Old/New Testament
Rước Rương Giao Ước Vào Đền Thờ
8 Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và các trưởng gia tộc trong Y-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít ở Si-ôn đến đền thờ. 2 Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân Y-sơ-ra-ên tụ họp lại trước mặt vua Sa-lô-môn để dự lễ.
3 Khi tất cả các trưởng lão đến, các thầy tế lễ khiêng rương đi. 4 Vậy những thầy tế lễ và những người Lê-vi khiêng rương của CHÚA, Lều Tạm là nơi diện kiến với CHÚA, và tất cả các vật dụng thánh trong Lều Tạm được đem đi. 5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, tức là những người đã nhóm họp trước mặt vua, hiệp cùng với vua đến trước rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến độ không thể đếm được.
6 Rồi các thầy tế lễ thỉnh Rương Giao Ước của CHÚA đặt vào vị trí, ở phía bên trong của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. 7 Các chê-ru-bim dang cánh ra bên trên rương; các chê-ru-bim che phủ rương và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng này khá dài đến nỗi ở Nơi Thánh ngay trước Nơi Chí Thánh người ta có thể trông thấy được đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong rương không có gì khác ngoài hai bảng bằng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, là nơi CHÚA đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập.
10 Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh, thì có một đám mây bao phủ đền thờ của CHÚA, 11 đến nỗi các thầy tế lễ không thể tiếp tục thi hành nghi lễ vì mây bao phủ và vì vinh hiển của CHÚA đầy dẫy khắp đền thờ của CHÚA.
12 Bấy giờ Sa-lô-môn nói: “CHÚA đã phán rằng Ngài ngự trong mây dày đặc. 13 Con đã xây cho Ngài một ngôi đền nguy nga tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.”
Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân Chúng
14 Đoạn vua quay lại và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. 15 Vua nói: “Chúc tụng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng dùng tay Ngài làm ứng nghiệm mọi điều Ngài đã hứa với Đa-vít, cha ta. Ngài có phán rằng: 16 ‘Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một nhà cho Ta, hầu cho danh Ta sẽ ngự tại đó, nhưng Ta đã chọn Đa-vít để trị vì dân Y-sơ-ra-ên Ta.’ 17 Đa-vít, cha ta, có ý định xây cất một ngôi đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18 Nhưng CHÚA có phán với Đa-vít, cha ta rằng: ‘Ngươi có ý tốt khi muốn xây cất một ngôi đền cho danh Ta; 19 dầu vậy ngươi sẽ không xây đền ấy cho Ta đâu, bèn là con trai ngươi, do ngươi sinh ra, sẽ xây đền ấy cho danh Ta.’ 20 Bây giờ CHÚA đã làm thành những lời Ngài đã hứa, vì ta đã kế vị Đa-vít, cha ta; ta ngồi trên ngai của Y-sơ-ra-ên, như CHÚA đã hứa, và ta cũng đã xây một ngôi đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Đây này ta đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có chứa đựng giao ước của CHÚA, mà Ngài đã hứa với các tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.”
Sa-lô-môn Cầu Nguyện
22 Bấy giờ Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời 23 và cầu nguyện rằng:
“Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay dưới đất thấp này. Ngài giữ giao ước và tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài là những người bước đi cách hết lòng trước mặt Ngài. 24 Ngài đã giữ giao ước Ngài phán với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Ngài đã hứa thì ngày nay cánh tay Ngài đã thực hiện.
25 Giờ đây, lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu một kẻ kế vị ngươi để ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận giữ đúng đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 26 Vậy nên, lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện lời này mà Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con.
27 Nhưng Đức Chúa Trời thật có ngự trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa Ngài được thay, huống chi là ngôi đền con xây cất cho Ngài đây. 28 Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin đoái nghe lời cầu xin và khẩn nguyện mà tôi tớ Ngài xin dâng lên trước thánh nhan Ngài ngày nay. 29 Nguyện mắt Ngài đêm ngày đoái xem ngôi đền này, là nơi Ngài đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để Ngài nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây cầu khẩn. 30 Xin Ngài lắng nghe lời cầu xin của tôi tớ Ngài và của con dân Ngài mỗi khi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện. Từ chốn thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và tha thứ cho.
31 Khi có ai phạm tội nghịch lại người lân cận mình, và người ta bắt kẻ ấy phải thề; nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong ngôi đền này, 32 thì từ chốn thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động và phân xử các tôi tớ Ngài; xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu chịu lấy hậu quả tội lỗi mình; và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho họ vì sự vô tội của họ.
