M’Cheyne Bible Reading Plan
Dòng dõi Ru-bên
5 Ru-bên là con trưởng nam của Ít-ra-en. Đáng lẽ Ru-bên được hưởng một phần ưu tiên dành cho con trưởng nam nhưng ông ăn nằm với vợ lẽ của cha mình. Vì vậy phần ưu tiên đó chuyển sang cho các con trai của Giô-xép (Giô-xép là con trai của Ít-ra-en). Trong gia phổ, Ru-bên không được ghi là con trưởng nam. 2 Giu-đa hùng mạnh hơn các anh em mình cho nên từ gia đình đó xuất thân một lãnh tụ. Nhưng gia đình Giô-xép hưởng các đặc quyền dành cho con trưởng nam. 3 Ru-bên là con trưởng nam của Ít-ra-en. Các con trai Ru-bên là Ha-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi.
4 Sau đây là các con của Giô-ên: Sê-mai-gia là con trai Giô-ên. Gót là con trai Sê-mai-gia. Si-mê-i là con trai của Gót. 5 Mi-ca là con trai Si-mê-i. Rê-ai-gia là con trai Mi-ca. Ba-anh là con trai Rê-ai-gia. 6 Bê-ê-ra là con trai Ba-anh. Bê-ê-ra là một lãnh tụ của chi tộc Ru-bên. Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri bắt đày ông đi. Ông bị Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri, bắt đi đày.
7 Các anh em Giô-ên và họ hàng ông được liệt kê theo thứ tự ghi trong gia phổ: Giê-Y-ên là đầu rồi đến Xa-cha-ri 8 và Bê-la. Bê-la là con trai A-xa. A-xa là con trai Sê-ma, và Sê-ma là con trai Giô-ên. Họ sống trong vùng A-rô-e chạy dài cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn. 9 Dân Bê-la sống về phía đông chạy đến ven sa mạc bên cạnh sông Ơ-phơ-rát vì họ có quá nhiều gia súc nên đất Ghi-lê-át không đủ rộng. 10 Trong khi Sau-lơ làm vua, dân Bê-la đánh nhau với dân Hát-rít và thắng họ. Rồi dân Bê-la vào ở trong các lều của dân Hát-rít toàn vùng phía đông Ghi-lê-át.
Dòng dõi Gát
11 Dân cư thuộc chi tộc Gát sống gần dân Ru-bên. Người Gát sống trong vùng Ba-san chạy dài đến Xa-lê-ca. 12 Giô-ên là lãnh tụ chính, Sa-pham là lãnh tụ thứ nhì, còn Gia-nai và Sa-phát là lãnh tụ vùng Ba-san [a]. 13 Bảy thân nhân trong gia đình họ là Mi-chên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia, và Ê-be.
14 Họ là con cháu A-bi-hai. A-bi-hai là con trai Hu-ri. Hu-ri là con trai Gia-roa. Gia-roa là con trai Ghi-lê-át. Ghi-lê-át là con trai Mi-chên. Mi-chên là con trai Giê-si-sai. Giê-si-sai là con Gia-đô, và Gia-đô là con Bu-xơ. 15 A-hi là con Áp-đi-ên, Áp-đi-ên là con Gu-ni. A-hi là trưởng gia đình.
16 Người Gát sống ở Ghi-lê-át, Ba-san và các thị trấn xung quanh và ở trên các đồng cỏ trong bình nguyên Sa-rôn chạy dài đến biên giới.
17 Tất cả các tên tuổi trên đây đều được ghi vào gia phổ của Gát trong đời Giô-tham làm vua Giu-đa và Giê-rô-bô-am làm vua Ít-ra-en.
