Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Nê-hê-mi-a 4-7

Những kẻ chống lại việc tái thiết

Khi San-ba-lát nghe chúng tôi xây sửa lại vách thành, hắn rất bất bình đến độ tức tối. Hắn chế diễu dân Do-thái. Hắn bảo bạn hữu và những kẻ có thế lực ở Xa-ma-ri rằng, “Bọn Do-thái yếu hèn đó mà làm được gì? Tụi nó xây lại vách thành à? Rồi dâng của lễ hả? Bộ chúng xây một ngày là xong sao? Liệu chúng có thể phục hồi sinh lực của các tảng đá đã thành đống rác hay tro tàn được sao?”

Tô-bia người Am-môn đứng kế San-ba-lát cũng phụ họa, “Nếu có con chồn trèo lên vách đá mà chúng đang xây cũng đủ làm nó sập liền.”

Tôi cầu nguyện, “Thượng Đế ơi, xin nghe chúng tôi. Người ta ghét chúng tôi. Xin đổ sự sỉ nhục của San-ba-lát và Tô-bia lại trên đầu chúng nó. Xin cho chúng nó bị bắt làm tù đày và làm chiến lợi phẩm. Xin đừng giấu tội lỗi hay cất gian ác chúng nó khỏi mắt chúng nó vì chúng nó đã sỉ nhục những thợ sửa chữa.”

Nên chúng tôi xây lại vách đến phân nửa chiều cao, vì dân chúng hăng say làm việc.

Nhưng San-ba-lát, Tô-bia, những người Á-rập, người Am-môn, người từ Ách-đốt đều tức giận khi chúng nghe chương trình sửa chữa vách thành Giê-ru-sa-lem tiến triển đều đặn và các lỗ trong vách thành đang được trám lại. Cho nên họ lập mưu đến Giê-ru-sa-lem kiếm chuyện để gây rối, ngăn trở việc xây cất. Nhưng chúng tôi cầu nguyện cùng Thượng Đế và cắt lính canh chừng họ cả ngày lẫn đêm.

10 Dân Giu-đa báo cáo, “Các nhân công đã mệt mỏi rồi. Rác rưởi nhiều quá chúng tôi không thể xây sửa vách thành được nữa.”

11 Các kẻ thù chúng tôi bảo, “Bọn Do-thái không biết, không thấy gì hết cho đến khi chúng ta ập đến giết chúng và làm gián đoạn công tác.”

12 Mười lần những người Do-thái sống cạnh các kẻ thù chúng tôi đến báo cáo, “Quay phía nào cũng bị kẻ thù tấn công.” 13 Vì thế tôi đặt người gác những nơi thấp nhất dọc theo vách tức các chỗ trống và cắt các gia đình làm việc chung nhau, mang theo gươm, giáo, cung tên. 14 Rồi tôi nhìn quanh quất và đứng lên bảo các người có uy tín, các người lãnh đạo, và cùng toàn thể dân chúng: “Anh em đừng sợ họ. Hãy nhớ CHÚA là Đấng cao cả và quyền năng. Hãy chiến đấu vì anh em, con trai và con cái mình, cho vợ và nhà cửa mình.”

15 Sau đó các kẻ thù nghe rằng chúng tôi đã hay biết âm mưu của chúng và Thượng Đế đã phá hỏng âm mưu chúng. Cho nên chúng tôi trở lại công tác xây sửa vách thành, ai lo làm phần nấy.

16 Từ hôm đó trở đi, phân nửa số thợ lo xây sửa. Phân nửa khác sẵn sàng gươm, thuẫn, cung tên, và vũ khí. Các sĩ quan đứng phía sau người Giu-đa 17 là những người đang xây lại vách. Những người mang vật liệu bằng một tay, còn tay kia cầm vũ khí. 18 Mỗi người thợ đều mang theo vũ khí bên hông đang khi làm việc. Còn người thổi kèn báo động đứng kế bên tôi.

