M’Cheyne Bible Reading Plan
4 Sau đó lời của Sa-mu-ên được truyền lại cho toàn dân I-sơ-ra-ên.
Rương Giao Ước Bị Ðoạt Mất
Lúc ấy dân I-sơ-ra-ên ra nghênh chiến với dân Phi-li-tin và đóng trại gần Ê-bên-ê-xe; còn dân Phi-li-tin đóng trại tại A-phéc. 2 Dân Phi-li-tin dàn trận tấn công dân I-sơ-ra-ên. Khi hai bên giao chiến với nhau, dân I-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin đánh bại và bị giết khoảng bốn ngàn người tại chiến trường.
3 Khi dân trở về trại, các trưởng lão của I-sơ-ra-ên nói, “Tại sao ngày nay Chúa để cho chúng ta bị dân Phi-li-tin đánh bại? Chúng ta hãy thỉnh Rương Giao Ước của Chúa ở Si-lô về đây với chúng ta. Khi Rương ấy ở giữa chúng ta, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi tay quân thù.”
4 Vậy dân sai người đến Si-lô rước Rương Giao Ước của Chúa các đạo quân, Ðấng ngự giữa các chê-ru-bim, từ nơi đó đến với trại quân. Có hai con trai của Hê-li là Hóp-ni và Phi-nê-a đi theo Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời. 5 Khi Rương Giao Ước của Chúa vào trong trại quân, toàn dân I-sơ-ra-ên reo hò lớn tiếng đến nỗi đất rúng động. 6 Khi dân Phi-li-tin nghe tiếng reo hò, họ nói, “Có chuyện gì trong trại quân Hê-bơ-rơ mà có tiếng reo hò vang dội như vậy?” Sau đó họ hiểu rằng Rương Giao Ước của Chúa đã đến trong trại quân. 7 Vậy dân Phi-li-tin sợ hãi. Họ nói với nhau, “Các vị thần[a] đã đến trong trại quân rồi!” Họ lại nói, “Khốn thay cho chúng ta! Việc như thế chưa hề xảy ra bao giờ. 8 Khốn thay cho chúng ta! Ai sẽ cứu chúng ta khỏi tay các vị thần vạn năng như thế? Ðó là các vị thần đã đánh hạ người Ai-cập bằng mọi thứ bịnh dịch trong đồng hoang. 9 Hỡi người Phi-li-tin, hãy can đảm lên, hãy chứng tỏ bản lĩnh trượng phu của mình, để anh em khỏi phải trở thành nô lệ của bọn Hê-bơ-rơ như chúng đang làm nô lệ cho chúng ta. Hãy chứng tỏ bản lĩnh trượng phu của mình và hãy chiến đấu!”
10 Vậy dân Phi-li-tin đã hết lòng chiến đấu và đã đánh bại dân I-sơ-ra-ên. Ai nấy đều bỏ chạy về trại mình. Trận đánh đó đã trở thành một cuộc tàn sát khủng khiếp. Phía I-sơ-ra-ên đã có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. 11 Rương của Ðức Chúa Trời bị đoạt mất. Hai con trai của Hê-li là Hóp-ni và Phi-nê-a đều bị giết.
Hê-li Qua Ðời
12 Ngày hôm đó một người Bên-gia-min ở chiến trường chạy về Si-lô, quần áo tả tơi, đầu đầy bụi đất. 13 Khi người ấy về đến nơi, thì nầy, Hê-li đang ngồi trên ghế bên đường trông ngóng, vì lòng ông bồn chồn lo lắng cho Rương của Ðức Chúa Trời. Người ấy vào trong thành và báo tin, cả thành đều bật lên gào khóc. 14 Khi Hê-li nghe tiếng gào khóc, ông hỏi, “Có chuyện gì mà náo động lên như thế?” Người ấy vội vàng đến báo cho Hê-li hay. 15 Lúc ấy Hê-li đã chín mươi tám tuổi, mắt ông đã làng nên ông không thể trông thấy được nữa. 16 Người ấy thưa với Hê-li, “Con là người vừa từ chiến trường trở về. Con từ mặt trận chạy thoát được và vừa về đến đây hôm nay.”
Ông hỏi, “Hỡi con, chuyện gì đã xảy ra?”