Các binh sĩ thiện chiến
18 Trong các chi tộc Ru-bên, Gát và Ma-na-xe miền đông có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi binh sĩ mang thuẫn, gươm và cung tên. Họ có tài đánh giặc. 19 Họ gây chiến cùng dân Hát-rít và các dân Giê-tua, Na-phích, và Nô-đáp. 20 Những người thuộc chi tộc Ma-na-xe, Ru-bên, và Gát cầu xin Thượng Đế giúp mình trong khi đánh nhau nên Ngài giúp họ vì họ tin cậy nơi Ngài. Ngài trao dân Hát-rít cùng những kẻ ở với chúng vào tay họ. 21 Họ chiếm các gia súc của dân Hát-rít: năm mươi ngàn lạc đà, hai trăm năm mươi ngàn chiên, và hai ngàn lừa. Họ cũng bắt một trăm ngàn người. 22 Nhiều người Hát-rít bị giết vì Thượng Đế giúp người Ru-bên, Gát, và Ma-na-xe. Rồi họ sống ở đó cho đến khi người Ba-by-lôn bắt họ mang đi lưu đày.
Chi tộc Ma-na-xe miền Đông
23 Phân nửa chi tộc Ma-na-xe sống trong vùng Ba-san chạy dài đến Ba-anh Hẹt-môn, Xê-nia, và núi Hẹt-môn. Họ trở thành một đám dân đông đảo.
24 Sau đây là các trưởng gia đình: Ê-phe, Y-si, Ê-li-ên, Át-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via, và Gia-đi-ên. Họ đều là những lãnh tụ mạnh dạn, can đảm, và nổi danh trong gia đình họ. 25 Nhưng họ phạm tội cùng Thượng Đế mà tổ tiên họ đã thờ lạy. Họ bắt đầu bái lạy các thần của dân trong xứ đó tức dân mà Thượng Đế hủy diệt.
26 Nên Thượng Đế của Ít-ra-en khiến Phun, vua A-xy-ri gây chiến. Phun cũng còn có tên là Tiếc-lác Phi-lê-xe. Ông bắt người Ru-bên, Gát và Ma-na-xe miền Đông, đày họ sang Ha-la, Ha-bo, Ha-ra, và vùng gần sông Gô-xan. Từ lúc đó cho đến nay họ sống ở đó.
Con cháu Lê-vi
6 Các con trai Lê-vi là Ghẹt-sôn, Cô-hát, và Mê-ra-ri.
2 Các con trai Cô-hát là Am-ram, Y-xa, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
3 Các con Am-ram là A-rôn, Mô-se, và Mi-ri-am.
Các con trai A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và Y-tha-ma. 4 Ê-lê-a-xa sinh Phi-nê-ha. Phi-nê-ha sinh A-bi-sua. 5 A-bi-sua sinh Bu-ki. Bu-ki sinh U-xi. 6 U-xi sinh Xê-ra-hia. Xê-ra-hia sinh Mê-rai-ốt. 7 Mê-rai-ốt sinh A-ma-ria. A-ma-ria sinh A-hi-túp. 8 A-hi-túp sinh Xa-đốc. Xa-đốc sinh A-hi-mát. 9 A-hi-mát sinh A-xa-ria. A-xa-ria sinh Giô-ha-nan. 10 Giô-ha-nan sinh A-xa-ria. A-xa-ria là thầy tế lễ trong đền thờ do Sô-lô-môn cất ở Giê-ru-sa-lem. 11 A-xa-ria sinh A-ma-ria. A-ma-ria sinh A-hi-túp. 12 A-hi-túp sinh Xa-đốc. Xa-đốc sinh Sa-lum. 13 Sa-lum sinh Hinh-kia. Hinh-kia sinh A-xa-ria. 14 A-xa-ria sinh Sê-rai-gia, Sê-rai-gia sinh Giê-hô-xa-đác.
15 Giê-hô-xa-đác buộc phải rời bỏ quê hương mình khi CHÚA bắt Giu-đa và Giê-ru-sa-lem lưu đày duới quyền thống trị của Nê-bu-cát-nết-xa.
Các con cháu khác của Lê-vi
16 Các con trai Lê-vi là Ghẹt-sôn, Cô-hát, và Mê-ra-ri.
17 Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i.
18 Các con trai Cô-hát là Am-ram, Y-xa, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
19 Các con trai Mê-ra-ri là Ma-li và Mu-si.
Đây là danh sách các họ hàng Lê-vi, liệt kê theo tên cha của mỗi gia tộc.
20 Con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni. Con Líp-ni là Giê-hát. Con Giê-hát là Xim-ma. 21 Con Xim-ma là Giô-a. Con Giô-a là Y-đô. Con Y-đô là Xê-ra và con Xê-ra là Giê-a-thê-rai.