19 Rồi tôi bảo những người có uy tín, các người lãnh đạo và toàn thể dân chúng rằng, “Công tác nầy rất lớn lao. Chúng ta phân tán mỏng dọc theo vách thành cho nên cách nhau quá xa. 20 Khi nào các anh em nghe tiếng kèn báo động thì hãy tập họp lại chỗ đó. Thượng Đế của chúng ta sẽ chiến đấu cho chúng ta.”

21 Cho nên chúng tôi tiếp tục làm việc, phân nửa số người cầm gươm giáo từ sáng sớm cho đến khi sao mọc. 22 Lúc đó tôi cũng bảo dân chúng, “Mỗi người thợ và các người phụ việc phải ngủ đêm lại Giê-ru-sa-lem. Ban đêm họ làm lính tuần canh, còn ban ngày thì làm việc.” 23 Tôi, anh em tôi, các người thợ, hay các lính tuần canh đều không thay quần áo. Mỗi người đều mang theo vũ khí cả lúc đi lấy nước nữa.

Nê-hê-mi bênh vực người nghèo

Một số người đàn ông và các bà vợ khiếu nại về đồng bào Do-thái khác. Họ bảo, “Gia đình chúng tôi đông con, trai lẫn gái. Muốn sống chúng tôi phải ăn bằng thóc gạo.”

Một số người khác bảo, “Chúng tôi cầm thế ruộng, vườn nho, nhà cửa để lấy tiền mua thóc gạo vì thực phẩm khan hiếm.”

Một số người khác nữa nói, “Chúng tôi phải vay tiền để trả thuế ruộng nương và vườn nho cho vua. Chúng tôi cũng giống như các anh em Do-thái khác, con chúng tôi cũng như con họ. Nhưng chúng tôi phải bán con trai con gái mình làm tôi mọi. Một số con gái chúng tôi đã bị bán. Chúng tôi không biết làm gì hơn vì đất ruộng và vườn nho chúng tôi thuộc về người khác rồi.”

Khi tôi nghe những lời khiếu nại đó tôi vô cùng tức giận. Sau khi suy xét kỹ về vấn đề nầy, tôi liền trách những người có uy tín, những người lãnh đạo trong dân chúng. Tôi bảo, “Mấy anh em cho vay ăn lời cắt cổ.” Cho nên tôi triệu tập một phiên họp lớn để giải quyết. Tôi bảo họ, “Chúng ta đã chuộc tự do cho đồng bào Do-thái mình là những kẻ đã bị bán cho người ngoại quốc. Bây giờ anh em lại bán đồng bào Do-thái mình cho chúng tôi!” Các người lãnh đạo làm thinh, không biết nói làm sao.

Tôi tiếp, “Điều anh em làm thật không đúng chút nào. Anh em không kính sợ Thượng Đế sao? Đừng để những kẻ thù ngoại quốc sỉ nhục chúng ta. 10 Tôi, anh em tôi, và những người làm cho tôi cũng cho dân chúng mượn tiền, thóc gạo và lấy lời. Nhưng anh em không nên làm như thế. 11 Bây giờ hãy trả lại ruộng nương, vườn nho, cây ô liu, và nhà cửa cho họ. Cũng phải hoàn trả lại số tiền lời quá đáng mà anh em đã thu, tức một phần trăm tiền cho vay, gạo thóc, rượu mới và dầu.”

12 Họ đáp, “Chúng tôi sẽ trả lại cho dân chúng và không đòi họ thêm gì cả. Chúng tôi sẽ làm theo như ông nói.”

Rồi tôi gọi các thầy tế lễ và buộc các người có uy tín và các người lãnh đạo tuyên thệ thực hiện lời họ cam kết. 13 Tôi cũng giũ áo tôi và tuyên bố, “Những ai không giữ lời cam kết sẽ bị Thượng Đế giũ ra như thế nầy. Cầu Thượng Đế giũ họ ra khỏi nhà Ngài và ra khỏi tài sản họ. Nguyện người đó bị giũ ra còn tay không!”

