu Thế trở lại để xét xử mọi người và đem dân sự Ngài về ở với Ngài.
  19. Hê-bơ-rơ 10:30 Ta sẽ … báo trả họ Phục 32:35.
  20. Hê-bơ-rơ 10:30 Chúa sẽ … dân Ngài Phục 32:36.
  21. Hê-bơ-rơ 10:38 Theo bản Cựu Ước tiếng Hi-lạp.

Melchizedek the Priest

This Melchizedek was king of Salem(A) and priest of God Most High.(B) He met Abraham returning from the defeat of the kings and blessed him,(C) and Abraham gave him a tenth of everything. First, the name Melchizedek means “king of righteousness”; then also, “king of Salem” means “king of peace.” Without father or mother, without genealogy,(D) without beginning of days or end of life, resembling the Son of God,(E) he remains a priest forever.

Just think how great he was: Even the patriarch(F) Abraham gave him a tenth of the plunder!(G) Now the law requires the descendants of Levi who become priests to collect a tenth from the people(H)—that is, from their fellow Israelites—even though they also are descended from Abraham. This man, however, did not trace his descent from Levi, yet he collected a tenth from Abraham and blessed(I) him who had the promises.(J) And without doubt the lesser is blessed by the greater. In the one case, the tenth is collected by people who die; but in the other case, by him who is declared to be living.(K) One might even say that Levi, who collects the tenth, paid the tenth through Abraham, 10 because when Melchizedek met Abraham, Levi was still in the body of his ancestor.

Jesus Like Melchizedek

11 If perfection could have been attained through the Levitical priesthood—and indeed the law given to the people(L) established that priesthood—why was there still need for another priest to come,(M) one in the order of Melchizedek,(N) not in the order of Aaron? 12 For when the priesthood is changed, the law must be changed also. 13 He of whom these things are said belonged to a different tribe,(O) and no one from that tribe has ever served at the altar.(P) 14 For it is clear that our Lord descended from Judah,(Q) and in regard to that tribe Moses said nothing about priests. 15 And what we have said is even more clear if another priest like Melchizedek appears, 16 one who has become a priest not on the basis of a regulation as to his ancestry but on the basis of the power of an indestructible life. 17 For it is declared:

“You are a priest forever,
    in the order of Melchizedek.”[a](R)

18 The former regulation is set aside because it was weak and useless(S) 19 (for the law made nothing perfect),(T) and a better hope(U) is introduced, by which we draw near to God.(V)

20 And it was not without an oath! Others became priests without any oath, 21 but he became a priest with an oath when God said to him:

“The Lord has sworn
    and will not change his mind:(W)
    ‘You are a priest forever.’”[b](X)

22 Because of this oath, Jesus has become the guarantor of a better covenant.(Y)

23 Now there have been many of those priests, since death prevented them from continuing in office; 24 but because Jesus lives forever, he has a permanent priesthood.(Z) 25 Therefore he is able to save(AA) completely[c] those who come to God(AB) through him, because he always lives to intercede for them.(AC)

26 Such a high priest(AD) truly meets our need—one who is holy, blameless, pure, set apart from sinners,(AE) exalted above the heavens.(AF) 27 Unlike the other high priests, he does not need to offer sacrifices(AG) day after day, first for his own sins,(AH) and then for the sins of the people. He sacrificed for their sins once for all(AI) when he offered himself.(AJ) 28 For the law appoints as high priests men in all their weakness;(AK) but the oath, which came after the law, appointed the Son,(AL) who has been made perfect(AM) forever.

The High Priest of a New Covenant

Now the main point of what we are saying is this: We do have such a high priest,(AN) who sat down at the right hand of the throne of the Majesty in heaven,(AO) and who serves in the sanctuary, the true tabernacle(AP) set up by the Lord, not by a mere human being.

Every high priest(AQ) is appointed to offer both gifts and sacrifices,(AR) and so it was necessary for this one also to have something to offer.(AS) If he were on earth, he would not be a priest, for there are already priests who offer the gifts prescribed by the law.(AT) They serve at a sanctuary that is a copy(AU) and shadow(AV) of what is in heaven. This is why Moses was warned(AW) when he was about to build the tabernacle: “See to it that you make everything according to the pattern shown you on the mountain.”[d](AX) But in fact the ministry Jesus has received is as superior to theirs as the covenant(AY) of which he is mediator(AZ) is superior to the old one, since the new covenant is established on better promises.

For if there had been nothing wrong with that first covenant, no place would have been sought for another.(BA) But God found fault with the people and said[e]:

“The days are coming, declares the Lord,
    when I will make a new covenant(BB)
with the people of Israel
    and with the people of Judah.
It will not be like the covenant
    I made with their ancestors(BC)
when I took them by the hand
    to lead them out of Egypt,
because they did not remain faithful to my covenant,
    and I turned away from them,
declares the Lord.
10 This is the covenant(BD) I will establish with the people of Israel
    after that time, declares the Lord.
I will put my laws in their minds
    and write them on their hearts.(BE)
I will be their God,
    and they will be my people.(BF)
11 No longer will they teach their neighbor,
    or say to one another, ‘Know the Lord,’
because they will all know me,(BG)
    from the least of them to the greatest.
12 For I will forgive their wickedness
    and will remember their sins no more.(BH)[f](BI)

13 By calling this covenant “new,”(BJ) he has made the first one obsolete;(BK) and what is obsolete and outdated will soon disappear.