33 Khi dân Y-sơ-ra-ên Ngài có phạm tội nghịch lại Ngài, rồi bị quân thù đánh bại, nhưng khi họ biết quay về với Ngài, tuyên xưng danh Ngài, cầu nguyện và khẩn xin Ngài trong ngôi đền này, 34 thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ về lại xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ.
35 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì họ có phạm tội nghịch lại Ngài, nhưng rồi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi, vì đã bị Ngài sửa phạt, 36 thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, là dân Y-sơ-ra-ên Ngài. Cầu xin Ngài chỉ dạy họ con đường tốt mà họ phải đi và ban mưa xuống xứ mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37 Khi trong xứ có đói kém, khi họ gặp phải dịch lệ, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù có vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị dịch lệ nào, bất cứ họ bị bịnh tật gì, 38 và có cá nhân nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình mà giơ tay ra hướng về ngôi đền này mà cầu nguyện, nài xin, 39 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả cho mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng của họ, và tùy theo những đường lối của họ; vì chỉ một mình Ngài mới biết rõ mọi sự trong lòng mỗi người mà thôi; 40 hầu cho họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời mình và sẽ sống trong xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ.
41 Ngoài ra, khi có người ngoại quốc nào, là người không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên Ngài, từ một xứ xa đến vì nghe uy danh Ngài— 42 vì người ta sẽ nghe đại danh của Ngài, cánh tay quyền năng của Ngài, và cánh tay Ngài đã giang ra—khi có một người ngoại quốc đến, hướng về ngôi đền này mà cầu nguyện, 43 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, và nhậm mọi lời cầu nguyện người ngoại quốc đó đã cầu xin với Ngài, hầu cho mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên Ngài đã làm vậy, và thiên hạ sẽ biết rằng danh của Ngài được kêu cầu nơi đền này, là đền mà con đã xây.
44 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đánh đuổi quân thù, dù họ đang ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, và khi dân Ngài hướng về thành này là thành Ngài đã chọn và ngôi đền con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện với CHÚA, 45 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ.
46 Khi họ phạm tội cùng Ngài—vì chẳng ai là không phạm tội—và Ngài giận họ, phó họ cho quân thù, chúng bắt họ lưu đày trong xứ của kẻ thù nghịch, dù xa hay gần; 47 nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày họ biết hồi tâm sửa đổi, họ ăn năn và kêu cầu với Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đi lưu đày, mà rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai trật, chúng con đã làm điều gian ác.’ 48 Nếu họ hết lòng hết linh hồn ăn năn cùng Ngài trong xứ của kẻ thù, là những kẻ bắt họ đi lưu đày, nếu họ hướng về xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Ngài đã chọn, và về ngôi đền mà con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 49 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ; 50 xin Ngài tha thứ cho dân Ngài mọi tội lỗi và mọi vi phạm mà họ đã phạm đối với Ngài; xin Ngài khiến những kẻ đang bắt họ lưu đày tỏ lòng thương xót họ; 51 vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp của Ngài, là những kẻ Ngài đã đem ra từ Ai-cập, từ giữa lò nung chảy sắt.
52 Cầu xin mắt Ngài đoái xem lời cầu xin của tôi tớ Ngài, và lời cầu xin của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, xin Ngài lắng nghe họ khi họ kêu cầu Ngài. 53 Vì Ngài đã biệt riêng họ ra khỏi mọi dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã hứa cùng Môi-se, tôi tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy CHÚA là Đấng Chủ Tể Tuyệt Đối.”
Vua Sa-lô-môn Chúc Phước Cho Dân
54 Khi Sa-lô-môn đã dâng lời cầu nguyện này và những lời cầu xin này lên CHÚA xong, vua đứng dậy trước bàn thờ của CHÚA, là nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. 55 Vua đứng dậy, cất tiếng lớn chúc phước cho toàn hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
56 “Chúc tụng CHÚA, là Đấng ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã hứa. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp mà Ngài đã cậy Môi-se, tôi tớ Ngài, nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm. 57 Nguyện xin CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta, như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta. 58 Nguyện lòng của chúng ta luôn hướng về Ngài, đi trong mọi đường lối Ngài, vâng giữ những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. 59 Nguyện những lời của ta đã cầu nguyện trước mặt CHÚA sẽ ở bên cạnh CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm. Nguyện Ngài binh vực duyên cớ của tôi tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên Ngài tùy theo nhu cầu mỗi ngày; 60 để cho mọi dân tộc trên đất sẽ biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời, không có một chân thần nào khác. 61 Vậy, các ngươi khá hết lòng tận trung với CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta, mà sống theo các luật lệ của Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài, y như đã làm ngày nay.”