Rồi toàn thể mọi người nói, “A-men,” và ca ngợi CHÚA. Vậy dân chúng làm theo điều họ cam kết.

14 Năm thứ hai mươi [a] đời vua Ạc-ta-xét-xe, tôi được cử làm tổng trấn đất Giu-đa. Tôi giữ chức tổng trấn xứ Giu-đa trong mười hai năm cho đến năm thứ ba mươi hai đời vua đó. Trong thời gian tại chức tôi hay anh em tôi không hề hưởng lương thực dành cho quan tổng trấn. 15 Nhưng các quan tổng trấn trước tôi đè đầu cỡi cổ dân chúng. Họ thu một cân [b] bạc từ mỗi người, không kể thực phẩm và rượu. Những người giúp việc cho quan tổng trấn trước tôi cũng chèn ép dân chúng, nhưng tôi không làm như vậy vì tôi kính sợ Thượng Đế. 16 Tôi làm công tác sửa chữa vách thành cũng như tất cả đầy tớ tôi có mặt tại đó. Chúng tôi không mua ruộng nương của ai.

17 Ngoài ra tôi thết đãi một trăm năm mươi người và viên chức Do-thái ăn cùng bàn với tôi, luôn cả những người đến từ các quốc gia lân cận. 18 Thức ăn chuẩn bị hằng ngày gồm có: một con bò, sáu con chiên mập, và chim chóc. Mỗi mười ngày lại có đủ thứ rượu. Nhưng tôi không hề đòi hỏi lương thực dành cho quan tổng trấn vì dân chúng đã phải làm lụng vất vả lắm rồi.

19 Lạy Thượng Đế, xin nhớ tỏ lòng nhân từ đối với tôi vì những điều tốt tôi đã làm cho dân nầy.

Rắc rối thêm cho Nê-hê-mi

Lúc đó San-ba-lát, Tô-bia, Ghê-sem người Á-rập, và những kẻ thù khác của chúng tôi nghe rằng tôi đã sửa chữa lại vách thành và không còn lỗ trống nào trong vách. Nhưng tôi chưa cho dựng các cánh cửa của cổng thành. Nên San-ba-lát và Ghê-sem nhắn với tôi như sau: “Nầy anh Nê-hê-mi, chúng ta hãy gặp nhau ở Kê-phi-rim trong bình nguyên Ô-nô.”

Nhưng thực tâm là chúng định ám hại tôi.

Nên tôi cho người trả lời họ như sau: “Tôi đang bận làm công tác lớn nên không thể xuống được. Tôi không thể nào bỏ dở công việc để gặp các anh.” San-ba-lát và Ghê-sem nhắn tôi bốn lần, lần nào tôi cũng trả lời hắn y như vậy. Lần thứ năm San-ba-lát cho người giúp việc của hắn nhắn tôi, tay cầm theo thư không dán. Thư viết như sau:

Có tiếng đồn trong các nước, và Ghê-sem đã kiểm chứng thấy là đúng sự thật, rằng anh và những người Giu-đa đang âm mưu chống lại vua và rằng anh đang xây sửa vách thành. Họ bảo rằng anh sẽ là vua của họ và rằng anh đã chỉ định các nhà tiên tri để loan báo tại Giê-ru-sa-lem: “Ở đây có một vua Giu-đa!”

Nhà vua sẽ nghe biết việc nầy. Cho nên chúng ta hãy gặp nhau để thảo luận vấn đề.

Tôi liền nhắn lại với hắn: “Điều anh nói không đúng sự thật. Anh chỉ tưởng tượng ra trong trí thôi.”