22 Con Cô-hát là Am-mi-na-đáp. Con Am-mi-na-đáp là Cô-ra. Con Cô-ra là A-xia. 23 Con A-xia là Ên-ca-na. Con Ên-ca-na là Ê-bi-a-xáp. Con Ê-bi-a-xáp là A-xia. 24 Con A-xia là Ta-hát. Con Ta-hát là U-ri-ên. Con U-ri-ên là U-xia và con U-xia là Sa-un.
25 Các con trai Ên-ca-na là A-ma-sai và A-hi-mốt. 26 Con A-hi-mốt là Ên-ca-na. Con Ên-ca-na là Xô-phai. Con Xô-phai là Na-hát. 27 Con Na-hát là Ê-li-áp. Con Ê-li-áp là Giê-hô-ram. Con Giê-hô-ram là Ên-ca-na và con Ên-ca-na là Sa-mu-ên. 28 Các con trai Sa-mu-ên là Giô-ên, con trưởng nam, và A-bi-gia, con thứ hai.
29 Con Mê-ra-ri là Ma-li. Con Ma-li là Líp-ni. Con Líp-ni là Si-mê-i. Con Si-mê-i là U-xa. 30 Con U-xa là Si-mê-a. Con Si-mê-a là Ha-gia, và con Ha-gia là A-sai-gia.
Các nhạc sĩ trong đền thờ
31 Đa-vít chọn những người lo âm nhạc cho nhà CHÚA. Họ bắt tay vào việc ngay sau khi Rương Giao Ước được đặt vào đền thờ. 32 Họ lo âm nhạc cho Lều Thánh, cũng còn gọi là Lều Họp, và phục vụ cho đến khi Sô-lô-môn xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Họ tuân theo các qui tắc định cho công việc họ.
33 Sau đây là tên các nhạc công và con trai họ:
Từ gia đình Cô-hát có Hê-man làm ca sĩ. Hê-man con Giô-ên. Giô-ên con Sa-mu-ên. 34 Sa-mu-ên con Ên-ca-na. Ên-ca-na con Giê-hô-ram. Giê-hô-ram con Ê-li-ên. Ê-li-ên con Tô-a. 35 Tô-a con của Xúp. Xúp con Ên-ca-na. Ên-ca-na con Ma-hát. Ma-hát con A-ma-sai. 36 A-ma-sai con Ên-ca-na. Ên-ca-na con Giô-ên. Giô-ên con A-xa-ria. A-xa-ria con Xô-phô-ni. 37 Xô-phô-ni con Ta-hát. Ta-hát con A-xia. A-xia con Ê-bi-a-xáp. Ê-bi-a-xáp con Cô-ra. 38 Cô-ra con Y-sa. Y-sa con Cô-hát. Cô-hát con Lê-vi. Lê-vi con Ít-ra-en.
39 A-sáp làm phụ tá cho Hê-man. Toán của A-sáp đứng bên phải Hê-man. A-sáp con Bê-rê-kia. Bê-rê-kia con Si-mê-a. 40 Si-mê-a con Mi-chên. Mi-chên con Ba-a-sê-gia. Ba-a-sê-gia con Manh-ki-gia. 41 Manh-ki-gia con Ết-ni. Ết-ni con Xê-ra. Xê-ra con A-đai-gia. 42 A-đai-gia con Ê-than. Ê-than con Xim-ma. Xim-ma con Si-mê-i. 43 Si-mê-i con Gia-hát. Gia-hát con Ghẹt-sôn, và Ghẹt-sôn là con Lê-vi.
44 Gia đình Mê-ra-ri làm phụ tá cho Hê-man và A-sáp. Họ đứng bên trái Hê-man. Trong nhóm nầy có Ê-than con Ki-si. Ki-si con Áp-đi. Áp-đi con Ma-lúc. 45 Ma-lúc con Ha-sa-bia. Ha-sa-bia con A-ma-xia. A-ma-xia con Hinh-kia. 46 Hinh-kia con Am-xi. Am-xi con Ba-ni. Ba-ni con Sê-me. 47 Sê-me con Ma-li. Ma-li con Mu-si. Mu-si con Mê-ra-ri, và Mê-ra-ri là con Lê-vi.
