Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Nê-hê-mi-a 7-9

Sau khi vách thành đã được xây sửa xong và tôi đã lắp cửa, thì tôi chọn những người gác cửa, các ca sĩ và người Lê-vi. Tôi đặt Ha-na-ni, em tôi, cùng với Ha-na-nia, chỉ huy cung điện, chịu trách nhiệm canh giữ Giê-ru-sa-lem. Ha-na-nia là người lương thiện và kính sợ Thượng Đế hơn tất cả mọi người. Tôi bảo họ, “Không nên mở cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi mặt trời lên cao. Trong lúc các người gác cổng đang thi hành nhiệm vụ, bảo họ đóng cổng khóa chốt lại. Hãy cắt đặt những người ở Giê-ru-sa-lem làm lính tuần canh, đặt một số ở các vọng canh, một số canh ở nhà mình.”

Những tù binh trở về

Thành phố thì rộng lớn bao la mà dân cư thì thưa thớt, nhà cửa cũng chưa xây cất lại. Cho nên Thượng Đế của tôi giục tôi triệu tập các người có uy tín, các lãnh tụ, và những thường dân để tôi đăng ký họ theo gia đình. Tôi tìm được gia phổ [a] của những người đã hồi hương lần đầu tiên. Sau đây là những điều ghi trong các gia phổ đó:

Dưới đây là những người trong vùng trở về nước sau cuộc lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn đã bắt mang đi. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người trở về nguyên quán mình. Những người sau đây hồi hương cùng với Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-phê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.

Sau đây là những người thuộc dân Ít-ra-en: con cháu Pha-rốt: 2.172 người; con cháu Sê-pha-tia: 372 người; 10 con cháu A-ra: 652 người; 11 con cháu Pha-hát Mô-áp (qua gia đình Giê-sua và Giô-áp): 2.818 người; 12 con cháu Ê-lam: 1.254 người; 13 con cháu Giát-tu: 845 người; 14 con cháu Giác-cai: 760 người; 15 con cháu Binh-nui: 648 người; 16 con cháu Bê-bai: 628 người; 17 con cháu Ách-gát: 2.322 người; 18 con cháu A-đô-ni-cam: 667 người; 19 con cháu Bích-vai: 2.067 người; 20 con cháu A-đinh: 655 người; 21 con cháu A-tơ (qua Hê-xê-kia): 98 người; 22 con cháu Ha-sum: 328 người; 23 con cháu Bê-dai: 324 người; 24 con cháu Ha-ríp: 112 người; 25 con cháu Ghi-bê-ôn: 95 người;

26 Những người sau đây thuộc thị trấn Bết-lê-hem và Nê-tô-pha: 188 người; 27 thuộc A-na-thốt: 128 người; 28 thuộc Bết A-ma-vết: 42 người; 29 thuộc Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743 người; 30 thuộc Ra-ma và Ghê-ba: 621 người; 31 thuộc Mích-ma: 122 người; 32 thuộc Bê-tên và A-hi: 123 người; 33 thuộc Nê-bô thứ nhì: 52 người; 34 thuộc thị trấn Ê-lam thứ nhì: 1.254 người; 35 thuộc Ha-rim: 320 người; 36 thuộc Giê-ri-cô: 345 người; 37 thuộc Lốt, Ha-đích, và Ô-nô: 721 người; 38 thuộc Sê-na-a: 3.930 người;

39 Sau đây là những thầy tế lễ: con cháu Giê-đai-gia, qua gia đình Giê-sua: 973 người; 40 con cháu Im-mê: 1.052 người; 41 con cháu Pha-sua: 1.247 người; 42 con cháu Ha-rim: 1.017 người;