Kẻ thù chúng tôi muốn làm cho chúng tôi hoảng sợ vì chúng nghĩ rằng, “Bọn chúng quá hèn yếu không làm việc nổi. Vách thành không thể nào xong được.”

Nhưng tôi cầu nguyện, “Lạy Thượng Đế, xin giúp tôi can đảm.”

10 Một ngày nọ tôi đi đến nhà của Sê-mai-gia, con Đê-lai-gia, cháu Mê-hê-ta-bên. Sê-mai-gia phải nghỉ ở nhà. Anh bảo, “Anh Nê-hê-mi à, chúng ta hãy gặp nhau trong đền thờ Thượng Đế. Hãy đi vào Nơi Thánh [c] rồi đóng cửa lại vì có người định đến lúc ban đêm để giết anh đó.”

11 Nhưng tôi bảo, “Người như tôi mà bỏ chạy à? Tôi mà chạy vào đền thờ để thoát chết sao? Tôi không làm như thế được.” 12 Tôi biết không phải Thượng Đế sai anh ta mà Tô-bia và San-ba-lát đã trả tiền cho anh nói tiên tri nghịch tôi. 13 Chúng trả tiền cho anh ta để khiến tôi sợ hãi buộc phải làm theo điều anh ta đề nghị và phạm tội. Rồi chúng sẽ bêu xấu tôi và làm nhục tôi.

14 Tôi cầu nguyện, “Lạy Thượng Đế, xin nhớ Tô-bia và San-ba-lát cùng những điều chúng làm. Cũng xin Ngài nhớ đến nữ tiên tri Nô-a-đia và các tiên tri khác đã tìm cách làm tôi hoảng sợ.”

Vách thành sửa chữa xong

15 Vách thành Giê-ru-sa-lem được xây sửa xong vào ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun [d]. Công tác sửa chữa mất năm mươi hai ngày. 16 Khi các kẻ thù chúng tôi nghe và các quốc gia lân cận thấy việc đó thì đâm ra xấu hổ. Lúc đó chúng biết rằng công tác nầy được hoàn tất là do Thượng Đế chúng tôi hỗ trợ.

17 Cũng trong những ngày đó các người có uy tín của Giu-đa gởi nhiều thư cho Tô-bia và hắn trả lời các lá thư của họ. 18 Nhiều người Giu-đa cam kết trung thành với Tô-bia vì hắn là rể của Sê-ca-nia, con A-ra. Còn Giê-hô-ha-nan, con trai Tô-bia lấy con gái Mê-su-lam, con Bê-rê-kia. 19 Những người ấy khen Tô-bia là người tốt đồng thời thuật cho anh ta nghe những điều tôi làm. Vì thế Tô-bia gởi thơ hăm dọa tôi.

Sau khi vách thành đã được xây sửa xong và tôi đã lắp cửa, thì tôi chọn những người gác cửa, các ca sĩ và người Lê-vi. Tôi đặt Ha-na-ni, em tôi, cùng với Ha-na-nia, chỉ huy cung điện, chịu trách nhiệm canh giữ Giê-ru-sa-lem. Ha-na-nia là người lương thiện và kính sợ Thượng Đế hơn tất cả mọi người. Tôi bảo họ, “Không nên mở cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi mặt trời lên cao. Trong lúc các người gác cổng đang thi hành nhiệm vụ, bảo họ đóng cổng khóa chốt lại. Hãy cắt đặt những người ở Giê-ru-sa-lem làm lính tuần canh, đặt một số ở các vọng canh, một số canh ở nhà mình.”

Những tù binh trở về

Thành phố thì rộng lớn bao la mà dân cư thì thưa thớt, nhà cửa cũng chưa xây cất lại. Cho nên Thượng Đế của tôi giục tôi triệu tập các người có uy tín, các lãnh tụ, và những thường dân để tôi đăng ký họ theo gia đình. Tôi tìm được gia phổ [e] của những người đã hồi hương lần đầu tiên. Sau đây là những điều ghi trong các gia phổ đó:

Dưới đây là những người trong vùng trở về nước sau cuộc lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn đã bắt mang đi. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đa, mỗi người trở về nguyên quán mình. Những người sau đây hồi hương cùng với Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-phê-rết, Bích-vai, Nê-hum, và Ba-a-na.

