M’Cheyne Bible Reading Plan
Dòng dõi Y-xa-ca
7 Y-xa-ca có bốn con trai: Tô-la, Phu-a, Gia-xúp, và Sim-rôn.
2 Các con trai của Tô-la là U-xi, Rê-phai-gia, Giê-ri-ên, Gia-mai, Íp-xam, và Sa-mu-ên. Họ đều là chủ gia đình. Trong gia phổ về dòng dõi Tô-la có liệt kê hai mươi hai ngàn sáu trăm trai tráng làm chiến sĩ trong thời Đa-vít làm vua.
3 U-xi con Y-ra-hia. Các con trai của Y-ra-hia là Mi-chên, Áp-đia, Giô-ên, và Ích-xa. Tất cả năm người nầy đều là thủ lãnh. 4 Gia phổ của họ có ghi ba mươi sáu ngàn trai tráng sẵn sàng nhập quân ngũ vì họ có nhiều vợ và con.
5 Gia phổ của họ hàng Y-xa-ca cho thấy có tám mươi bảy ngàn chiến sĩ.
Dòng dõi Bên-gia-min
6 Bên-gia-min có ba con trai: Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-ên.
7 Bê-la có năm con trai: Ếch-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và Y-ri. Tất cả đều là trưởng gia đình. Gia phổ cho thấy họ có hai mươi hai ngàn ba mươi bốn chiến sĩ.
8 Các con trai của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-xe, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-thốt, và A-lê-mết. Tất cả đều là con của Bê-ke. 9 Gia phổ họ liệt kê các trưởng gia đình và hai mươi ngàn hai trăm chiến sĩ.
10 Con trai của Giê-đi-a-ên là Binh-hanh. Các con trai của Binh-hanh là Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-a-na, Xê-than, Ta-rê-si, và A-hi-sa-ha. 11 Tất cả các con trai nầy của Giê-đi-a-ên đều là trưởng gia đình. Họ có mười bảy ngàn hai trăm chiến sĩ sẵn sàng gia nhập quân ngũ.
12 Những người Súp-bít và Húp-bít là dòng dõi của Y-ra, và người Hu-sít là dòng dõi của A-he.
Dòng dõi Nép-ta-li
13 Các con trai của Nép-ta-li là Gia-xi-ên, Gu-ni, Giê-xe, và Sa-lum. Họ là cháu của Bi-la [a].
Dòng dõi Ma-na-xe
14 Sau đây là dòng dõi Ma-na-xe.
Ma-na-xe có một vợ lẽ người A-ram sinh ra Át-ri-ên và Ma-kia. Ma-kia sinh Ghi-lê-át. 15 Ma-kia lấy một người vợ thuộc dân Hu-bít và Su-bít. Chị ông tên Ma-a-ca. Con thứ hai của ông tên Xê-lô-phê-hát. Người nầy chỉ có con gái thôi. 16 Ma-a-ca vợ Ma-kia có một con trai đặt tên Phê-rết. Em trai Phê-rết là Sê-rết. Các con trai của Sê-rết là U-lam và Ra-kem.
17 Con trai U-lam là Bê-đan.
Đó là các con trai của Ghi-lê-át, con Ma-kia. Ma-kia là con Ma-na-xe. 18 Ham-mô-lê-kết [b], chị Ma-kia sinh Ích-hốt, A-bi-ê-xe, và Ma-la.
19 Các con trai của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-chem, Li-khi, và A-ni-am.
Dòng dõi Ép-ra-im
20 Sau đây là tên tuổi của con cháu Ép-ra-im. Con trai Ép-ra-im là Su-thê-la. Con Su-thê-la là Bê-rết. Con Bê-rết là Ta-hát. Con Ta-hát là Ê-lê-a-đa. Con Ê-lê-a-đa là Ta-hát. 21 Con Ta-hát là Xa-bách. Con Xa-bách là Su-thê-la.