43 Sau đây là những người Lê-vi: con cháu Giê-sua, qua Cát-miên, qua gia đình của Hô-đa-via [b]: 74 người;

44 Sau đây là những ca sĩ: con cháu A-sáp: 148 người;

45 Sau đây là những người gác cửa: con cháu Sa-lum, A-te, Tanh-môn, Ác-cúp, Ha-ti-ta, và Sô-bai: 138 người.

46 Sau đây là những đầy tớ phục vụ trong đền thờ: con cháu Di-ha, Ha-su-pha, Táp-bao-ốt, 47 Kê-rốt, Sia, Pha-đôn, 48 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Sanh-mai, 49 Ha-nan, Ghi-đen, Ga-ha, 50 Rê-ai-gia, Rê-xin, Nê-cô-đa, 51 Ga-giam, U-xa, Pha-sê-a, 52 Bê-sai, Mê-u-nim, Nê-phu-sim, 53 Bát-cúc, Ha-ku-pha, Ha-hua, 54 Bát-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, 55 Bát-cốt, Si-sê-ra, Thê-ma, 56 Nê-xia, và Ha-ti-pha.

57 Sau đây là con cháu của các đầy tớ Sô-lô-môn: con cháu Sô-tai, Sô-phê-rết, Phê-ri-đa, 58 Gia-a-la, Đác-côn, Ghi-đen, 59 Sê-pha-tia, Hát-tin, Phô-kê-rết Ha-giê-ba-im, và Am-môn.

60 Các đầy tớ phục vụ trong đền thờ của Sô-lô-môn tổng cộng là 392 người.

61 Một số người đến Giê-ru-sa-lem từ các thị trấn như Tên-Mê-la, Tên-Hát-sa, Kê-rúp, Ách-đôn, và Im-mê, nhưng họ không chứng minh được gốc gác tổ tiên mình là người Ít-ra-en. Sau đây là tên và nhân số của họ: 62 con cháu Đê-lai-gia, Tô-bia, và Nê-cô-đa: 642 người;

63 Các thầy tế lễ sau đây không chứng minh được gốc gác Ít-ra-en của mình: con cháu Hô-bai-gia, Hách-côi, và Bát-xi-lai. (Ai lấy con gái Bát-xi-lai vùng Ghi-lê-át thì được xem là dòng dõi Bát-xi-lai.) 64 Những người đó sưu tầm gia phổ nhưng không tìm được. Nên họ không thể làm thầy tế lễ vì họ bị xem như không đủ năng cách. 65 Quan tổng trấn ra lệnh cho họ không được phép ăn các thức ăn cực thánh cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để giải quyết vấn đề nầy.

66 Tổng số người hồi hương là 42.360. 67 Trong số đó không kể 7.337 tôi trai tớ gái của họ và 245 nam nữ ca sĩ cùng về với họ. 68 Họ có 736 con ngựa, 245 con la, 69 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa.

70 Một số các trưởng gia đình dâng công. Quan tổng trấn ứng vào ngân quỹ khoảng 19 cân [c] vàng, 50 chén bát, và 530 bộ áo cho các thầy tế lễ. 71 Một số trưởng gia đình dâng khoảng 375 cân [d] vàng và 2.750 cân [e] bạc vào ngân quỹ. 72 Tổng số lễ vật của các người khác là khoảng 375 cân vàng, 2.500 cân [f] bạc, và 67 bộ áo cho thầy tế lễ. 73 Vậy tất cả những người sau đây định cư tại các tỉnh nhà của mình: các thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cửa, các ca sĩ, các đầy tớ phục vụ trong đền thờ. Đến tháng bảy [g] năm ấy, toàn dân Ít-ra-en đều đã định cư xong trong các thành mình.

E-xơ-ra đọc những lời giáo huấn

Đến tháng bảy, tất cả dân Ít-ra-en đều định cư xong tại các thị trấn nguyên quán của mình.

Tất cả dân Ít-ra-en tập họp tại công viên gần Cổng Nước. Họ yêu cầu E-xơ-ra là chuyên gia về luật mang đến Sách Giáo Huấn của Mô-se mà CHÚA đã ban cho dân Ít-ra-en.