48 Những người Lê-vi khác phục vụ các công tác đặc biệt của họ trong Lều Thánh, tức nhà của Thượng Đế. 49 A-rôn và con cháu ông dâng sinh tế trên bàn thờ của lễ thiêu và đốt hương trên bàn thờ xông hương. Họ dâng sinh tế để chuộc tội dân Ít-ra-en. Họ làm công tác trong Nơi Chí Thánh [b] và tuân theo tất cả các luật lệ mà Mô-se, tôi tớ Thượng Đế truyền dặn.
Dòng dõi A-rôn
50 Sau đây là tên các con trai A-rôn: Ê-lê-a-xa con A-rôn. Phi-nê-ha con Ê-lê-a-xa. A-bi-sua con Phi-nê-ha. 51 Bu-ki con A-bi-sua. U-xi con Bu-ki. Xê-ra-hia con U-xi. 52 Mê-rai-ốt con Xê-ra-hia. A-ma-ria con Mê-rai-ốt. A-hi-túp con A-ma-ria. 53 Xa-đốc con A-hi-túp, và A-hi-mát con Xa-đốc.
Đất cấp cho người Lê-vi
54 Sau đây là nơi con cháu A-rôn cư ngụ. Con cháu thuộc họ hàng Cô-hát nhận phần đất đầu tiên. 55 Họ được cấp cho thành Hếp-rôn trong Giu-đa và các đồng cỏ quanh đó, 56 nhưng ruộng nương cách xa thành và các làng mạc gần Hếp-rôn thì đã được cấp cho Ca-lép con Giê-phu-nê. 57 Vì thế con cháu A-rôn được cấp Hếp-rôn, một trong các thành trú ẩn [c]. Họ cũng nhận các thị trấn và đồng cỏ ở Líp-na và các đồng cỏ chung quanh, Gia-tia, Ếch-tê-moa và các đồng cỏ chung quanh, 58 Hi-len, Đê-bia, 59 A-san, Giút-ta, và Bết-Sê-mết. 60 Họ cũng nhận các thị trấn và đồng cỏ sau đây từ chi tộc Bên-gia-min: Ghi-bê-ôn, Ghê-ba, A-lê-mết, và A-na-thốt.
Họ hàng Cô-hát nhận tất cả mười ba thị trấn.
61 Những gia đình còn lại của họ hàng Cô-hát được cấp mười thị trấn lấy từ các họ hàng của chi tộc Ma-na-xe Miền Tây. Các thành nầy được chọn theo lối bắt thăm.
62 Họ hàng Ghẹt-sôn nhận được mười ba thị trấn từ các chi tộc Y-xa-ca, A-xe, Nép-ta-li, và một phần của chi tộc Ma-na-xe sống ở Ba-san.
63 Họ hàng Mê-ra-ri nhận được mười hai thị trấn từ các chi tộc Ru-bên, Gát, và Xê-bu-lôn. Các thành đó được chọn theo lối bắt thăm.
64 Vậy dân Ít-ra-en cấp các thị trấn và đồng cỏ đó cho người Lê-vi. 65 Các thị trấn của chi tộc Giu-đa, Xi-mê-ôn, và Bên-gia-min có tên đều được chọn theo lối bắt thăm.
66 Một số gia đình thuộc họ hàng Cô-hát nhận được các thị trấn và đồng cỏ thuộc chi tộc Ép-ra-im. 67 Họ nhận được Sê-chem, một trong các thành trú ẩn cùng đồng cỏ trong vùng núi Ép-ra-im. Họ cũng nhận được các thị trấn và đồng cỏ ở Ghê-xe, 68 Giốc-mê-am, Bết-Hô-rôn, 69 A-gia-lôn, và Gát-Rim-môn. 70 Những người còn lại của họ hàng Cô-hát nhận các thị trấn A-ne và Bi-lê-am cùng các đồng cỏ từ chi tộc Ma-na-xe miền Tây.
71 Từ chi tộc Ma-na-xe miền Đông, gia đình Ghẹt-sôn nhận các thị trấn và đồng cỏ thuộc Gô-lan trong vùng Ba-san và Ách-ta-rốt.