Lễ Cung Hiến Đền Thờ
62 Rồi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên đang hiệp với vua dâng các sinh tế lên trước mặt CHÚA. 63 Sa-lô-môn dâng cho CHÚA 22,000 con bò và 120,000 con chiên làm tế lễ tạ ơn. Vậy vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên CHÚA.
64 Ngày hôm đó, vua biệt riêng khu vực ở giữa sân trước đền thờ của CHÚA làm nơi dâng các tế lễ thiêu, các tế lễ chay, và mỡ của các tế lễ tạ ơn, vì bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA quá nhỏ, không đủ chỗ để nhận các tế lễ thiêu, các tế lễ chay, và mỡ của các tế lễ tạ ơn.
65 Vậy, lúc ấy Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên có mặt với vua mừng lễ trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta bảy ngày. Thật là một đoàn dân đông đảo, đến từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai-cập. 66 Vào ngày thứ tám, vua truyền cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua, rồi trở về trại mình, tinh thần vui mừng phấn khởi, vì mọi điều tốt đẹp mà CHÚA đã làm cho Đa-vít, tôi tớ Ngài và cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài.
CHÚA Hiện Ra Với Sa-lô-môn Lần Thứ Nhì
9 Khi Sa-lô-môn đã xây dựng đền thờ cho CHÚA, cung điện hoàng gia và những dinh thự mà vua muốn xây cất xong, 2 thì CHÚA hiện ra với Sa-lô-môn lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với vua tại Ga-ba-ôn. 3 CHÚA phán với vua rằng: “Ta đã nghe lời cầu nguyện và lời cầu xin của ngươi, là những lời ngươi đã trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt ra thánh ngôi đền mà ngươi đã xây và đặt danh Ta tại nơi đó đời đời. Mắt Ta và lòng Ta sẽ hằng ở đó luôn luôn. 4 Riêng phần ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Đa-vít cha ngươi đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng làm theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, vâng giữ các luật lệ và mạng lịnh Ta, 5 thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi trên Y-sơ-ra-ên được vững vàng đến đời đời, như Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, rằng: ‘Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người kế vị trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’
6 Nhưng nếu ngươi hoặc con cháu ngươi quay khỏi Ta, không giữ điều răn và luật lệ Ta đã truyền cho các ngươi, nhưng đi phục vụ và thờ phượng các thần khác, 7 thì Ta sẽ dứt bỏ Y-sơ-ra-ên khỏi xứ mà Ta đã ban cho họ; Ta sẽ loại bỏ ngôi đền mà Ta đã biệt ra thánh cho danh Ta, và dân Y-sơ-ra-ên sẽ thành một câu tục ngữ và trò giễu cợt giữa các dân. 8 Ngôi đền này sẽ trở thành một đống đổ nát hoang tàn; những ai đi qua đó sẽ kinh ngạc, sẽ thắc mắc mà hỏi rằng: ‘Tại sao CHÚA đã làm điều ấy cho xứ này và cho dân này?’ 9 Rồi người ta sẽ đáp rằng: ‘Bởi vì họ đã lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà bây giờ họ lại đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy, cho nên CHÚA đã khiến tai vạ này đến trên họ.’ ”
10 Cuối hai mươi năm, là thời gian Sa-lô-môn đã xây xong hai công trình kiến trúc, tức là đền thờ cho CHÚA và cung điện hoàng gia, 11 vì vua Hi-ram của Ty-rơ đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng tuỳ ý vua muốn, nên vua Sa-lô-môn đã ban cho Hi-ram hai mươi thành trong địa phận Ga-li-lê. 12 Nhưng khi Hi-ram đến Ty-rơ để quan sát các thành mà Sa-lô-môn đã ban cho mình, thì vua ấy chẳng hài lòng. 13 Hi-ram nói: “Những thành mà vua cho tôi là những thành gì vậy, thưa vua?” Vậy họ gọi xứ đó là Ca-bun cho đến ngày nay. 14 Dầu vậy Hi-ram cũng gởi cho vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng.
Các Hoạt Động Khác Của Sa-lô-môn
15 Đây là ký thuật về việc cưỡng bách lao động mà vua Sa-lô-môn đã trưng dụng dân công để xây đền cho CHÚA, cung điện cho vua, các công sự phòng thủ, tường thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, Ghê-xe 16 (Pha-ra-ôn là vua của Ai-cập đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, phóng hỏa đốt thành, tiêu diệt dân Ca-na-an cư ngụ trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái mình, là vợ Sa-lô-môn. 17 Vì thế Sa-lô-môn phải xây lại thành Ghê-xe), phần dưới của thành Bết Hô-rôn, 18 Ba-lát, Tát-mốt trong đồng hoang, thuộc địa phận của vua, 19 và tất cả những thành làm kho tiếp liệu, những thành cho đạo quân có các xe chiến mã, những thành cho kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất, ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-ban, và trong mọi xứ dưới vương quyền của vua.