Cho nên ngày đầu tiên của tháng [h], E-xơ-ra là thầy tế lễ mang sách Giáo Huấn ra đọc cho dân chúng. Đàn ông, đàn bà, và tất cả những ai có thể nghe và hiểu được đều họp lại. Tại công viên gần Cổng Nước, E-xơ-ra đọc lớn lời Giáo Huấn từ sáng sớm cho đến trưa cho tất cả đàn ông, đàn bà, cùng những ai có thể nghe và hiểu được. Mọi người đều chăm chú nghe Sách Giáo Huấn.

Chuyên gia luật pháp E-xơ-ra đứng trên một bục gỗ cao đã được đóng cho việc đó. Bên phải ông có Ma-ti-thia, Sê-ma, A-nai-gia, U-ri-a, Hinh-kia, và Ma-a-sê-gia. Bên trái ông có Bê-đai-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sun, Hát-bát-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam.

E-xơ-ra mở sách ra trước mắt mọi người, vì ông đứng cao hơn họ. Khi ông mở sách ra thì mọi người đứng dậy. E-xơ-ra ca ngợi CHÚA, Thượng Đế chí cao, mọi người liền giơ tay lên trời nói, “A-men! A-men!” Rồi họ sấp mặt xuống đất bái lạy CHÚA.

Những người Lê-vi sau đây giải thích Lời Giáo Huấn cho dân chúng đang đứng đó: Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, Ác-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đia, Ma-a-sê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, và Bê-lai-gia. Họ đọc Sách Giáo Huấn của Thượng Đế và giải nghĩa cho dân chúng hiểu điều đang đọc.

Rồi Nê-hê-mi, quan tổng trấn, E-xơ-ra, thầy tế lễ và chuyên gia luật, và những người Lê-vi đang dạy dỗ bảo toàn thể dân chúng, “Hôm nay là ngày thánh [i] cho CHÚA là Thượng Đế các ngươi. Đừng buồn bã hay than khóc.” Vì dân chúng đều khóc sướt mướt khi nghe đọc lời trong Sách Giáo Huấn.

10 Nê-hê-mi bảo, “Hãy đi ăn uống cho ngon. Hãy mang thức ăn cho những người thiếu thốn, vì hôm nay là ngày thánh cho CHÚA. Không nên buồn bã vì sự vui vẻ của CHÚA sẽ giúp các ngươi mạnh dạn.”

11 Người Lê-vi khuyên dỗ dân chúng và bảo, “Hãy yên lặng vì hôm nay là ngày thánh. Đừng buồn.”

12 Vậy dân chúng đi về ăn và uống, gởi thực phẩm cho những người khác và hớn hở ăn mừng. Sau cùng họ đã hiểu được điều dạy dỗ.

13 Vào ngày mồng hai của tháng, các trưởng gia đình, các thầy tế lễ, và những người Lê-vi họp chung với chuyên gia luật E-xơ-ra. Họ họp nhau lại để học hỏi những lời trong Sách Giáo Huấn.

14 Họ thấy trong Sách Giáo Huấn viết như sau: CHÚA truyền qua Mô-se là dân Ít-ra-en phải ở trong các chòi lá vào thời gian kỷ niệm lễ tháng bảy. 15 Dân chúng phải phổ biến lời dạy dỗ sau đây trong các thị trấn và tại Giê-ru-sa-lem: “Hãy lên núi, hái về các nhánh ô-liu cùng các cây ô-liu hoang, cành cây sim, cành chà là, và cành cây có bóng mát. Dùng những nhành cây đó làm chòi lá theo như đã viết.”

16 Cho nên dân chúng đi ra mang về các nhánh cây. Họ dựng chòi lá trên mái nhà, trong sân, trong sân đền thờ, trong công viên ở Cổng Nước, và nơi công viên kế bên Cổng Ép-ra-im. 17 Tất cả những người đã trở về từ cuộc lưu đày đều dựng chòi ở trong đó. Từ thời Giô-suê, con trai của Nun cho đến lúc bấy giờ dân Ít-ra-en chưa hề làm như vậy. Ai nấy đều rất vui mừng.