72 Từ chi tộc Y-xa-ca, họ hàng Ghẹt-sôn nhận các thị trấn và đồng cỏ ở Kê-đe, Đa-bê-rát, Ra-mốt, và A-nem.
73-74 Từ chi tộc A-xe, họ hàng Ghẹt-sôn nhận các thị trấn và đồng cỏ ở Ma-sanh, Áp-đôn, Hu-cốc, và Rê-hốp.
75-76 Từ chi tộc Nép-ta-li, họ hàng Ghẹt-sôn nhận được các thị trấn và đồng cỏ ở Kê-đe trong miền Ga-li-lê, Ham-môn, và Ki-ri-a-tha-im.
77 Phần còn lại của chi tộc Lê-vi, những người thuộc họ hàng Mê-ra-ri, nhận được các thị trấn và đồng cỏ ở Giốc-nê-am, Các-ta, Rim-mô-nô, và Ta-bo từ chi tộc Xê-bu-lôn.
78-79 Từ chi tộc Ru-bên, họ hàng Mê-ra-ri nhận được các thị trấn và đồng cỏ ở Bê-xe trong sa mạc, Gia-xa, Kê-đê-mốt, và Mê-pha-át. (Chi tộc Ru-bên định cư ở phía đông sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.)
80-81 Từ chi tộc Gát, họ hàng Mê-ra-ri nhận được các thị trấn và đồng cỏ ở Ra-mốt trong miền Ghi-lê-át, Ma-ha-na-im, Hết-bôn, và Gia-xe.
Sự hi sinh của Chúa Cứu Thế xóa sạch tội lỗi
10 Luật pháp chỉ là tượng trưng những điều tốt đẹp hơn sẽ đến trong tương lai; luật pháp không phải là hình ảnh chính xác của vật thật. Những ai ở dưới luật pháp cứ phải dâng sinh tế mỗi năm, nhưng những sinh tế ấy không thể làm cho những kẻ đến gần để thờ phụng Thượng Đế trở thành toàn thiện được. 2 Vì nếu luật pháp có thể khiến họ toàn thiện thì khỏi cần phải dâng sinh tế nữa. Nếu những kẻ thờ phụng nhờ đó mà được tẩy sạch thì không còn mặc cảm tội lỗi nữa. 3 Nhưng mỗi năm những sinh tế ấy nhắc họ nhớ lại tội lỗi, 4 vì huyết của bò đực và dê đực không thể nào xóa tội lỗi được.
5 Cho nên khi Chúa Cứu Thế đến thế gian thì Ngài phán,
“Chúa chẳng muốn sinh tế và của lễ
nhưng đã chuẩn bị cho tôi một thân thể.
6 Ngài không hài lòng về của lễ thiêu
và của lễ xóa tội lỗi.
7 Rồi tôi nói, ‘Lạy Thượng Đế, tôi đến.
Trong sách có viết về tôi.
Tôi đến để làm theo ý muốn Ngài.’” (A)
8 Trong khúc Thánh Kinh nầy lúc đầu Ngài nói, “Chúa không muốn sinh tế và của lễ, Chúa không hài lòng về của lễ thiêu và của lễ xóa tội lỗi” mặc dù đó là những của lễ mà luật pháp qui định. 9 Rồi Ngài nói, “Lạy Thượng Đế, tôi đến để làm theo ý muốn Ngài.” Thượng Đế đã bãi bỏ hệ thống hi sinh cũ để thiết lập hệ thống mới. 10 Vì thế, chúng ta được thánh hóa qua sự hi sinh thân thể của Chúa Cứu Thế một lần đủ cả.
11 Mỗi ngày các thầy tế lễ đứng thi hành nhiệm vụ bao giờ cũng dâng cùng một loại sinh tế. Những sinh tế ấy không bao giờ xóa tội được. 12 Nhưng sau khi Chúa Cứu Thế hi sinh vì tội lỗi một lần đủ cả thì Ngài ngồi bên phải Thượng Đế. 13 Hiện nay Ngài đang chờ đợi kẻ thù bị đặt dưới quyền Ngài [a]. 14 Chỉ cần một của lễ hi sinh thôi, Ngài đã làm cho toàn thiện đời đời những kẻ đã được thánh hóa.