Sau đây là những người thuộc dân Ít-ra-en: con cháu Pha-rốt: 2.172 người; con cháu Sê-pha-tia: 372 người; 10 con cháu A-ra: 652 người; 11 con cháu Pha-hát Mô-áp (qua gia đình Giê-sua và Giô-áp): 2.818 người; 12 con cháu Ê-lam: 1.254 người; 13 con cháu Giát-tu: 845 người; 14 con cháu Giác-cai: 760 người; 15 con cháu Binh-nui: 648 người; 16 con cháu Bê-bai: 628 người; 17 con cháu Ách-gát: 2.322 người; 18 con cháu A-đô-ni-cam: 667 người; 19 con cháu Bích-vai: 2.067 người; 20 con cháu A-đinh: 655 người; 21 con cháu A-tơ (qua Hê-xê-kia): 98 người; 22 con cháu Ha-sum: 328 người; 23 con cháu Bê-dai: 324 người; 24 con cháu Ha-ríp: 112 người; 25 con cháu Ghi-bê-ôn: 95 người;

26 Những người sau đây thuộc thị trấn Bết-lê-hem và Nê-tô-pha: 188 người; 27 thuộc A-na-thốt: 128 người; 28 thuộc Bết A-ma-vết: 42 người; 29 thuộc Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743 người; 30 thuộc Ra-ma và Ghê-ba: 621 người; 31 thuộc Mích-ma: 122 người; 32 thuộc Bê-tên và A-hi: 123 người; 33 thuộc Nê-bô thứ nhì: 52 người; 34 thuộc thị trấn Ê-lam thứ nhì: 1.254 người; 35 thuộc Ha-rim: 320 người; 36 thuộc Giê-ri-cô: 345 người; 37 thuộc Lốt, Ha-đích, và Ô-nô: 721 người; 38 thuộc Sê-na-a: 3.930 người;

39 Sau đây là những thầy tế lễ: con cháu Giê-đai-gia, qua gia đình Giê-sua: 973 người; 40 con cháu Im-mê: 1.052 người; 41 con cháu Pha-sua: 1.247 người; 42 con cháu Ha-rim: 1.017 người;

43 Sau đây là những người Lê-vi: con cháu Giê-sua, qua Cát-miên, qua gia đình của Hô-đa-via [f]: 74 người;

44 Sau đây là những ca sĩ: con cháu A-sáp: 148 người;

45 Sau đây là những người gác cửa: con cháu Sa-lum, A-te, Tanh-môn, Ác-cúp, Ha-ti-ta, và Sô-bai: 138 người.

46 Sau đây là những đầy tớ phục vụ trong đền thờ: con cháu Di-ha, Ha-su-pha, Táp-bao-ốt, 47 Kê-rốt, Sia, Pha-đôn, 48 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Sanh-mai, 49 Ha-nan, Ghi-đen, Ga-ha, 50 Rê-ai-gia, Rê-xin, Nê-cô-đa, 51 Ga-giam, U-xa, Pha-sê-a, 52 Bê-sai, Mê-u-nim, Nê-phu-sim, 53 Bát-cúc, Ha-ku-pha, Ha-hua, 54 Bát-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, 55 Bát-cốt, Si-sê-ra, Thê-ma, 56 Nê-xia, và Ha-ti-pha.

57 Sau đây là con cháu của các đầy tớ Sô-lô-môn: con cháu Sô-tai, Sô-phê-rết, Phê-ri-đa, 58 Gia-a-la, Đác-côn, Ghi-đen, 59 Sê-pha-tia, Hát-tin, Phô-kê-rết Ha-giê-ba-im, và Am-môn.

