M’Cheyne Bible Reading Plan
Mi-cai-gia cảnh cáo A-háp
22 Trong suốt ba năm giữa Ít-ra-en và A-ram không có chiến tranh. 2 Trong năm thứ ba Giô-sa-phát vua Giu-đa đi thăm A-háp, vua Ít-ra-en.
3 Lúc ấy A-háp hỏi các sĩ quan mình, “Các ngươi có biết Ra-mốt Ghi-lê-át thuộc về chúng ta không? Nhưng chúng ta đã không làm gì để lấy lại từ tay vua A-ram. Thị trấn ấy là của chúng ta.” 4 Vua A-háp hỏi vua Giô-sa-phát, “Vua có chịu đi cùng tôi để đánh Ra-mốt Ghi-lê-át không?”
Giô-sa-phát trả lời, “Tôi sẽ đi với vua. Binh sĩ tôi là binh sĩ của vua, ngựa tôi như ngựa vua.” 5 Giô-sa-phát đề nghị với A-háp, “Nhưng trước tiên chúng ta nên cầu hỏi ý CHÚA đã.”
6 A-háp liền gọi khoảng bốn trăm nhà tiên tri lại hỏi, “Ta có nên gây chiến để chiếm lại Ra-mốt trong Ghi-lê-át không?”
Họ đáp, “Vua nên đi vì CHÚA sẽ trao họ vào tay vua.”
7 Nhưng Giô-sa-phát hỏi, “Ở đây có nhà tiên tri nào của CHÚA không? Hãy hỏi người xem chúng ta nên hành động ra sao.”
8 Vua A-háp bảo Giô-sa-phát, “Còn có một nhà tiên tri nữa. Chúng ta có thể nhờ người cầu hỏi CHÚA nhưng tôi ghét anh ta vì anh ta không bao giờ nói tiên tri tốt về tôi, chỉ nói điều xấu thôi. Ông ta tên Mi-cai-gia, con Im-la.”
Giô-sa-phát nói, “Vua không nên nói như vậy!”
9 A-háp liền ra lệnh cho một trong các sĩ quan hầu cận mang Mi-cai-gia đến lập tức.
10 A-háp, vua Ít-ra-en, và Giô-sa-phát, vua Giu-đa, đang mặc triều phục và ngồi trên ngai ở trong sân đập lúa, gần cổng vào thành Xa-ma-ri. Tất cả các nhà tiên tri đều đứng trước mặt hai người và đang nói tiên tri. 11 Xê-đê-kia, con Kê-na-na, làm các sừng bằng sắt. Ông bảo A-háp, “CHÚA nói như sau, ‘Ngươi sẽ dùng các sừng nầy đánh dân A-ram cho đến khi tiêu diệt chúng nó hoàn toàn.’” 12 Các nhà tiên tri khác cũng nói tương tự. “Hãy tấn công Ra-mốt Ghi-lê-át và chiến thắng vì CHÚA sẽ trao vùng ấy vào tay vua.”
13 Sứ giả được sai để mang Mi-cai-gia đến bảo với ông rằng, “Tất cả các nhà tiên tri đều nói vua A-háp sẽ thành công. Ông nên nói như họ và cho vua một lời đáp thuận lợi.”
14 Nhưng Mi-cai-gia đáp, “Ta chỉ CHÚA hằng sống mà thề, ta chỉ có thể nói với nhà vua những gì CHÚA bảo ta mà thôi.”
15 Khi Mi-cai-gia đến cùng A-háp, vua hỏi, “Nầy Mi-cai-gia, chúng ta có nên tấn công Ra-mốt trong Ghi-lê-át hay không?”
Mi-cai-gia đáp, “Hãy tấn công đi, vua sẽ thắng! CHÚA sẽ trao nó vào tay vua.”
16 Nhưng A-háp bảo Mi-cai-gia, “Đã bao lần ta bảo ngươi chỉ nên nói thật cùng ta trong danh CHÚA mà thôi!”
17 Mi-cai-gia liền đáp, “Tôi thấy đạo quân Ít-ra-en bị tản lạc trên các đồi như chiên không có người chăn. CHÚA nói, ‘Họ không có người lãnh đạo. Ai nấy nên đi về nhà bình an.’”
18 A-háp, vua Ít-ra-en liền bảo Giô-sa-phát, “Thấy không? Tôi đã bảo vua là anh ta không bao giờ nói gì tốt về tôi, chỉ toàn là nói chuyện xấu thôi.”
19 Nhưng Mi-cai-gia nói, “Hãy nghe lời CHÚA phán: Tôi thấy CHÚA ngồi trên ngôi có đạo quân trên trời đứng hầu bên phải và bên trái Ngài. 20 CHÚA hỏi, ‘Ai sẽ đi gạt A-háp để người tấn công Ra-mốt trong Ghi-lê-át đặng bị giết tại đó?’” Người nói thế nầy, kẻ nói thế khác. 21 Rồi có một thần linh đến đứng trước mặt CHÚA và thưa, “Tôi sẽ đi gạt người.” 22 CHÚA hỏi, “Gạt cách nào?” Thần đó đáp, “Tôi sẽ đi khiến cho các nhà tiên tri A-háp nói dối.” CHÚA bảo, “Ngươi làm được đó. Hãy đi đi.”
23 Mi-cai-gia nói, “Thưa vua A-háp, CHÚA đã khiến các nhà tiên tri nói dối với vua vì CHÚA đã nhất quyết sai thảm họa đến trên vua.”