15 Thánh Linh cũng có đề cập về điều nầy cho chúng ta. Trước Ngài nói,
16 “Chúa phán,
Đây là giao ước [b] ta sẽ lập với họ lúc ấy.
Ta sẽ đặt luật lệ ta trong lòng họ
và ghi những lời đó vào tâm trí họ.” (B)
17 Rồi Ngài phán,
“Ta sẽ không nhớ những tội lỗi và điều ác họ làm nữa.” (C)
18 Sau khi những tội lỗi ấy đã được tha thứ thì không cần sinh tế để chuộc tội nữa.
Hãy vững tin nơi Thượng Đế
19 Cho nên, thưa anh chị em, bây giờ chúng ta nay được hoàn toàn tự do và dạn dĩ đi vào Nơi Chí Thánh [c] do sự chết [d] của Chúa Giê-xu mang lại. 20 Chúng ta có thể đi trên con đường mới và sống mà Chúa Giê-xu đã mở ra cho chúng ta, dẫn chúng ta qua bức màn [e]—tức xác Ngài. 21 Và vì chúng ta có một thầy tế lễ tối cao rất lớn quản trị cả nhà Thượng Đế 22 cho nên chúng ta hãy lấy lòng chân thành với đức tin vững chắc mà đến gần Thượng Đế vì chúng ta đã được tẩy sạch khỏi lương tâm tội lỗi, thân thể được rửa bằng nước trong. 23 Hãy nắm vững hi vọng mà chúng ta đã xưng nhận vì tin chắc Thượng Đế sẽ làm được điều Ngài hứa.
Hãy giúp mọi người thêm vững mạnh
24 Chúng ta hãy suy nghĩ đến nhau và tìm cách khuyến khích nhau, bày tỏ tình yêu thương và làm điều thiện. 25 Đừng xao lãng các cuộc nhóm họp, như một số người đang làm, nhưng hãy siêng năng nhóm họp và khích lệ nhau. Khi thấy ngày ấy [f] đến gần chừng nào thì anh chị em hãy càng sốt sắng thêm chừng nấy.
Đừng quay khỏi Chúa Cứu Thế
26 Nếu sau khi đã học biết chân lý mà chúng ta nhất quyết tiếp tục phạm tội thì không còn sinh tế nào để chuộc lỗi nữa. 27 Chỉ còn có lo sợ chờ đợi sự trừng phạt và lửa khủng khiếp tiêu diệt những kẻ chống nghịch Thượng Đế mà thôi. 28 Ai không vâng giữ luật pháp Mô-se thì bị kết tội dựa theo bằng cớ của hai hoặc ba nhân chứng và bị xử tử, không khoan hồng. 29 Cho nên anh chị em nghĩ phải đối xử thế nào với những kẻ coi thường Con Thượng Đế, xem huyết giao ước đã thánh hóa họ chẳng khác nào một thứ huyết khác, sỉ nhục Thánh Linh của ân phúc Thượng Đế? Chắc chắn họ phải bị trừng phạt nặng hơn. 30 Chúng ta biết Thượng Đế phán, “Ta sẽ trừng phạt kẻ phạm tội; ta sẽ báo trả họ.” [g] Ngài cũng phán thêm, “Chúa sẽ xét xử dân Ngài.” [h] 31 Rơi vào tay Thượng Đế hằng sống là điều khủng khiếp.
Hãy giữ lòng can đảm và tính kiên nhẫn đang có
32 Hãy nhớ lại trước kia lúc anh chị em mới học biết chân lý. Anh chị em phải chiến đấu gay go với nhiều khổ đau nhưng vẫn vững mạnh. 33 Đôi khi bị chế giễu và bị ngược đãi công khai và đôi lúc anh chị em cùng san sẻ với những người gặp đồng hoàn cảnh. 34 Anh chị em giúp đỡ và chia xẻ nỗi khổ của những kẻ tù tội và khi bị người ta tước đoạt tài sản mà vẫn vui dù vì biết mình có những của cải tốt hơn và bền vững hơn.