60 Các đầy tớ phục vụ trong đền thờ của Sô-lô-môn tổng cộng là 392 người.

61 Một số người đến Giê-ru-sa-lem từ các thị trấn như Tên-Mê-la, Tên-Hát-sa, Kê-rúp, Ách-đôn, và Im-mê, nhưng họ không chứng minh được gốc gác tổ tiên mình là người Ít-ra-en. Sau đây là tên và nhân số của họ: 62 con cháu Đê-lai-gia, Tô-bia, và Nê-cô-đa: 642 người;

63 Các thầy tế lễ sau đây không chứng minh được gốc gác Ít-ra-en của mình: con cháu Hô-bai-gia, Hách-côi, và Bát-xi-lai. (Ai lấy con gái Bát-xi-lai vùng Ghi-lê-át thì được xem là dòng dõi Bát-xi-lai.) 64 Những người đó sưu tầm gia phổ nhưng không tìm được. Nên họ không thể làm thầy tế lễ vì họ bị xem như không đủ năng cách. 65 Quan tổng trấn ra lệnh cho họ không được phép ăn các thức ăn cực thánh cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để giải quyết vấn đề nầy.

66 Tổng số người hồi hương là 42.360. 67 Trong số đó không kể 7.337 tôi trai tớ gái của họ và 245 nam nữ ca sĩ cùng về với họ. 68 Họ có 736 con ngựa, 245 con la, 69 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa.

70 Một số các trưởng gia đình dâng công. Quan tổng trấn ứng vào ngân quỹ khoảng 19 cân [g] vàng, 50 chén bát, và 530 bộ áo cho các thầy tế lễ. 71 Một số trưởng gia đình dâng khoảng 375 cân [h] vàng và 2.750 cân [i] bạc vào ngân quỹ. 72 Tổng số lễ vật của các người khác là khoảng 375 cân vàng, 2.500 cân [j] bạc, và 67 bộ áo cho thầy tế lễ. 73 Vậy tất cả những người sau đây định cư tại các tỉnh nhà của mình: các thầy tế lễ, người Lê-vi, những người gác cửa, các ca sĩ, các đầy tớ phục vụ trong đền thờ. Đến tháng bảy [k] năm ấy, toàn dân Ít-ra-en đều đã định cư xong trong các thành mình.

E-xơ-ra đọc những lời giáo huấn

Đến tháng bảy, tất cả dân Ít-ra-en đều định cư xong tại các thị trấn nguyên quán của mình.

Công Vụ Các Sứ đồ 2:22-47

22 Hỡi anh chị em Ít-ra-en, hãy nghe: Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét là Đấng được Thượng Đế chọn qua các phép lạ, dấu kỳ mà Ngài làm. Tất cả anh chị em đều rõ chuyện nầy, vì mọi việc đều đã xảy ra ngay đây giữa vòng anh chị em. 23 Chúa Giê-xu đã được ban cho anh chị em nhưng anh chị em đã dùng tay của những kẻ không biết luật pháp để xử tử Ngài bằng cách đóng đinh Ngài vào thập tự giá. Nhưng đó là chương trình Thượng Đế đã định từ lâu; Ngài biết trước việc ấy. 24 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết, giải thoát Ngài khỏi khổ đau của sự chết vì sự chết không thể kềm giữ Ngài. 25 Vua Đa-vít đã nói về Ngài như sau:

‘Tôi nhìn thấy Chúa trước mặt tôi luôn.
Vì Ngài ở bên tôi,
    nên tôi sẽ không bị tổn hại.
26 Cho nên lòng tôi vui mừng, môi miệng tôi hớn hở,
    thân thể tôi nuôi hi vọng,
27 vì Ngài không để tôi trong mồ mả [a].
    Ngài không để Đấng Thánh Ngài bị mục nát trong đó.
28 Ngài sẽ chỉ cho tôi con đường sự sống.
    Được ở với Ngài lòng tôi tràn đầy vui mừng.’ (A)