Ê-xe và Ê-li-át đến Gát để ăn cắp bò và chiên nên bị dân thành đó giết chết. 22 Cha họ là Ép-ra-im than khóc các con mình trong nhiều ngày. Gia đình ông đến an ủi ông. 23 Rồi ông ăn nằm với vợ mình, nàng thụ thai và sinh một con trai mà Ép-ra-im đặt tên là Bê-ria [c] vì chuyện lôi thôi xảy ra cho gia đình ông. 24 Con gái Ép-ra-im là Sê-ê-ra. Nàng xây vùng Hạ-Bết Hô-rôn, vùng Thượng Bết-Hô-rôn, và U-xen Sê-ê-ra.
25 Rê-pha là con trai Ép-ra-im. Rê-sếp con Rê-pha. Tê-la con Rê-sếp. Ta-han con Tê-la. 26 La-đan con Ta-han. Am-mi-hút con La-đa. Ê-li-sa-ma con Am-mi-hút. 27 Nun con Ê-li-sa-ma, và Giô-suê con trai của Nun.
28 Dòng dõi Ép-ra-im cư ngụ trong các vùng đất và thị trấn sau đây: Bê-tên và các làng gần đó, Na-a-ran về phía đông, Ghê-xe và các làng về phía tây gần đó, Sê-chem và các làng gần đó. Các làng nầy chạy dài đến Ai-gia và các làng ở đó. 29 Dọc theo ranh giới đất Ma-na-xe có các thị trấn Bết-San, Ta-a-nách, Mê-ghi-đô, và Đô-rơ cùng các làng gần đó. Con cháu Giô-xép, con trai Ít-ra-en, cư ngụ trong các thị trấn nầy.
Dòng dõi A-xe
30 Các con trai A-xe là Im-na, Ích-va, Ích-vi, và Bê-ria. Chị của họ là Sê-ra.
31 Các con trai Bê-ria là Hê-be và Manh-kiên. Manh-kiên sinh Biết-xa-ít.
32 Hê-be sinh Giáp-lết, Sô-me, Hốt-tham, và chị của họ là Sua.
33 Các con trai Giáp-lết là Ba-sách, Bim-hanh, và Át-vát. Tất cả đều là con Giáp-lết.
34 Em của Giáp-lết là Sô-me. Các con trai Sô-me là Rô-ga, Húp-ba [d], và A-ram.
35 Em của Sô-me là Hô-tham. Các con trai Hô-tham là Xô-pha, Im-na, Sê-lết và A-manh.
36 Các con trai của Xô-pha là Su-a, Ha-nê-phe, Su-anh, Bê-ri, Im-ra,
37 Bê-xe, Hốt, Sam-ma, Sinh-sa, Ít-ran, và Bê-e-ra.
38 Các con trai Gie-thê là Giê-phu-nê, Bích-ba, và A-ra.
39 Các con trai Un-la là A-ra, Han-niên, và Ri-xia.
40 Tất cả những người đó là con cháu A-xe và là trưởng gia đình. Họ đều là những chiến sĩ anh dũng và lãnh tụ tài ba. Gia phổ họ ghi hai mươi sáu ngàn binh sĩ sẵn sàng gia nhập quân ngũ.
Gia phổ của vua Sau-lơ
8 Bên-gia-min sinh Bê-la, con trưởng nam. Con kế là Át-bên, và con thứ ba là A-ha-ra. 2 Nô-ha là con thứ tư, và Ra-pha là con thứ năm.
3 Các con trai Bê-la là A-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, 4 A-bi-sua, Na-a-man, A-hoa, 5 Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram.
6 Những người nầy là con cháu Ê-hút và là trưởng gia đình của họ ở Ghê-ba. Họ buộc phải dời đến Ma-na-hát. 7 Các con cháu của Ê-hút là Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra. Ghê-ra buộc họ phải dời đi. Ông là cha U-xa và A-hi-hút.