17 Người mang tin đó trả lời và nói, “Dân I-sơ-ra-ên đã chạy trốn trước mặt dân Phi-li-tin. Dân ta đã bị tàn sát khủng khiếp. Hai con trai của cụ là Hóp-ni và Phi-nê-a đều đã tử trận. Rương của Ðức Chúa Trời đã bị địch quân cướp mất rồi.”
18 Khi Hê-li nghe nói Rương của Ðức Chúa Trời đã bị địch quân cướp mất –lúc ấy ông đang ngồi trên ghế, bên cổng thành– ông ngã ngửa ra phía sau, gãy cổ, và qua đời. Lúc ấy ông đã rất già và lại nặng cân nữa. Ông đã xét xử trong I-sơ-ra-ên bốn mươi năm.
Con Dâu của Hê-li Qua Ðời
19 Khi ấy con dâu của ông, tức vợ của Phi-nê-a, đang có thai và sắp sinh. Khi bà nghe tin Rương của Ðức Chúa Trời đã bị cướp, cha chồng và chồng đều đã chết, bà khuỵu xuống và sinh con, vì cơn chuyển bụng đột xuất đến với bà. 20 Trong khi bà sắp qua đời, các phụ nữ đứng bên cạnh nói, “Ðừng sợ, vì bà vừa sinh được một con trai.” Nhưng bà không đáp và cũng chẳng màng gì đến việc ấy. 21 Bà đặt tên cho đứa trẻ là I-ca-bốt[b] và nói, “Vinh hiển đã lìa khỏi I-sơ-ra-ên!” vì Rương của Ðức Chúa Trời đã bị đoạt mất và vì cha chồng và chồng của bà đều đã chết. 22 Bà nói tiếp, “Vinh hiển đã lìa khỏi I-sơ-ra-ên, vì Rương của Ðức Chúa Trời đã bị cướp mất.”
Gương của Áp-ra-ham
4 Vậy chúng ta sẽ nói gì về tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta theo phần xác đã được? 2 Vì nếu nhờ vào việc làm mà Áp-ra-ham đã được xưng công chính thì ông có lý do để tự hào; nhưng ông không thể tự hào trước mặt Ðức Chúa Trời được, 3 vì Kinh Thánh đã nói gì?
“Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, và vì thế ông được kể là công chính.”
4 Thế thì, đối với người làm việc, tiền công không phải là ơn huệ, nhưng là món nợ chủ phải trả. 5 Nhưng đối với người không cậy vào việc làm, mà chỉ tin vào Ðấng làm cho người có tội được xưng công chính, thì đức tin của người ấy được kể là yếu tố giúp người ấy được xưng công chính. 6 Ðó cũng là điều Ða-vít đã nói về phước hạnh của người được Ðức Chúa Trời kể là công chính mà không nhờ cậy vào việc làm,
7 “Phước cho người được tha những vi phạm mình, được khỏa lấp những tội lỗi mình.
8 Phước cho người được Chúa không kể tội của mình.”
Áp-ra-ham Ðược Xưng Công Chính Không Nhờ Phép Cắt Bì
9 Phải chăng phước hạnh ấy chỉ dành cho những người được cắt bì, hay cũng cho những người không được cắt bì nữa? Vì nếu chúng ta nói rằng,
“Nhờ đức tin mà Áp-ra-ham được kể là công chính,”
10 thì nếu vậy, ông ta được kể là công chính như thế nào? Lúc ông đã được cắt bì rồi, hay lúc ông chưa được cắt bì?
Không phải sau khi ông đã được cắt bì đâu, nhưng là trước khi ông được cắt bì. 11 Ông đã nhận dấu cắt bì như một dấu ấn của việc được xưng công chính nhờ đức tin trong khi ông còn là một người chưa được cắt bì, để ông có thể làm tổ phụ của tất cả những người có đức tin dù không được cắt bì, hầu họ cũng được kể là công chính. 12 Cũng vậy, ông là tổ phụ của những người được cắt bì, tức những người không những chỉ được cắt bì nhưng cũng bước theo những bước đức tin mà ông, tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta, đã trải qua trong lúc ông chưa được cắt bì.