35 Cho nên đừng mất lòng can đảm của anh chị em, vì có phần thưởng rất lớn đi theo. 36 Anh chị em hãy bền lòng vâng theo ý muốn Thượng Đế và nhận được điều Ngài hứa. 37 Vì ít lâu nữa thôi,
“Đấng phải đến sẽ đến.
Ngài không chậm trễ đâu.
38 Người đã giảng hòa cùng ta
sẽ sống bằng đức tin.
Nhưng nếu sợ hãi mà quay đi,
thì ta sẽ không vui lòng chút nào.” (D) [i]
39 Nhưng chúng ta không phải là những kẻ quay đi để bị chết mất. Chúng ta là những người có đức tin và đã được cứu rỗi.
Ít-ra-en sẽ không trở về
4 Hỡi các bò cái Ba-san [a] trên núi Xa-ma-ri
hãy nghe lời nầy.
Các ngươi cướp đoạt của người nghèo
và chà đạp kẻ khốn cùng.
Rồi ngươi bảo chồng mình [b],
“Mang cái gì đến cho tôi uống!”
2 CHÚA hứa như sau:
“Thật như ta hằng sống,
sẽ đến lúc ngươi sẽ bị móc kéo đi,
và những gì còn lại của ngươi
sẽ bị mang đi bằng lưỡi câu.
3 Ngươi sẽ đi thẳng ra ngoài thành
qua các lỗ hổng trong tường,
rồi ngươi sẽ bị ném vào đống xác chết [c],”
CHÚA phán vậy.
4 Hãy đến thành Bê-tên mà phạm tội;
hãy kéo nhau đến Ghinh-ganh [d]
mà phạm tội thêm nữa.
Hãy dâng sinh tế ngươi mỗi sáng,
và cứ mỗi ba ngày lại mang đến
phần mười mùa màng của ngươi.
5 Hãy dâng bánh mì có men
làm của lễ cảm tạ,
và khoe khoang về của lễ tự nguyện
mình mang đến [e].
Vì hỡi Ít-ra-en,
đó là điều ngươi thích làm,
CHÚA là Thượng-Đế phán vậy.
6 “Ta mang đói kém đến
trong các thành ngươi,
và các thị trấn ngươi không đủ ăn,
nhưng ngươi không trở lại cùng ta,”
CHÚA phán vậy.
7 “Ta ngăn không cho mưa xuống
ba tháng trước mùa gặt.
Rồi ta cho mưa xuống thành nầy,
còn thành khác thì khô ráo.
Mưa xuống ruộng nầy, còn ruộng kia thì bị khô héo cằn cỗi.
8 Dân chúng kiệt quệ vì khát nước,
đi từ thành nầy sang thành khác tìm nước,
nhưng không tìm đủ nước uống.
Thế mà các ngươi cũng vẫn không trở lại cùng ta,”
CHÚA phán vậy.
9 “Ta khiến cho ngươi thất mùa
vì sâu và meo mốc.
Khi ruộng nương và vườn nho ngươi phát triển,
thì cào cào cắn phá cây vả và cây ô-liu ngươi.
Vậy mà ngươi vẫn không trở về cùng ta,”
CHÚA phán vậy.
10 “Ta sai đại nạn đến cho ngươi
như ta đã làm ở Ai-cập.
Ta dùng gươm giết các kẻ trai trẻ ngươi,
và cướp ngựa khỏi tay ngươi.
Ta khiến cho xứ ngươi hôi thối vì xác chết.
Nhưng ngươi vẫn không trở lại cùng ta,”
CHÚA phán vậy.
11 “Ta tiêu diệt một số các ngươi,
như tiêu diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.
Ngươi như que củi đang cháy
được rút ra khỏi lửa,
Nhưng ngươi cũng không chịu trở về cùng ta,”
CHÚA phán vậy.
12 “Cho nên, hỡi Ít-ra-en,
đây là điều ta chắc chắn sẽ làm cho ngươi:
nên hỡi Ít-ra-en, hãy chuẩn bị
mà gặp Thượng-Đế ngươi.”
13 Ngài là Đấng tạo ra núi,
làm ra gió [f], và bày tỏ ý tưởng Ngài cho người ta biết.
Ngài biến bình minh ra bóng tối,
bước đi trên các núi non của đất.