8-11 Sa-ha-ra-im và vợ là Hu-sim sinh các con trai tên A-bi-túp và Ên-ba-anh. Ở Mô-áp, Sa-ha-ra-im ly dị các vợ mình là Hu-sim và Ba-a-ra. Sa-ha-ra-im và vợ là Hô-đết sinh ra các con trai sau đây: Giô-áp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, Giê-u, Xa-kia, và Miệt-ma. Tất cả đều là trưởng gia đình.
12-13 Các con Ên-ba-anh là Ê-be, Mi-sam, Sê-mết, Bê-ria, và Sê-ma. Sê-mết xây các thị trấn Ô-nô và Lót cùng các làng mạc xung quanh. Bê-ria và Sê-ma là trưởng các gia đình cư ngụ tại Ai-gia-lôn. Họ đuổi dân sống ở Gát-đi.
14 Các con trai Bê-ria là A-hi-ô, Sa-sắc, Giê-rê-mốt, 15 Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, 16 Mi-chên, Ích-ba, và Giô-ha. 17 Các con trai của Ên-ba-anh là Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, 18 Ích-mê-rai, Y-lai, và Giô-báp.
19 Các con trai của Si-mê-i là Gia-kim, Xích-ri, Xáp-đi, 20 Ê-li-ê-nai, Xi-lê-thai, Ê-li-ên, 21 A-đai-gia, Bê-rai-gia, và Sim-rát.
22 Các con trai của Sa-sắc là Ích-ban, Ê-be, Ê-li-ên, 23 Áp-đôn, Xích-ri, Ha-nan, 24 Ha-na-nia, Ê-lam, An-thô-thi-gia, 25 Íp-đê-gia, và Phê-nu-ên.
26 Các con trai của Giê-hô-ram là Sam-sê-rai, Sê-rai-gia, A-tha-lia, 27 Gia-a-rê-sai, Ê-li, và Xích-ri.
28 Gia phổ cho thấy các người nầy đều là trưởng gia đình và cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem.
29 Giê-i-ên cư ngụ ở thị trấn Ghi-bê-ôn, nơi ông làm thủ lãnh. Vợ ông tên Ma-a-ca. 30 Con trưởng nam của Giê-i-ên là Áp-đôn. Các con trai khác là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 31 Ghê-đo, A-hi-ô, Xê-ke, 32 và Mích-lốt. Mích-lốt sinh Si-mê-a. Các con trai nầy sống gần thân nhân của họ ở Giê-ru-sa-lem.
33 Nê-rơ sinh Kích. Kích sinh Sau-lơ, Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ết-Ba-anh.
34 Con trai của Giô-na-than là Mê-ríp Ba-anh, Mê-ríp Ba-anh sinh Mi-ca.
35 Các con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha.
36 A-cha sinh Giê-hô-a-đa. Giê-hô-a-đa sinh A-mê-lết, Ạc-ma-vết, và Xim-ri. Xim-ri sinh Mô-xa. 37 Mô-xa sinh Bi-nê-a. Ra-pha là con Bi-nê-a. Ê-lê-a-sa là con Ra-pha, và A-xên là con Ê-lê-a-sa.
38 A-xên có sáu con trai: A-ri-cam, Bô-kê-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ra-gia, Áp-đia, và Ha-nan. Tất cả những người đó là con trai A-xên.
39 Em của A-xên là Ê-séc. Con trưởng nam của Ê-séc là U-lam, con thứ nhì là Giê-úc, và Ê-li-phê-lết là con thứ ba. 40 Các con trai của U-lam đều là các chiến sĩ gan dạ và có tài bắn cung. Họ có rất đông con trai và cháu trai: tất cả một trăm năm mươi người. Những người trên đây là con cháu Bên-gia-min.
Các anh hùng đức tin
11 Đức tin là nắm chắc những gì mình hi vọng và vững tin vào những điều mình chưa thấy. 2 Đức tin khiến chúng ta nhớ lại các vĩ nhân xưa kia sống vừa lòng Thượng Đế.
3 Nhờ đức tin chúng ta biết cả vũ trụ được dựng nên bằng lời phán của Thượng Đế, cho nên vật hữu hình đều đến từ những cõi vô hình.