Áp-ra-ham Ðược Xưng Công Chính Không Nhờ Vâng Giữ Luật Pháp
13 Vì không phải nhờ vâng giữ Luật Pháp mà Áp-ra-ham hay dòng dõi ông được lời hứa sẽ nhận thế gian làm cơ nghiệp, nhưng là nhờ được xưng công chính bởi đức tin. 14 Vì nếu nhờ vâng giữ Luật Pháp mà được thừa hưởng cơ nghiệp thì đức tin đã trở thành vô ích, và lời hứa đã bị vô hiệu hóa. 15 Vì Luật Pháp sẽ đem cơn thịnh nộ đến với người phạm pháp; và chỉ nơi nào không có Luật Pháp, nơi đó mới không có sự phạm pháp.
16 Thế thì nhờ đức tin tiếp nhận ân sủng mà lời hứa được bảo đảm cho cả dòng dõi của Áp-ra-ham, không những chỉ cho dòng dõi ở dưới Luật Pháp, nhưng cũng cho dòng dõi đức tin của ông nữa. Ông chính là tổ phụ của tất cả chúng ta, (17 như có chép rằng,
“Ta đã lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc”
trước mặt Ðức Chúa Trời, Ðấng ông tin có quyền làm cho kẻ chết sống lại và ra lịnh[a] cho những gì chưa hiện hữu trở thành hiện hữu.
Ðức Tin của Áp-ra-ham và Ðức Tin của Chúng Ta
18 Mặc dù Áp-ra-ham[b] không còn gì để hy vọng, ông vẫn hy vọng và vẫn tin rằng ông sẽ trở thành
“Cha của nhiều dân tộc,”
theo như lời đã phán với ông rằng,
“Dòng dõi ngươi sẽ đông như thế.”
19 Ðức tin của ông không hề suy giảm, mặc dù thân thể ông coi như đã chết, vì lúc ấy ông đã gần một trăm tuổi, và dạ bà Sa-ra không còn thể sinh con.[c] 20 Nhưng đối với lời hứa của Ðức Chúa Trời, ông không hề nao núng đức tin mà nghi ngờ gì cả,[d] nhưng càng tin tưởng mãnh liệt hơn, và như thế đã đem vinh hiển về cho Ðức Chúa Trời. 21 Ông tin quả quyết rằng Ðức Chúa Trời có khả năng làm thành những gì Ngài đã hứa. 22 Vì thế ông đã được kể là người công chính.
23 Nhưng khi viết rằng, “ông đã được kể là người công chính,” thì điều ấy không những chỉ nói về một mình ông, 24 nhưng cũng nói về chúng ta nữa. Chúng ta cũng sẽ được kể là những người công chính khi chúng ta tin Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Jesus, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại. 25 Ngài đã bị nộp để chết vì tội chúng ta và đã được làm cho sống lại, để chúng ta được xưng công chính.
Chúa Bảo Chớ Xuống Ai-cập
42 Bấy giờ tất cả lãnh tụ các lực lượng kháng chiến, Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, A-xa-ri-a[a] con của Hô-sai-a, và mọi người từ nhỏ đến lớn, đều đến với 2 Tiên Tri Giê-rê-mi và nói, “Xin ông nhận lời yêu cầu của chúng tôi và làm ơn cầu nguyện với Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, cho chúng tôi, là tất cả những người còn sót lại đây, vì từ một dân đông đúc mà bây giờ chúng tôi chỉ còn lại một ít người này, như mắt ông đã thấy. 3 Nguyện Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, chỉ cho chúng tôi biết chúng tôi phải đi đâu và làm gì.”
4 Tiên Tri Giê-rê-mi trả lời họ, “Ðược. Này, tôi sẽ cầu nguyện với Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, cho anh chị em, như lời anh chị em yêu cầu. Hễ Chúa trả lời cho anh chị em như thế nào, tôi sẽ nói lại cho anh chị em thể ấy. Tôi sẽ không giữ lại điều gì mà không nói ra hết cho anh chị em biết.”
5 Họ nói lại với Giê-rê-mi, “Nguyện Chúa, Ðấng chân thật và thành tín, làm chứng cho chúng ta nếu chúng tôi không làm theo mọi điều mà Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, đã sai ông báo cho chúng tôi. 6 Bất kể việc đó lành hay dữ thế nào chúng tôi quyết sẽ vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, Ðấng chúng tôi đã nhờ ông cầu thay, để chúng tôi sẽ được phước khi vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta.”