18 Mỗi ngày E-xơ-ra đọc cho họ nghe Sách Giáo Huấn, từ ngày đầu tới ngày cuối. Dân Ít-ra-en cử hành lễ trong bảy ngày, rồi đến ngày thứ tám họ họp nhau lại theo như luật định.

Dân Ít-ra-en xưng tội

Vào ngày hai mươi bốn tháng đó, dân Ít-ra-en họp nhau lại. Họ cữ ăn và mặc vải sô, phủ bụi đất lên đầu để tỏ sự buồn thảm. Những người gốc Ít-ra-en tách ra khỏi những người ngoại quốc. Họ đứng lên xưng tội mình và tội của tổ tiên mình. Họ đứng suốt ba tiếng đồng hồ liền để nghe đọc Sách Giáo Huấn của CHÚA là Thượng Đế của họ. Ba tiếng đồng hồ kế tiếp họ xưng tội và thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của họ. Những người Lê-vi sau đây đứng trên bậc thang: Giê-sua, Ba-ni, Cát-miên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Ca-na-ni. Họ lớn tiếng kêu cầu cùng CHÚA là Thượng Đế mình. Rồi những người Lê-vi sau đây lên tiếng: Giê-sua, Cát-miên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Bê-tha-hia. Họ bảo,

“Hãy đứng dậy ca ngợi CHÚA là Thượng Đế các ngươi, Đấng sống đời đời.”