20 Tất cả những người còn sót lại của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, tức là những người không phải dân Y-sơ-ra-ên. 21 Họ là con cháu của những người mà dân Y-sơ-ra-ên không thể tuyệt diệt, còn sót lại trong xứ. Sa-lô-môn bắt những người ấy làm nô dịch để cung cấp nhân công lao động, và họ làm như vậy cho đến ngày nay. 22 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thì Sa-lô-môn không bắt ai làm nô lệ. Họ là quân lính, quan quyền, tướng lãnh, sĩ quan, và những người chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã và kỵ binh. 23 Sau đây là số quan chức mà Sa-lô-môn đặt lên để cai quản những người thực hiện các công trình xây cất của vua: năm trăm năm mươi người.
24 Sau khi công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít dọn lên ở trong cung điện mà Sa-lô-môn đã xây cất cho nàng, vua bèn cho xây cất các công sự phòng thủ.
25 Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn lên dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an trên bàn thờ mà vua đã xây cho CHÚA, vua dâng hương trước mặt CHÚA. Như vậy, vua đã hoàn tất công trình xây cất đền thờ.
Hoạt Động Thương Mại Của Sa-lô-môn
26 Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lốt, nơi bờ Hồng Hải, thuộc xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram sai các tôi tớ và đoàn tàu của mình, tức những thủy thủ thông thạo hàng hải, đi cùng các tôi tớ của Sa-lô-môn. 28 Họ đến Ô-phia và đem về bốn trăm hai mươi ta-lâng vàng, rồi đem giao nộp cho Vua Sa-lô-môn.
Tiền Dâng Của Bà Góa(A)
21 Chúa ngước mắt lên nhìn thấy những người giàu có dâng lễ vật vào thùng đựng tiền dâng. 2 Ngài cũng thấy một bà góa nghèo khổ dâng hai đồng tiền, 3 Ngài nói: “Thật Ta bảo cho các con biết, bà góa nghèo khổ này đã dâng nhiều hơn tất cả, 4 vì những người kia lấy của dư mà dâng, còn bà này dù túng ngặt, đã dâng hết số tiền mình có để nuôi sống.”
Chúa Báo Trước Đền Thờ Sẽ Bị Tàn Phá(B)
5 Vài môn đệ nói về đền thờ trang hoàng bằng đá quý và những đồ lễ dâng cho Đức Chúa Trời. Đức Giê-su bảo: 6 “Những gì các con thấy đây sẽ có ngày bị phá đổ, không còn phiến đá nào chồng lên phiến đá khác!”
Thời Đại Cuối Cùng(C)
7 Họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, khi nào những biến cố đó sẽ xảy ra và dấu hiệu khi những điều này sắp xảy đến là gì?”
8 Ngài đáp: “Hãy cảnh giác để các con khỏi bị lừa vào con đường lầm lạc. Vì nhiều kẻ sẽ mạo danh Ta mà đến, tự xưng, ‘Ta đây là Chúa Cứu Thế’[a] và bảo ‘ngày tận thế đã gần!’[b] Các con đừng theo họ! 9 Khi các con nghe tin chiến tranh và loạn lạc, thì đừng khiếp sợ, vì những việc ấy phải xảy ra trước, nhưng ngày tận thế chưa đến ngay đâu.”
10 Ngài tiếp: “Dân này sẽ nổi lên chống dân khác; nước nọ nghịch nước kia; 11 sẽ có những trận động đất lớn; nhiều nơi bị nạn dịch và nạn đói xảy ra; cũng có những biến cố kinh hoàng và các dấu lạ lớn trên trời.
12 Nhưng trước khi các việc ấy xảy ra, người ta sẽ tra tay bắt bớ, bách hại các con, giải nộp các con đến các hội đường và ngục thất; các con sẽ bị đem ra trước các vua chúa, thống đốc vì danh Ta. 13 Đây sẽ là cơ hội để các con làm chứng, 14 nên các con hãy ghi nhớ: Đừng lo nghĩ trước phải đối đáp như thế nào, 15 vì chính Ta sẽ cho các con lời nói[c] và sự khôn ngoan mà không một kẻ thù nào có thể chống nổi hoặc bài bác được. 16 Các con sẽ bị cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu phản nộp; họ sẽ giết một số người trong các con. 17 Các con sẽ bị mọi người ghen ghét vì danh Ta. 18 Nhưng không một sợi tóc nào trên đầu các con sẽ bị mất. 19 Nhờ kiên trì các con sẽ giữ được linh hồn mình.”[d]
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)