7 Sau mười ngày, lời của Chúa đến với Giê-rê-mi. 8 Bấy giờ ông mời Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, tất cả lãnh tụ các lực lượng kháng chiến đi với ông ấy, và mọi người từ nhỏ đến lớn đến, 9 rồi ông nói với họ, “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng anh chị em đã nhờ tôi trình dâng lời cầu xin của anh chị em trước mặt Ngài, phán thế này, 10 ‘Nếu các ngươi cứ ở lại trong xứ thì Ta sẽ xây dựng các ngươi lên chứ không kéo đổ các ngươi xuống. Ta sẽ trồng ngươi xuống, chứ không nhổ các ngươi lên, vì Ta lấy làm tiếc về tai họa Ta đã giáng trên các ngươi. 11 Chớ sợ vua Ba-by-lôn như các ngươi đang sợ; chớ sợ nó,’ Chúa phán, ‘vì Ta ở với các ngươi, để cứu các ngươi và giải thoát các ngươi khỏi tay nó. 12 Ta sẽ thương xót các ngươi, và khiến nó thương xót các ngươi và cho các ngươi trở về xứ của các ngươi. 13 Nhưng nếu các ngươi nói, “Chúng tôi sẽ không ở trong xứ này đâu,” như thế các ngươi không vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi, 14 và nói rằng, “Không, chúng tôi sẽ đi đến đất Ai-cập, nơi đó chúng tôi sẽ không còn thấy chiến tranh, hoặc phải nghe tiếng kèn xung trận, hoặc phải lo không có bánh ăn, và đó là nơi chúng tôi sẽ đến ở.”’ 15 Nếu thế thì hỡi những kẻ còn sót lại của Giu-đa, hãy nghe lời của Chúa. Chúa các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán thế này, ‘Nếu các ngươi quyết định di cư vào Ai-cập và đến định cư ở đó, 16 thì gươm giáo các ngươi sợ sẽ đuổi theo các ngươi đến đó, trong đất Ai-cập, nạn đói các ngươi sợ sẽ theo sát các ngươi vào Ai-cập, và các ngươi sẽ chết tại đó. 17 Tất cả những kẻ quyết định đi đến Ai-cập để sống ở đó sẽ bị gươm giáo, nạn đói, và ôn dịch mà chết ở đó. Sẽ không còn ai sống sót hoặc thoát khỏi tai họa Ta sẽ giáng trên chúng.’ 18 Vì Chúa các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán thế này, ‘Như cơn giận của Ta và cơn thịnh nộ của Ta giáng xuống trên dân cư Giê-ru-sa-lem thể nào, cơn thịnh nộ của Ta cũng sẽ giáng xuống trên các ngươi khi các ngươi đi đến Ai-cập cũng thể ấy. Các ngươi sẽ thành một đối tượng để bị khinh bỉ, gớm ghiếc, nguyền rủa, và sỉ nhục. Các ngươi sẽ không được thấy xứ này nữa.’
19 Hỡi những người còn sót lại của Giu-đa, Chúa phán với anh chị em, ‘Chớ đi đến Ai-cập.’ Hãy biết rằng ngày nay tôi đã báo trước cho anh chị em rồi. 20 Anh chị em đã sai lầm rất nghiêm trọng, vì anh chị em đã nhờ tôi đến với Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, mà rằng, ‘Hãy cầu nguyện với Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, cho chúng tôi. Bất cứ điều gì Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, phán bảo, xin nói lại với chúng tôi, chúng tôi sẽ làm theo.’ 21 Thế nhưng ngày nay sau khi tôi nói lại với anh chị em, anh chị em lại quyết định không vâng lời của Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, mà không làm theo bất cứ điều gì Ngài sai tôi nói với anh chị em. 22 Vì vậy khá biết rằng anh chị em sẽ chết bằng gươm giáo, nạn đói, và ôn dịch ở nơi anh chị em muốn đến và định cư.”
Ca Ngợi Ðức Chúa Trời vì Ngài Ðã Giải Cứu
Thơ của Ða-vít tôi tớ CHÚA
Cho Trưởng Ban Nhạc
Ông dâng lên Chúa những lời này trong ngày Chúa giải cứu ông khỏi tay quân thù của ông và khỏi tay của Sau-lơ. Ông nói:
1 Chúa ôi, con yêu kính Ngài,
Ngài là sức mạnh của con.