Lời cầu nguyện của dân chúng

“Đáng chúc tụng danh kỳ diệu của Ngài.
    Danh đó thật diệu kỳ hơn những lời chúc tụng và ca ngợi.
Ngài là CHÚA duy nhất.
    Ngài tạo nên trời và các từng trời rất cao,
    cùng các ngôi sao.
Ngài dựng nên trái đất và mọi loài trong đó,
    Biển và mọi loài trong biển;
Ngài ban sự sống cho mọi loài.
    Các thiên thần phụng thờ Ngài.
Ngài là CHÚA, là Thượng Đế,
    Đấng đã chọn Áp-ram,
mang người ra khỏi U-rơ thuộc vùng Ba-by-lôn
    và đổi tên người ra Áp-ra-ham.
Ngài nhận thấy người trung tín với Ngài,
    cho nên Ngài lập ước với người
hứa cho dòng dõi người đất của dân Ca-na-an,
    dân Hê-tít, dân A-mô-rít,
dân Phê-ri-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-ga-sít.
    Ngài đã giữ lời hứa mình,
Vì Ngài luôn luôn làm điều phải.
Ngài thấy các tổ tiên chúng tôi khổ sở nơi Ai-cập,
và nghe họ kêu khóc nơi Hồng hải.
10 Ngài làm nhiều điều kỳ diệu nghịch lại vua Ai-cập,
    nghịch lại các quần thần và dân chúng của người,
vì Ngài biết họ rất tự phụ.
    Ngài nổi danh như ngày nay.
11 Ngài rẽ biển trước mắt tổ tiên chúng tôi;
    họ đi ngang qua trên đất khô,
Nhưng Ngài xô những kẻ đuổi theo họ xuống nước sâu,
    như hòn đá bị quăng vào dòng nước chảy mạnh.
12 Ban ngày Ngài dẫn dắt các tổ tiên chúng tôi bằng một trụ mây,
    còn ban đêm bằng một trụ lửa.
Chúng soi đường để dân chúng đi.
13 Ngài ngự xuống trên núi Si-nai,
    từ trời Ngài phán với tổ tiên chúng tôi.
Ngài ban cho họ các luật lệ công bình
    và những lời giáo huấn chân thật,
    những huấn lệnh và chỉ thị tốt lành.
14 Ngài dạy họ về ngày Sa-bát thánh,
    và ban cho họ các chỉ thị, huấn lệnh
    qua Mô-se, tôi tớ Ngài.
15 Khi họ đói, Ngài ban cho họ bánh từ trời.
    Khi họ khát, Ngài ban cho họ nước uống từ tảng đá.
Ngài bảo họ hãy vào chiếm xứ mà Ngài đã hứa ban cho họ.
16 Nhưng các tổ tiên chúng tôi kiêu căng và ương ngạnh,
    không vâng huấn lệnh của Ngài.
17 Họ không thèm nghe;
    họ quên những phép lạ Ngài làm cho họ.
Họ đâm ra ương ngạnh,
    chống nghịch Ngài,
và tự chọn cho mình một người lãnh đạo
    để đem họ trở về ách nô lệ.
    Nhưng Ngài là Thượng Đế hay tha thứ.
Đầy lòng từ ái.
    Ngài chậm nóng giận, giàu tình yêu lớn.
    Nên Ngài không lìa bỏ họ.
18 Thậm chí các tổ tiên chúng tôi làm cho mình một tượng bò con.
Họ bảo, ‘Ít-ra-en ơi, đây là thần
    đã mang ngươi ra khỏi Ai-cập.’
Họ nói phạm đến Ngài.
19 Ngài giàu lòng từ ái,
    nên không bỏ rơi họ trong sa mạc.
Ban ngày có trụ mây dẫn đường,
    ban đêm có trụ lửa soi sáng lối đi.
20 Ngài ban Thánh Linh nhân từ Ngài dạy dỗ họ.
    Ban ma-na cho họ ăn và nước uống khi họ khát.
21 Trong suốt bốn mươi năm Ngài săn sóc họ;
    Họ không thiếu thốn gì hết.
Áo quần họ không sờn,
    Chân họ không sưng phù.
22 Ngài ban cho họ các vương quốc và các dân tộc;
    và cấp thêm đất cho họ.
Họ chiếm xứ Si-hôn, vua của Hết-bôn
    và xứ Óc, vua của Ba-san.
23 Ngài khiến cho con cháu họ đông như sao trên trời,
    mang họ vào xứ mà Ngài bảo các tổ tiên họ vào chiếm lấy.
24 Cho nên các con cháu họ vào chiếm lấy xứ.
    Người Ca-na-an đang sống trong xứ,
    nhưng Ngài đánh bại dân ấy.
Ngài trao người Ca-na-an vào tay họ,
    các vua chúng, và toàn dân của xứ,
để tổ tiên chúng tôi có thể mặc tình
    đối xử với chúng.
25 Họ chiếm các thành trì vững chắc có vách cao
    và đất đai phì nhiêu.
Họ chiếm nhà cửa có đầy đủ mọi thứ,
    giếng đã đào sẵn,
cùng vườn nho, cây ô liu, và các cây ăn trái.
    Họ ăn uống cho đến khi no say và mập béo;
    Họ tận hưởng ơn phước dồi dào của Ngài.
26 Nhưng họ bất tuân và chống nghịch Ngài,
    không đếm xỉa đến lời giáo huấn Ngài.
Các tiên tri Ngài khuyên răn họ trở về cùng Ngài,
    Nhưng họ giết các tiên tri và nói phạm cùng Ngài.
27 Nên Ngài trao họ vào tay các kẻ thù,
    để chúng ngược đãi họ.
Nhưng trong cơn khốn khổ các tổ tiên chúng tôi
    kêu khóc cùng CHÚA,
    từ trời Ngài liền nghe.
CHÚA có lòng từ bi lớn
    nên sai các người giải cứu đến giải phóng họ
    khỏi quyền lực kẻ thù.
28 Nhưng vừa khi họ được an tịnh,
    họ lại làm ác.
Ngài liền trao họ cho kẻ thù thống trị họ.
    Họ lại kêu khóc cùng Ngài,
    từ trời Ngài nghe họ.
Vì lòng từ bi Ngài,
    Ngài giải cứu họ nhiều lần.
29 Ngài khuyên răn họ trở về
    với lời giáo huấn Ngài,
    nhưng họ tự phụ,
    không vâng theo huấn lệnh CHÚA,
là luật mà nếu ai vâng theo thì sẽ sống.
    Nhưng họ quay lưng khỏi Ngài.
Họ ương ngạnh, bướng bỉnh, và không vâng lời.