Worship in the Earthly Tabernacle

Now the first covenant had regulations for worship and also an earthly sanctuary.(BL) A tabernacle(BM) was set up. In its first room were the lampstand(BN) and the table(BO) with its consecrated bread;(BP) this was called the Holy Place.(BQ) Behind the second curtain was a room called the Most Holy Place,(BR) which had the golden altar of incense(BS) and the gold-covered ark of the covenant.(BT) This ark contained the gold jar of manna,(BU) Aaron’s staff that had budded,(BV) and the stone tablets of the covenant.(BW) Above the ark were the cherubim of the Glory,(BX) overshadowing the atonement cover.(BY) But we cannot discuss these things in detail now.

When everything had been arranged like this, the priests entered regularly(BZ) into the outer room to carry on their ministry. But only the high priest entered(CA) the inner room,(CB) and that only once a year,(CC) and never without blood,(CD) which he offered for himself(CE) and for the sins the people had committed in ignorance.(CF) The Holy Spirit was showing(CG) by this that the way(CH) into the Most Holy Place had not yet been disclosed as long as the first tabernacle was still functioning. This is an illustration(CI) for the present time, indicating that the gifts and sacrifices being offered(CJ) were not able to clear the conscience(CK) of the worshiper. 10 They are only a matter of food(CL) and drink(CM) and various ceremonial washings(CN)—external regulations(CO) applying until the time of the new order.

The Blood of Christ

11 But when Christ came as high priest(CP) of the good things that are now already here,[g](CQ) he went through the greater and more perfect tabernacle(CR) that is not made with human hands,(CS) that is to say, is not a part of this creation. 12 He did not enter by means of the blood of goats and calves;(CT) but he entered the Most Holy Place(CU) once for all(CV) by his own blood,(CW) thus obtaining[h] eternal redemption. 13 The blood of goats and bulls(CX) and the ashes of a heifer(CY) sprinkled on those who are ceremonially unclean sanctify them so that they are outwardly clean. 14 How much more, then, will the blood of Christ, who through the eternal Spirit(CZ) offered himself(DA) unblemished to God, cleanse our consciences(DB) from acts that lead to death,[i](DC) so that we may serve the living God!(DD)

15 For this reason Christ is the mediator(DE) of a new covenant,(DF) that those who are called(DG) may receive the promised(DH) eternal inheritance(DI)—now that he has died as a ransom to set them free from the sins committed under the first covenant.(DJ)

16 In the case of a will,[j] it is necessary to prove the death of the one who made it, 17 because a will is in force only when somebody has died; it never takes effect while the one who made it is living. 18 This is why even the first covenant was not put into effect without blood.(DK) 19 When Moses had proclaimed(DL) every command of the law to all the people, he took the blood of calves,(DM) together with water, scarlet wool and branches of hyssop, and sprinkled the scroll and all the people.(DN) 20 He said, “This is the blood of the covenant, which God has commanded you to keep.”[k](DO) 21 In the same way, he sprinkled with the blood both the tabernacle and everything used in its ceremonies. 22 In fact, the law requires that nearly everything be cleansed with blood,(DP) and without the shedding of blood there is no forgiveness.(DQ)

23 It was necessary, then, for the copies(DR) of the heavenly things to be purified with these sacrifices, but the heavenly things themselves with better sacrifices than these. 24 For Christ did not enter a sanctuary made with human hands that was only a copy of the true one;(DS) he entered heaven itself,(DT) now to appear for us in God’s presence.(DU) 25 Nor did he enter heaven to offer himself again and again, the way the high priest enters the Most Holy Place(DV) every year with blood that is not his own.(DW) 26 Otherwise Christ would have had to suffer many times since the creation of the world.(DX) But he has appeared(DY) once for all(DZ) at the culmination of the ages to do away with sin by the sacrifice of himself.(EA) 27 Just as people are destined to die once,(EB) and after that to face judgment,(EC) 28 so Christ was sacrificed once(ED) to take away the sins of many; and he will appear a second time,(EE) not to bear sin,(EF) but to bring salvation(EG) to those who are waiting for him.(EH)

Christ’s Sacrifice Once for All

10 The law is only a shadow(EI) of the good things(EJ) that are coming—not the realities themselves.(EK) For this reason it can never, by the same sacrifices repeated endlessly year after year, make perfect(EL) those who draw near to worship.(EM) Otherwise, would they not have stopped being offered? For the worshipers would have been cleansed once for all, and would no longer have felt guilty for their sins.(EN) But those sacrifices are an annual reminder of sins.(EO) It is impossible for the blood of bulls and goats(EP) to take away sins.(EQ)

Therefore, when Christ came into the world,(ER) he said:

“Sacrifice and offering you did not desire,
    but a body you prepared for me;(ES)
with burnt offerings and sin offerings
    you were not pleased.
Then I said, ‘Here I am—it is written about me in the scroll(ET)
    I have come to do your will, my God.’”[l](EU)

First he said, “Sacrifices and offerings, burnt offerings and sin offerings you did not desire, nor were you pleased with them”(EV)—though they were offered in accordance with the law. Then he said, “Here I am, I have come to do your will.”(EW) He sets aside the first to establish the second. 10 And by that will, we have been made holy(EX) through the sacrifice of the body(EY) of Jesus Christ once for all.(EZ)

11 Day after day every priest stands and performs his religious duties; again and again he offers the same sacrifices,(FA) which can never take away sins.(FB) 12 But when this priest had offered for all time one sacrifice for sins,(FC) he sat down at the right hand of God,(FD) 13 and since that time he waits for his enemies to be made his footstool.(FE) 14 For by one sacrifice he has made perfect(FF) forever those who are being made holy.(FG)

15 The Holy Spirit also testifies(FH) to us about this. First he says:

16 “This is the covenant I will make with them
    after that time, says the Lord.
I will put my laws in their hearts,
    and I will write them on their minds.”[m](FI)

17 Then he adds:

“Their sins and lawless acts
    I will remember no more.”[n](FJ)

18 And where these have been forgiven, sacrifice for sin is no longer necessary.

A Call to Persevere in Faith

19 Therefore, brothers and sisters, since we have confidence(FK) to enter the Most Holy Place(FL) by the blood of Jesus, 20 by a new and living way(FM) opened for us through the curtain,(FN) that is, his body, 21 and since we have a great priest(FO) over the house of God,(FP) 22 let us draw near to God(FQ) with a sincere heart and with the full assurance that faith brings,(FR) having our hearts sprinkled to cleanse us from a guilty conscience(FS) and having our bodies washed with pure water.(FT) 23 Let us hold unswervingly to the hope(FU) we profess,(FV) for he who promised is faithful.(FW) 24 And let us consider how we may spur one another on toward love and good deeds,(FX) 25 not giving up meeting together,(FY) as some are in the habit of doing, but encouraging one another(FZ)—and all the more as you see the Day approaching.(GA)

26 If we deliberately keep on sinning(GB) after we have received the knowledge of the truth,(GC) no sacrifice for sins is left, 27 but only a fearful expectation of judgment and of raging fire(GD) that will consume the enemies of God. 28 Anyone who rejected the law of Moses died without mercy on the testimony of two or three witnesses.(GE) 29 How much more severely do you think someone deserves to be punished who has trampled the Son of God(GF) underfoot,(GG) who has treated as an unholy thing the blood of the covenant(GH) that sanctified them,(GI) and who has insulted the Spirit(GJ) of grace?(GK) 30 For we know him who said, “It is mine to avenge; I will repay,”[o](GL) and again, “The Lord will judge his people.”[p](GM) 31 It is a dreadful thing(GN) to fall into the hands(GO) of the living God.(GP)

32 Remember those earlier days after you had received the light,(GQ) when you endured in a great conflict full of suffering.(GR) 33 Sometimes you were publicly exposed to insult and persecution;(GS) at other times you stood side by side with those who were so treated.(GT) 34 You suffered along with those in prison(GU) and joyfully accepted the confiscation of your property, because you knew that you yourselves had better and lasting possessions.(GV) 35 So do not throw away your confidence;(GW) it will be richly rewarded.

36 You need to persevere(GX) so that when you have done the will of God, you will receive what he has promised.(GY) 37 For,

“In just a little while,
    he who is coming(GZ) will come
    and will not delay.”[q](HA)

38 And,

“But my righteous[r] one will live by faith.(HB)
    And I take no pleasure
    in the one who shrinks back.”[s](HC)

39 But we do not belong to those who shrink back and are destroyed, but to those who have faith and are saved.

Footnotes

  1. Hebrews 7:17 Psalm 110:4
  2. Hebrews 7:21 Psalm 110:4
  3. Hebrews 7:25 Or forever
  4. Hebrews 8:5 Exodus 25:40
  5. Hebrews 8:8 Some manuscripts may be translated fault and said to the people.
  6. Hebrews 8:12 Jer. 31:31-34
  7. Hebrews 9:11 Some early manuscripts are to come
  8. Hebrews 9:12 Or blood, having obtained
  9. Hebrews 9:14 Or from useless rituals
  10. Hebrews 9:16 Same Greek word as covenant; also in verse 17
  11. Hebrews 9:20 Exodus 24:8
  12. Hebrews 10:7 Psalm 40:6-8 (see Septuagint)
  13. Hebrews 10:16 Jer. 31:33
  14. Hebrews 10:17 Jer. 31:34
  15. Hebrews 10:30 Deut. 32:35
  16. Hebrews 10:30 Deut. 32:36; Psalm 135:14
  17. Hebrews 10:37 Isaiah 26:20; Hab. 2:3
  18. Hebrews 10:38 Some early manuscripts But the righteous
  19. Hebrews 10:38 Hab. 2:4 (see Septuagint)