2 Chúa là vầng đá của tôi, đồn lũy của tôi, và Ðấng Giải Cứu của tôi.
Ðức Chúa Trời của tôi là vầng đá của tôi; tôi nương náu trong Ngài.
Ngài là thuẫn khiên của tôi, sừng cứu rỗi của tôi, và thành trì của tôi.
3 Tôi kêu cầu Chúa, Ðấng xứng đáng được ca ngợi,
Và tôi được giải cứu khỏi các kẻ thù của mình.
4 Các dây sự chết đã quấn lấy tôi;
Những dòng hủy diệt làm tôi sợ hãi.
5 Các dây âm phủ đã vướng vào tôi;
Các bẫy của tử thần ở trước mặt tôi.
6 Trong cảnh nguy nan, tôi kêu cầu với Chúa,
Tôi kêu xin Ðức Chúa Trời của tôi giải cứu.
Từ đền thánh Ngài, Ngài đã nghe tiếng tôi;
Tiếng cầu xin của tôi đã thấu đến tai Ngài.
7 Bấy giờ đất rúng động và rung chuyển;
Các nền của núi đồi chấn động và rung rinh,
Vì Ngài đã nổi giận.
8 Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài,
Lửa hừng thiêu đốt thoát ra từ miệng Ngài,
Các than cháy bừng từ đó bắn ra.
9 Ngài nghiêng các tầng trời ngự xuống;
Mây đen che dưới chân Ngài.
10 Ngài ngự trên một thiên thần phục vụ[a] và bay đi;
Ngài bay cực nhanh trên cánh gió.
11 Ngài khiến bóng tối che kín chung quanh Ngài;
Trướng che Ngài là mưa đen tuôn đổ từ áng mây mù.
12 Từ trong hào quang rực rỡ trước mặt Ngài
Mưa đá và sét chớp kinh hoàng bắn xuyên qua tầng mây đen kịt.
13 Chúa khiến sấm nổ vang rền khắp bầu trời;
Ðấng Tối Cao lên tiếng, mưa đá và thiên thạch rực lửa đổ xuống.
14 Ngài bắn các mũi tên ra, quân thù chạy tán loạn;
Ngài phát chớp nhoáng ào ào, chúng vọt chạy tứ tung.
15 Chúa ôi, khi Ngài quở trách,
Khi Ngài nhảy mũi, khi hơi từ lỗ mũi Ngài thoát ra,
Các đáy biển liền lộ ra,
Các nền địa cầu đều bày rõ.
16 Từ trời cao Ngài vói tay xuống nắm lấy tôi;
Ngài kéo tôi ra khỏi luồng nước mạnh đang cuốn hút tôi.
17 Ngài giải cứu tôi khỏi kẻ thù mạnh mẽ của tôi,
Và khỏi những kẻ ghét tôi, những kẻ mạnh hơn tôi.
18 Trong ngày hoạn nạn, chúng chận đường đón bắt tôi,
Nhưng Chúa đã giúp đỡ tôi.
19 Ngài đã đem tôi đến một nơi an toàn thoải mái;
Ngài đã giải cứu tôi, vì Ngài thấy tôi đẹp lòng Ngài.
20 Chúa đã đối xử với tôi theo sự ngay lành của tôi;
Ngài đã ban thưởng cho tôi theo sự trong sạch của tay tôi.
21 Vì tôi đã vâng giữ các đường lối Chúa;
Tôi đã không sa đọa mà lìa bỏ Ðức Chúa Trời mình.
22 Vì các mạng lịnh Ngài hằng ở trước mặt tôi;
Các luật lệ Ngài tôi không bao giờ từ bỏ;
23 Vì tôi đã cố giữ mình để được trọn vẹn trước mặt Ngài,
Và giữ lấy mình để khỏi chuốc lấy mặc cảm tội lỗi.
24 Vì vậy Chúa đã ban thưởng cho tôi theo sự ngay lành của tôi,
Theo sự trong sạch của tay tôi trước thánh nhan Ngài.