4 Cũng nhờ đức tin, A-bên dâng cho Thượng Đế một của lễ tốt hơn của Ca-in. Thượng Đế nói rằng Ngài vui nhận lễ vật của A-bên và gọi ông là người công chính vì đức tin của ông. Dù A-bên đã chết nhưng qua đức tin, ông vẫn còn đang nói.
5 Nhờ đức tin, Ê-nóc được tiếp về thiên đàng, không hề nếm cái chết. Không ai thấy ông nữa, vì Thượng Đế đã tiếp ông đi bởi vì trước khi được tiếp đi, Thánh Kinh nói rằng ông sống vừa lòng Thượng Đế. 6 Nếu không có đức tin thì không ai có thể sống vừa lòng Thượng Đế được. Ai đến cùng Ngài phải tin rằng có Thượng Đế và Ngài thưởng cho người thật lòng tìm kiếm Ngài.
7 Nhờ đức tin Nô-ê nghe lời Thượng Đế cảnh cáo về những điều ông chưa thấy. Ông vâng lời Ngài và đóng một chiếc tàu lớn để cứu gia đình mình. Nhờ đức tin, Nô-ê chứng tỏ thế gian sai lầm vì ông là người được giảng hòa với Ngài qua đức tin.
8 Nhờ đức tin, Áp-ra-ham vâng theo tiếng gọi của Thượng Đế đi đến một nơi Ngài hứa ban cho ông. Ông rời quê hương mà không biết mình sẽ đi đâu. 9 Qua đức tin mà ông sống như dân tạm trú trên xứ mà Thượng Đế hứa ban cho. Ông sống trong các lều giống như Y-sác và Gia-cốp là những người cùng nhận lời hứa từ Thượng Đế. 10 Áp-ra-ham chờ đợi một thành [a] có nền thật sự—do Thượng Đế vẽ kiểu và xây dựng.
11 Áp-ra-ham quá cao tuổi không thể nào có con, còn Sa-ra thì không thể sinh sản được. Nhưng nhờ đức tin ông đã sinh con vì ông tin Thượng Đế có quyền thực hiện được lời hứa của Ngài. 12 Do đó, từ một người già gần qua đời mà lại sinh ra vô số con cháu đông như sao trên trời, cát bãi biển, không thể đếm được.
13 Tất cả các vĩ nhân ấy đều chết trong đức tin, chưa nhận được điều Thượng Đế hứa cho dân Ngài nhưng chào mừng những điều ấy đang đến từ tương lai rất xa. Họ nhận mình là lữ khách xa lạ trên đất. 14 Những ai nói như thế đều chứng tỏ đang đi tìm quê hương. 15 Nếu họ tưởng nhớ đến quê hương mà họ đã ra đi thì họ đã có thể trở về rồi. 16 Nhưng trái lại, họ mơ ước một quê hương tốt hơn—trên thiên đàng. Cho nên Thượng Đế không xấu hổ mà nhận mình làm Thượng Đế của họ vì Ngài đã chuẩn bị cho họ một thành.
17 Cũng nhờ đức tin mà khi Thượng Đế thử nghiệm Áp-ra-ham, ông dâng con một của mình là Y-sác làm của lễ hi sinh. Tuy ông đã nhận lời hứa của Thượng Đế nhưng vẫn sẵn sàng dâng con mình làm sinh tế. 18 Thượng Đế phán cùng ông, “Dòng dõi mà ta đã hứa cho ngươi sẽ ra từ Y-sác.” [b] 19 Áp-ra-ham tin rằng Thượng Đế có thể khiến người chết sống lại và thật thế, việc ấy chẳng khác nào Áp-ra-ham nhận lại con mình từ chốn người chết.
20 Nhờ đức tin, Y-sác chúc phước cho tương lai của Gia-cốp và Ê-sau. 21 Cũng nhờ đức tin, Gia-cốp lúc sắp qua đời chúc phước cho các con trai của Gia-cốp. Rồi ông cúi mình bái lạy đang khi tì trên cây gậy.