Danh Ngài là Thượng-Đế Toàn-Năng.
Cả thế giới nên ca ngợi Chúa
148 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy ca tụng Chúa từ các từng trời.
Hãy ca ngợi từ chốn không trung.
2 Hỡi các thiên sứ,
hãy ca ngợi Ngài.
Hỡi các đạo binh thiên quốc,
hãy ca tụng Ngài.
3 Hỡi mặt trời, mặt trăng hãy ca ngợi Chúa.
Hỡi các ngôi sao sáng hãy ca tụng Ngài.
4 Hỡi các từng trời cao và nước trên các từng trời hãy ca ngợi Ngài.
5 Tất cả hãy ca ngợi Chúa,
vì mọi vật được tạo nên đều do mệnh lệnh Ngài.
6 Ngài đặt chúng vào vị trí cho đến đời đời,
Ngài đặt ra luật pháp bất di bất dịch.
7 Hãy ca ngợi Chúa từ dưới đất,
hỡi các sinh vật to lớn sống trong biển cùng các đại dương,
8 Hỡi sấm chớp và mưa đá,
tuyết và sương,
gió bão vâng lời Ngài.
9 Hỡi các núi đồi,
các cây trái và các cây hương nam,
10 các dã thú và gia súc,
các sinh vật bò sát cùng các loài chim muông,
11 hỡi các vua thế gian cùng các dân tộc,
các quan tước và các nhà cầm quyền trên đất,
12 hỡi các thanh niên thiếu nữ,
người già cả cùng trẻ em,
13 Hãy ca tụng Ngài vì chỉ một mình Ngài là Đấng cao cả.
Sự oai nghi Ngài vượt hơn trời đất.
14 Thượng Đế đã ban cho dân Ngài một vị vua.
Những ai thuộc về Ngài hãy ca ngợi Ngài.
Toàn dân Ít-ra-en hãy ca ngợi Chúa,
tức là dân thuộc về Ngài.
Hãy ca ngợi Chúa!
Ca ngợi Thượng Đế của Ít-ra-en
149 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy hát một bài ca mới cho Ngài;
Hãy ca ngợi giữa buổi họp của dân Ngài.
2 Toàn dân Ít-ra-en hãy vui mừng vì Thượng Đế,
Đấng dựng nên mình.
Dân cư Giê-ru-sa-lem hãy vui mừng vì vua mình.
3 Hãy nhảy múa mà ca ngợi Ngài.
Hãy đánh trống cơm và dùng đờn cầm mà ca tụng Chúa.
4 Chúa hài lòng với dân Ngài;
Ngài cứu kẻ khiêm nhường.
5 Hỡi những ai thờ phụng Ngài
hãy vui mừng trong vinh hiển Ngài.
Dù khi đang nằm trên giường cũng hãy ca tụng Ngài!
6 Mọi người hãy lớn tiếng ca tụng Chúa
bằng gươm hai lưỡi trong tay.
7 Họ sẽ trừng phạt các nước,
đánh bại các dân.
8 Họ sẽ trói các vua bằng xiềng
và cột những người có quyền thế bằng xích sắt.
9 Họ sẽ trừng phạt chúng theo bản án Thượng Đế định.
Đó là vinh dự cho những kẻ theo Ngài.
Hãy ca tụng Chúa!
Hãy dùng âm nhạc mà ca ngợi Chúa
150 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy ca tụng Thượng Đế trong đền thờ Ngài;
Hãy tán dương Chúa trên các từng trời hùng vĩ.
2 Hãy ca ngợi sức mạnh Ngài,
tán tụng Chúa vì sự cao cả của Ngài.
3 Hãy thổi hồi kèn vang dội mà ca tụng Chúa.
Hãy khảy đờn cầm với đờn sắt mà tán dương Ngài.
4 Hãy đánh trống cơm và nhảy múa mà ca ngợi Ngài.
Hãy dùng nhạc khí bằng dây và sáo mà ca tụng Chúa.
5 Hãy đánh chập chỏa
và phèn la vang rền để ca ngợi Ngài.
6 Mọi vật có hơi thở hãy ca ngợi Chúa.
Hãy ca tụng Ngài!
Copyright © 2010 by World Bible Translation Center