25 Ðối với người có lòng thương xót, Ngài bày tỏ Ngài là Đấng thương xót;[b]
Ðối với người trọn vẹn, Ngài bày tỏ Ngài là Đấng trọn vẹn;
26 Ðối với người trong sạch, Ngài bày tỏ Ngài là Đấng trong sạch;
Nhưng đối với những kẻ gian manh, Ngài cho chúng biết chúng không thể qua mặt được Ngài,[c]
27 Vì Ngài cứu giúp những người khiêm nhường,
Nhưng Ngài đánh cho đổ xuống những cặp mắt kiêu căng.
28 Thật vậy chính Ngài sẽ thắp cho đèn con sáng lên;
Chính Chúa, Ðức Chúa Trời của con, biến hoàn cảnh đen tối của con trở nên sáng sủa.
29 Nhờ Ngài con có thể xông qua một đạo quân;
Nhờ Ðức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua được tường thành.
30 Ðức Chúa Trời ôi, đường lối Ngài thật hoàn hảo;
Lời Chúa quả linh nghiệm vô cùng.
Ngài là thuẫn khiên cho những ai nương cậy nơi Ngài.
31 Thật vậy, ngoài Chúa ra, ai có thể xứng đáng làm Ðức Chúa Trời?
Ngoài Ðức Chúa Trời ra, ai có thể xứng đáng làm Vầng Ðá?
32 Ðức Chúa Trời trang bị cho tôi bằng sức mạnh;
Ngài làm cho đường lối tôi trở nên trọn vẹn.
33 Ngài làm cho chân tôi nhanh nhẹn tựa chân nai;
Ngài lập tôi được vững vàng trên những nơi cao.
34 Ngài luyện tập tay tôi cho ngày chiến trận,
Ðể đôi tay tôi có thể giương nổi một cây cung đồng.
35 Ngài đã ban cho con ơn cứu rỗi của Ngài để làm thuẫn khiên;
Tay phải Ngài nâng đỡ con;
Cách Ngài đối xử dịu dàng với con đã làm cho con được tôn trọng.
36 Ngài đã mở rộng nơi bàn chân con sắp bước đến;
Ðể mắt cá con không bị hụt hẫng trợt nghiêng.
37 Con đuổi theo quân thù của con và bắt kịp chúng;
Con chẳng quay về cho đến khi chúng bị tiêu diệt hoàn toàn.
38 Con đập tan chúng, và chúng không trỗi dậy được nữa;
Chúng đã bị ngã gục dưới chân con.
39 Ngài đã nai nịt con bằng sức mạnh để ra trận;
Ngài đã làm cho kẻ nổi dậy đánh con phải quỳ lạy dưới chân con.
40 Ngài đã khiến kẻ thù của con quay lưng chạy trốn;
Ngài đã cho phép con tiêu diệt kẻ ghét con.
41 Chúng kêu cứu, nhưng chẳng ai giải cứu;
Chúng kêu cầu Chúa, nhưng Ngài chẳng đáp lời.
42 Con nghiền nát chúng như bụi bay trước gió;
Con đổ chúng ra như bùn đổ ngoài đường.
43 Ngài đã giải cứu con khỏi các đợt tấn công của thiên hạ;
Ngài đã lập con làm thủ lãnh các quốc gia;
Những người con không biết nay phục vụ con.
44 Vừa khi nghe đến con, họ đã vội vàng vâng phục;
Những người ngoại quốc đầu phục con.
45 Quân đội ngoại bang đều hồn phi phách tán;
Từ trong các chiến lũy chúng run rẩy kéo ra hàng.
46 Chúa là Đấng hằng sống!
Chúc tụng Vầng Ðá của con!
Nguyện Ðức Chúa Trời, Ðấng Giải Cứu của con, được tôn cao!
47 Ðức Chúa Trời đã báo thù cho con;
Ngài đã khiến các dân phải khuất phục dưới quyền con.
48 Ngài đã giải cứu con khỏi những kẻ thù ghét con.
Quả thật Ngài đã nhấc con lên trên những kẻ chống nghịch con;
Ngài đã giải cứu con thoát khỏi những kẻ hung tàn.
49 Vì thế Chúa ôi, con sẽ ca ngợi Ngài giữa các dân;
Con sẽ hát ca chúc tụng danh Ngài.
50 Ngài ban chiến thắng lớn cho người Ngài lập làm vua,
Và bày tỏ ơn thương xót đối với người được xức dầu của Ngài,
Tức với Ða-vít và dòng dõi người đời đời.
Copyright © 2011 by Bau Dang