22 Cũng nhờ đức tin, Giô-xép lúc sắp chết, nói đến việc dân Ít-ra-en ra khỏi nước Ai-cập và dặn dò về thân xác mình.
23 Nhờ đức tin, khi mới sinh, Mô-se được cha mẹ đem giấu trong ba tháng. Hai ông bà thấy con mình ngộ nghĩnh cho nên không sợ trái lệnh vua.
24 Nhờ đức tin, khi khôn lớn thì Mô-se từ bỏ danh hiệu là con trai của công chúa vua Ai-cập. 25 Ông chọn phần chịu khổ với dân của Thượng Đế thay vì tạm hưởng sự vui sướng nhất thời của tội lỗi. 26 Ông cho rằng chẳng thà chịu khổ vì Chúa Cứu Thế còn hơn là hưởng châu báu xứ Ai-cập vì ông trông mong phần thưởng từ Thượng Đế. 27 Cũng nhờ đức tin cho nên Mô-se rời bỏ xứ Ai-cập mà không sợ vua nổi giận. Mô-se đứng vững vàng như nhìn thấy Thượng Đế là Đấng không ai thấy được. 28 Qua đức tin Mô-se chuẩn bị lễ Vượt Qua và bôi huyết trên khung cửa để thiên sứ hủy diệt [c] không giết con trai đầu lòng của dân Ít-ra-en.
29 Nhờ đức tin mà dân chúng băng qua Hồng hải như đi trên đất khô. Nhưng khi người Ai-cập thử băng qua thì đều bị chết đuối hết.
30 Nhờ đức tin mà các tường thành Giê-ri-cô sập xuống sau khi dân chúng đi vòng quanh bảy ngày.
31 Nhờ đức tin mà Ra-háp, một cô gái làng chơi, đón tiếp các gián điệp cho nên cô không bị giết cùng với những kẻ không tin Thượng Đế.
32 Tôi có cần đưa thêm dẫn chứng nào khác nữa không? Tôi không đủ thì giờ để thuật cho anh chị em nghe về Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các nhà tiên tri. 33 Nhờ đức tin họ chiến thắng các vương quốc. Họ làm điều phải. Họ nhận lời hứa từ Thượng Đế và bịt mồm sư tử, 34 dập tắt ngọn lửa hừng và được cứu khỏi lưỡi gươm. Họ tuy yếu đuối nhưng lại mạnh mẽ. Họ can đảm trong chiến trận nên đánh bại các đạo quân thù. 35 Nhiều người đàn bà nhận thân nhân sống lại từ kẻ chết. Những người khác thà chịu bị hành hạ chứ không đổi lấy tự do để được sống lại vào một đời tốt đẹp hơn. 36 Một số bị nhạo cười, đánh đập. Kẻ khác bị xiềng xích và bị tống giam vào ngục tối. 37 Họ bị ném đá chết, bị cưa xẻ làm đôi, bị gươm giết. Người thì lang thang rày đây mai đó, phải che thân bằng da cừu, da dê. Họ khốn khổ, bị hành hạ và ngược đãi. 38 Thế gian nầy không xứng đáng cho họ! Họ lưu lạc trong sa mạc, rừng núi, sống trong hang hốc dưới đất.
39 Tất cả những người ấy đều được nổi danh vì đức tin, nhưng chưa ai trong họ nhận được điều Thượng Đế đã hứa. 40 Thượng Đế đã dự liệu cho chúng ta một điều tốt hơn để cho họ chỉ trở trên toàn thiện cùng với chúng ta mà thôi.
Bài ai ca cho Ít-ra-en
5 Hỡi Ít-ra-en hãy nghe bài ai ca ta hát về ngươi.
2 “Trinh nữ [a] Ít-ra-en đã ngã xuống,
sẽ không ngồi dậy nữa.
Nó còn lại trong xứ một mình,
không ai đỡ dậy.”
3 CHÚA phán như sau:
“Một ngàn người rời khỏi thành,
nhưng chỉ có một trăm người trở về.”