30 Ngài kiên nhẫn với họ trong nhiều năm,
    dùng Thánh Linh Ngài qua các nhà tiên tri
    mà cảnh cáo họ,
nhưng họ chẳng thèm để ý.
    Nên Ngài trao họ vào tay các quốc gia khác.

31 Nhưng do lòng từ bi lớn lao,
    CHÚA không tuyệt diệt hay bỏ rơi họ.
Ngài là Thượng Đế nhân từ và bác ái.
32 Cho nên, Thượng Đế của chúng tôi ơi,
    Ngài là Thượng Đế cao cả, quyền năng và kỳ diệu.
Ngài giữ giao ước của tình yêu.
    Xin đừng làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của chúng tôi.
Những nỗi khốn khổ nầy đến trên chúng tôi,
    trên vua và các nhà lãnh đạo của chúng tôi,
    trên các thầy tế lễ và các nhà tiên tri,
    Trên các tổ tiên và dân tộc Ngài
    từ đời các vua A-xy-ri cho đến hôm nay.
33 Những gì xảy ra cho chúng tôi thật xứng đáng
    vì Ngài rất công bằng;
Ngài thành tín nhưng chúng tôi quá gian ác.
34 Các vua, các nhà lãnh đạo,
    các thầy tế lễ, và các tổ tiên chúng tôi không nghe theo lời giáo huấn Ngài;
Họ không thèm để ý đến những huấn lệnh
    và lời cảnh cáo Ngài.
35     Dù trong khi các tổ tiên chúng tôi
    đang sống trong xứ,
    vui hưởng những ơn lành Ngài ban cho,
tận hưởng đất đai phì nhiêu và khoảng khoát,
    họ cũng vẫn cứ làm điều ác.
36 Vì thế ngày nay chúng tôi bị làm tôi mọi
    trong xứ Ngài ban cho tổ tiên chúng tôi.
Đáng lẽ họ vui hưởng hoa quả và phúc lành,
    Mà bây giờ chúng tôi phải làm nô lệ tại đây.
37 Mùa màng tốt đẹp của xứ thuộc về các vua
    mà Ngài đặt lên thống trị chúng tôi,
    vì tội lỗi chúng tôi.
Các vua đó hống hách thống trị chúng tôi
    và gia súc chúng tôi,
    cho nên chúng tôi gặp khốn đốn.

Giao ước của dân chúng

38 Vì những lý do đó, nay chúng tôi lập một giao ước viết ra chữ.
Các vị lãnh đạo, các người Lê-vi, và các thầy tế lễ đóng ấn họ vào đó.”

Công Vụ Các Sứ đồ 3

Phia-rơ chữa lành người què

Một ngày nọ, Phia-rơ và Giăng lên đền thờ khoảng ba giờ chiều, là giờ định sẵn mỗi ngày để cầu nguyện. Nơi cổng đền thờ gọi là Cổng Đẹp, có một người bị què từ lúc mới sinh nằm đó. Mỗi ngày người ta mang anh ta đặt ở cổng ấy để xin tiền những người đi vào đền thờ. Khi thấy Phia-rơ và Giăng vào thì anh mở miệng xin tiền hai người. Phia-rơ và Giăng nhìn thẳng vào anh và bảo, “Hãy nhìn chúng tôi!” Anh liền nhìn hai người, tưởng họ sẽ cho mình tiền. Nhưng Phia-rơ bảo, “Tôi không có vàng bạc gì hết nhưng tôi sẽ cho anh điều tôi có. Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu ở Na-xa-rét, hãy đứng lên và bước đi!” Rồi Phia-rơ nắm tay phải anh đỡ dậy. Lập tức bàn chân và mắt cá anh trở nên vững vàng. Anh nhảy lên, đứng trên chân rồi bắt đầu bước đi. Anh vào đền thờ với hai sứ đồ, vừa đi vừa nhảy vừa ca ngợi Thượng Đế. 9-10 Mọi người nhận ra anh là người què vẫn hay xin tiền nơi Cổng Đẹp. Bây giờ họ thấy anh vừa đi vừa ca ngợi Thượng Đế thì vô cùng sửng sốt.