29 Thưa anh chị em, tôi phải nói thật rằng Đa-vít, tổ tiên chúng ta đã chết và được chôn. Mồ mả của ông vẫn còn ở giữa chúng ta hôm nay. 30 Ông là nhà tiên tri và biết Thượng Đế đã hứa với ông rằng Ngài sẽ chọn một người từ dòng họ Đa-vít để làm vua giống như ông [b] vậy. 31 Vì biết trước việc ấy nên Đa-vít nói về việc Chúa Cứu Thế sống lại từ kẻ chết như sau:

‘Ngài không bị bỏ quên trong mồ mả.
    Thân thể Ngài không bị mục nát trong đó.’

32 Cho nên Chúa Giê-xu là Đấng mà Thượng Đế khiến sống lại từ kẻ chết. Còn chúng tôi đây là những người chứng kiến các việc ấy. 33 Chúa Giê-xu đã được tiếp lên thiên đàng và hiện đang ngồi bên phải Thượng Đế. Cha đã ban Thánh Linh cho Chúa Giê-xu như Ngài hứa. Cho nên Chúa Giê-xu đã đổ Thánh Linh ra, như anh chị em nghe thấy hôm nay. 34 Đa-vít không phải là người được tiếp lên thiên đàng nhưng ông nói:

‘Chúa phán cùng Chúa tôi,
Hãy ngồi bên phải ta,
35 Cho đến khi ta đặt các kẻ thù ngươi
    dưới quyền quản trị của ngươi. [c](B)

36 Cho nên, toàn dân Ít-ra-en cần biết điều nầy: Thượng Đế đã lập Chúa Giê-xu—Đấng mà anh chị em đã đóng đinh vào thập tự giá—làm Chúa và Đấng Cứu Thế.”

37 Khi dân chúng nghe vậy thì họ cảm thấy trong lòng bị cáo trách nên hỏi Phia-rơ và các sứ đồ, “Bây giờ chúng tôi phải làm sao?”

38 Phia-rơ bảo họ, “Hãy ăn năn, mỗi người trong anh chị em hãy chịu lễ báp-têm nhân danh Chúa Giê-xu để được tha tội. Rồi anh chị em sẽ nhận được ân tứ của Thánh Linh. 39 Vì lời hứa nầy dành cho anh chị em, cho con cái anh chị em và cho những kẻ ở xa nghĩa là cho những người mà Thượng Đế đã gọi riêng cho Ngài.”

40 Phia-rơ cũng dùng nhiều lời nữa để khuyên răn và khích lệ họ. Ông khuyên, “Hãy cứu mình khỏi những gian ác của người đời nay!” 41 Sau đó những người tin nhận lời giảng Phia-rơ đều chịu lễ báp-têm. Trong ngày ấy có khoảng ba ngàn người gia nhập vào số các tín hữu. 42 Họ dùng thì giờ học hỏi lời dạy của các sứ đồ, san sẻ của cải, bẻ bánh [d] và cầu nguyện chung với nhau.

Các tín hữu san sẻ của cải

43 Các sứ đồ làm nhiều phép lạ và dấu kỳ, ai nấy đều kính sợ Thượng Đế. 44 Mọi tín hữu đều họp chung nhau và chia xẻ mọi điều mình có. 45 Họ bán đất đai và của cải rồi chia tiền ra, theo nhu cầu mỗi người. 46 Mỗi ngày các tín hữu họp chung nhau trong đền thờ. Họ dùng bữa tại nhà mình, vui lòng san sẻ thức ăn với nhau. 47 Họ ca ngợi Thượng Đế và được dân chúng mến chuộng. Mỗi ngày Chúa thêm người được cứu vào đoàn thể các tín hữu.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

© 2010 Bible League International