Chúa khuyên dân Ít-ra-en trở về với Ngài
4 Sau đây là lời CHÚA phán về dân [b] Ít-ra-en:
“Hãy trở lại cùng ta để được sống,
5 Đừng nhìn về Bê-tên,
hay đi đến Ghinh-ganh,
cũng đừng xuống Bê-e-sê-ba [c].
Dân Ghinh-ganh sẽ bị bắt làm tù binh [d],
Bê-tên sẽ không còn gì.”
6 Hãy đến cùng CHÚA để được sống,
nếu không Ngài sẽ ra tay
như lửa ào đến nhà Giô-xép [e].
Lửa sẽ thiêu đốt Bê-tên [f],
không ai dập tắt.
7 Ngươi làm đảo lộn công lý,
và ném lẽ phải xuống đất.
8 Thượng-Đế là Đấng tạo nên các chòm sao,
Sao Cày và Sao Rua [g];
Ngài biến đêm tối ra bình minh tươi sáng,
và biến ngày ra đêm tối.
Ngài gọi nước biển đến xối trên đất.
Danh Ngài là CHÚA.
9 Ngài giữ gìn thành lớn nầy,
Ngài để cho thành lớn kia bị tiêu diệt.
Những điều ác mà dân Ít-ra-en làm
Ngươi đổi điều thiện ra thuốc độc [h].
Ngươi diệt công lý, ném nó xuống đất.
10 Ngươi ghét những kẻ làm chứng trước toà nghịch lại điều ác,
Ngươi không chịu nổi kẻ nói sự thật.
11 Ngươi chà đạp kẻ nghèo,
bắt họ trao thóc gạo cho ngươi.
Ngươi xây nhà sang trọng bằng đá đẽo,
nhưng sẽ không được ở trong đó.
Ngươi trồng nhiều vườn nho xinh tốt,
nhưng sẽ không được uống rượu từ chúng.
12 Ngươi biết những tội ác mình,
những tội lỗi ghê gớm của mình.
Ngươi làm hại người làm lành,
và nhận tiền hối lộ để làm bậy,
Ngươi ngăn không cho kẻ nghèo có được công lý.
13 Trong khi đó kẻ khôn ngoan im lặng,
vì không phải lúc để nói.
14 Hãy làm lành, tránh ác để được sống,
thì CHÚA Toàn Năng sẽ ở cùng ngươi, như ngươi nói.
15 Hãy ghét điều ác, mến điều thiện;
hãy tỏ ra công bằng trước toà án.
Nguyện CHÚA là Thượng-Đế Toàn-Năng
tỏ lòng nhân từ cùng dân cư
còn sống sót của Giô-xép.
Thời kỳ sầu thảm sắp đến
16 Sau đây là lời CHÚA,
Thượng-Đế Toàn Năng phán:
“Người ta sẽ kêu khóc trong đường phố;
họ sẽ kêu lên nơi công cộng,
‘Ôi, còn nữa sao!’
Họ sẽ gọi các nông gia đến mà than khóc,
và thuê những kẻ khóc mướn [i].
17 Dân chúng sẽ than khóc về vườn nho,
vì ta sẽ đi qua giữa các ngươi
để trừng phạt các ngươi,” CHÚA phán vậy.
Ngày xét xử của Chúa
18 Khốn cho các ngươi là kẻ
mong ngày phán xử của CHÚA đến.
Sao các ngươi mong ngày ấy đến làm gì?
Nó sẽ mang bóng tối đến,
không phải ánh sáng đâu.
19 Ngày đó sẽ giống như kẻ chạy trốn khỏi sư tử
nhưng lại đụng đầu với gấu,
hay kẻ đi vào nhà đặt tay lên vách
nhưng bị rắn cắn.
20 Nên ngày phán xử của CHÚA
sẽ mang bóng tối đến,
không phải ánh sáng;
bóng tối mịt, không có chút sáng nào.