Phia-rơ nói chuyện với dân chúng

11 Trong khi anh đang nắm tay Phia-rơ và Giăng thì dân chúng ngạc nhiên chạy lại xúm quanh họ nơi Cổng Sô-lô-môn. 12 Thấy vậy Phia-rơ bảo, “Nầy người Ít-ra-en, sao các anh chị em ngạc nhiên? Anh chị em nhìn chúng tôi như thể chúng tôi nhờ quyền năng hay công đức riêng mà khiến anh nầy đi được. 13 Thượng Đế của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, Thượng Đế của tổ phụ chúng ta, ban vinh hiển cho Chúa Giê-xu, tôi tớ Ngài. Nhưng anh chị em đã giao Ngài cho Phi-lát giết. Ông ta định thả Ngài nhưng anh chị em gạt bỏ Ngài. 14 Anh chị em không muốn Đấng thánh và vô tội nhưng ngược lại, anh chị em yêu cầu Phi-lát giao cho mình một kẻ giết người. [a] 15 Anh chị em giết Đấng ban sự sống, nhưng Thượng Đế đã khiến Ngài sống lại từ trong kẻ chết. Chúng tôi là những người làm chứng về việc ấy. 16 Nhờ đức tin nơi Chúa Giê-xu mà người què nầy được chữa lành là người mà anh chị em biết. Người nầy được hoàn toàn lành mạnh là nhờ đức tin nơi Chúa Giê-xu. Chính anh chị em thấy tận mắt chuyện ấy!

17 Thưa anh chị em, tôi biết sở dĩ anh chị em đối xử với Chúa Giê-xu như thế là vì anh chị em và các nhà lãnh đạo đều không hiểu điều mình làm. 18 Qua các nhà tiên tri, Thượng Đế đã nói rằng Chúa Cứu Thế phải chịu khổ hình và chết. Nay Thượng Đế đã khiến mọi điều ấy xảy ra đúng như vậy. 19 Cho nên hãy ăn năn! Hãy trở lại cùng Thượng Đế thì Ngài sẽ tha tội cho anh chị em. Rồi Chúa sẽ mang đến thời kỳ nghỉ ngơi. 20 Ngài cũng sẽ sai Chúa Giê-xu, Đấng mà Ngài đã chọn làm Chúa Cứu Thế của anh chị em. 21 Tuy nhiên Chúa Giê-xu phải ở lại thiên đàng cho đến khi mọi việc được sửa sang lại. Từ xưa, qua các nhà tiên tri thánh, Thượng Đế đã nói về thời kỳ nầy. 22 Mô-se nói, ‘Chúa, là Thượng Đế các ngươi, sẽ ban cho các ngươi một nhà tiên tri giống như ta. Nhà tiên tri ấy là một người trong các ngươi. Các ngươi hãy nghe lời người.

23 Ai không vâng lời nhà tiên tri đó sẽ bị xử tử, cắt đứt khỏi dân Chúa.’ [b] 24 Sa-mu-ên và tất cả các nhà tiên tri khác thay mặt Thượng Đế đến sau ông cũng nói đến thời kỳ nầy. 25 Anh chị em là dòng dõi của các nhà tiên tri. Anh chị em đã nhận giao ước mà Thượng Đế lập với tổ tiên mình. Ngài bảo Áp-ra-ham, ông tổ của anh chị em như sau, ‘Nhờ dòng dõi ngươi mà các dân trên đất sẽ hưởng phúc.’ [c] 26 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại và trước hết sai Ngài đến để ban phúc lành cho anh chị em bằng cách giúp cho mỗi anh chị em quay khỏi điều ác.”

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

© 2010 Bible League International