Chúa không chấp nhận lối thờ phụng của Ít-ra-en
21 CHÚA phán, “Ta rất ghét ngày lễ của các ngươi;
ta không chịu nổi các buổi họp đạo của các ngươi.
22 Khi các ngươi dâng của lễ thiêu
hay của lễ chay cho ta,
ta không chấp nhận.
Ngươi mang đến của lễ thân hữu
bằng gia súc mập béo nhất
nhưng ta không đếm xỉa tới.
23 Hãy dẹp các bài hát ồn ào của các ngươi khỏi ta đi!
Ta không muốn nghe tiếng đờn cầm của ngươi nữa.
24 Hãy để công lý chảy cuồn cuộn như sông,
hãy làm cho lòng nhân từ
chảy như suối không ngưng.
25 Hỡi Ít-ra-en, các ngươi đâu có dâng sinh tế và của lễ cho ta
khi ngươi lang thang trong sa mạc
suốt bốn mươi năm [j].
26 Mà ngươi mang theo mình vua của các ngươi,
thần Xa-cúc, và thần Cai-quan [k],
cùng các thần tinh tú [l] mà ngươi đã làm.
27 Cho nên ta sẽ khiến các ngươi
bị bắt làm tù binh,
và bị lưu đày đến mãi tận Đa-mách,”
CHÚA phán vậy.
Danh Ngài là Thượng-Đế Toàn-Năng.
Lu-ca thuật lại cuộc đời của Chúa Giê-xu
1 Nhiều người đã tường thuật những việc xảy ra giữa chúng ta. 2 Họ ghi lại những gì chúng ta đã nghe từ người khác là những người đã chứng kiến những việc ấy từ đầu, và phục vụ Thượng Đế bằng cách phổ biến lời của Chúa cho mọi người. 3 Thưa ngài Thi-ô-phi-lơ, vì tôi cũng đã nghiên cứu cẩn thận mọi việc từ đầu, nên tôi thấy cần phải thuật lại cho ngài. Tôi sắp xếp những chuyện ấy 4 để ngài biết điều mình đã học là xác thật.
Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét
5 Trong thời kỳ vua Hê-rốt cai trị xứ Giu-đia, có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri thuộc nhóm A-bi-gia [a]. Ê-li-xa-bét, vợ Xa-cha-ri thuộc dòng họ A-rôn. 6 Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét sống cuộc đời thánh thiện trước mặt Thượng Đế. Cả hai đều vâng giữ những lời dạy của Chúa và luật lệ Ngài một cách hoàn toàn, không chỗ nào chê trách được. 7 Nhưng hai ông bà không có con, vì Ê-li-xa-bét không thể sinh con được. Hơn nữa, cả hai người đều cao tuổi.
8 Một hôm Xa-cha-ri đang thi hành nhiệm vụ tế lễ trước mặt Thượng Đế, vì ngày đó là phiên của nhóm ông. 9 Theo tục lệ bắt thăm giữa các thầy tế lễ, Xa-cha-ri trúng thăm để vào đốt hương nơi đền thờ của Chúa. 10 Bên ngoài có rất đông người đang cầu nguyện trong giờ dâng hương. 11 Bỗng một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri, đứng bên phải bàn dâng hương. 12 Nhìn thấy thiên sứ, Xa-cha-ri giật mình hốt hoảng. 13 Nhưng thiên sứ trấn an, “Xa-cha-ri ơi, đừng sợ. Thượng Đế đã nghe lời cầu nguyện của ông rồi. Ê-li-xa-bét, vợ ông sẽ sinh một trai, ông hãy đặt tên là Giăng. 14 Con ấy sẽ mang niềm vui sướng cho ông, và nhiều người sẽ mừng rỡ vì nó ra đời. 15 Giăng sẽ làm một vĩ nhân cho Chúa; sẽ không uống rượu hay thức uống say, và ngay từ khi mới sinh ra đã được đầy dẫy Thánh Linh. 16 Giăng sẽ đưa nhiều người trong Ít-ra-en trở về với Thượng Đế là Chúa mình. 17 Người sẽ đi trước mặt Chúa với thần linh và năng quyền của Ê-li. Người sẽ làm cho cha mẹ và con cái hòa thuận với nhau, và đưa những kẻ bất phục tùng Thượng Đế trở về đường chánh, để chuẩn bị dân chúng chào mừng Chúa đến.”
18 Xa-cha-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao tôi biết được lời ông nói là đúng? Vì tôi đã cao tuổi rồi còn vợ tôi cũng không trẻ trung gì.”
19 Thiên sứ đáp, “Tôi là Gáp-ri-ên đứng trước mặt Thượng Đế. Ngài sai tôi đến để báo tin mừng nầy cho ông. 20 Bây giờ hãy nghe đây! Ông sẽ bị câm cho đến ngày những điều tôi nói được thành tựu, vì ông không tin điều tôi nói. Những điều ấy chắc chắn sẽ xảy ra.”
21 Bên ngoài dân chúng đứng chờ Xa-cha-ri. Họ ngạc nhiên vì Xa-cha-ri ở quá lâu trong đền thờ. 22 Khi ông đi ra thì Xa-cha-ri không nói được với họ. Dân chúng hiểu ngay là ông ta đã thấy chuyện lạ trong đền thờ. Ông chỉ có thể ra dấu cho họ trong khi vẫn câm. 23 Lúc mãn phiên phục vụ trong đền thờ, Xa-cha-ri trở về nhà.
24 Sau đó Ê-li-xa-bét, vợ Xa-cha-ri thụ thai. Bà ở biệt trong nhà suốt năm tháng trời. Ê-li-xa-bét nói rằng, 25 “Hãy xem điều Chúa đã làm cho tôi! Đồng bào tôi xấu hổ [b] về tôi nhưng Chúa đã lấy sự xấu hổ khỏi tôi.”
Một thiên sứ hiện ra cùng Ma-ri
26 Sau khi Ê-li-xa-bét mang thai được sáu tháng thì Thượng Đế sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến Na-xa-rét, một thị trấn miền Ga-li-lê 27 gặp một trinh nữ. Cô đã hứa hôn với một người tên Giô-xép thuộc dòng họ vua Đa-vít. Cô tên Ma-ri. 28 Thiên sứ đến gặp cô và nói, “Chào cô! Chúa đã ban phúc cho cô và ở cùng cô.”
29 Nhưng Ma-ri sửng sốt về lời chào của thiên sứ, không hiểu lời ấy có nghĩa gì.
30 Thiên sứ bảo cô, “Cô Ma-ri ơi, đừng sợ; Thượng Đế đã ban ân phúc Ngài trên cô. 31 Hãy nghe đây. Cô sẽ mang thai và sinh một bé trai, cô hãy đặt tên là Giê-xu. 32 Em bé ấy sẽ rất cao trọng và được gọi là Con của Đấng Tối Cao. Thượng Đế sẽ cho Ngài ngôi vua Đa-vít là tổ tiên Ngài. 33 Ngài sẽ trị vì con cháu nhà Gia cốp mãi mãi. Nước Ngài còn đời đời.”
34 Ma-ri thưa với thiên sứ, “Làm sao chuyện ấy xảy ra được, trong khi tôi là một trinh nữ?”
35 Thiên sứ đáp, “Thánh Linh sẽ đến trên cô và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ che phủ cô. Vì thế mà hài nhi sinh ra sẽ là hài nhi thánh và được gọi là Con Thượng Đế. 36 Hiện thời Ê-li-xa-bét, bà con cô đang mang thai một bé trai, mặc dù bà rất cao tuổi. Ai cũng nghĩ bà ấy không thể nào sinh con được, tuy nhiên bà đã mang thai được sáu tháng rồi. 37 Vì việc gì Thượng Đế làm cũng được cả!”
38 Ma-ri thưa, “Tôi đây là đầy tớ của Chúa. Xin việc ấy được thành theo điều người nói!” Rồi thiên sứ từ giã Ma-ri.
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center