24 Xê-đê-kia, con Kên-a-na, tiến đến tát Mi-cai-gia mấy cái vào mặt và hỏi, “Bộ thần linh của CHÚA bỏ ta mà nói cùng ngươi sao?”
25 Mi-cai-gia đáp, “Ngươi sẽ biết chuyện đó vào ngày mà ngươi chạy trốn vào phòng trong cùng.”
26 A-háp, vua Ít-ra-en, liền ra lệnh, “Hãy bắt Mi-cai-gia giải sang cho A-môn, thống đốc thành, và cho Giô-ách, con trai vua. 27 Bảo họ rằng ta ra lệnh nhốt người nầy vào tù, chỉ nuôi bằng bánh và nước thôi cho đến khi ta từ chiến trận trở về an toàn.”
28 Mi-cai-gia, “Thưa vua A-háp, nếu vua từ chiến trận trở về an toàn thì CHÚA không phán qua tôi. Mọi người hãy ghi nhớ lời tôi!”
Trận đánh ở Ra-mốt Ghi-lê-át
29 Vậy A-háp vua Ít-ra-en và Giô-sa-phát vua Giu-đa đi lên Ra-mốt trong Ghi-lê-át. 30 Vua A-háp bảo Giô-sa-phát, “Tôi sẽ ra trận nhưng tôi sẽ ăn mặc giả dạng để không ai nhận ra. Còn vua thì cứ mặc triều phục.” Vậy A-háp mặc giả dạng và ra trận.
31 Vua A-ram đã ra lệnh cho ba mươi hai viên chỉ huy quân xa rằng, “Đừng tấn công ai cả, dù cấp lớn hay cấp nhỏ, chỉ tấn công vua Ít-ra-en mà thôi.” 32 Khi các viên chỉ huy đó thấy Giô-sa-phát thì yên trí là vua Ít-ra-en nên họ liền quay sang tấn công vua. Nhưng Giô-sa-phát la lên. 33 Khi họ thấy không phải vua A-háp liền thôi không đuổi theo vua nữa.
34 Tình cờ có một binh sĩ bắn một mũi tên trúng nhằm A-háp ngay chỗ nối của áo giáp. Vua A-háp bảo tài xế quân xa, “Hãy quay lại chở ta ra khỏi mặt trận vì ta bị thương nặng!”
35 Trận ác chiến kéo dài suốt ngày. Người ta đỡ A-háp đứng trong quân xa để đối đầu với quân A-ram. Máu của vua chảy xuống gầm xe. Đến chiều thì vua chết. 36 Gần đến khi mặt trời lặn thì có tiếng kêu trong hàng ngũ quân Ít-ra-en: “Ai nấy hãy trở về thành và đất đai mình đi.”
37 Vậy vua A-háp qua đời như thế. Xác ông được chở đến Xa-ma-ri và chôn tại đó. 38 Người ta rửa quân xa của A-háp nơi hồ, chỗ các gái điếm tắm, có mấy con chó liếm máu ông từ quân xa. Những chuyện đó xảy ra y như lời CHÚA phán.
39 Mọi việc khác A-háp làm đều được ghi trong sách sử ký các vua Ít-ra-en. Sách đó ghi lại cung điện A-háp cất và trang hoàng bằng ngà voi cùng những thành phố ông đã xây. 40 Vậy A-háp qua đời, rồi A-cha-xia, con trai ông lên kế vị.
Tổng kết triều đại Giô-sa-phát, vua Giu-đa
41 Giô-sa-phát, con A-sa lên ngôi vua Giu-đa trong năm thứ tư đời A-háp, vua Ít-ra-en. 42 Giô-sa-phát được ba mươi lăm tuổi khi lên ngôi vua và cai trị hai mươi lăm năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là A-xu-ba, con gái Sin-li. 43 Giô-sa-phát là người tốt, giống như A-sa, cha mình. Ông làm điều thiện theo như CHÚA bảo. Nhưng vua không tiêu hủy các nơi thờ thần tượng, cho nên dân chúng tiếp tục dâng sinh tế và đốt hương ở các nơi đó.
44 Giô-sa-phát và vua Ít-ra-en sống hòa thuận với nhau. 45 Giô-sa-phát đánh nhiều trận, những trận đánh và chiến công của ông đều được ghi trong sách sử ký các vua Giu-đa.
46 Trong đời A-sa, cha vua, vẫn có các đàn ông làm điếm ở những nơi thờ phụng cho nên Giô-sa-phát trục xuất chúng đi.
47 Trong lúc đó đất Ê-đôm không có vua, chỉ có tổng trấn cai trị mà thôi.
48 Vua Giô-sa-phát đóng các tàu buôn để đi Ô-phia chở vàng về. Nhưng các tàu ấy bị chìm ở Ê-xi-ôn Ghê-be cho nên không đi được. 49 A-cha-xia, con trai A-háp đến giúp Giô-sa-phát và đề nghị gởi một số người của mình đi chung thuyền với các thủy thủ của Giô-sa-phát [a] nhưng Giô-sa-phát từ chối.
50 Giô-sa-phát qua đời và được chôn với tổ tiên mình ở Giê-ru-sa-lem trong thành Đa-vít, ông tổ mình. Rồi Giê-hô-ram, con trai vua lên kế vị.
A-cha-xia, vua Ít-ra-en
51 A-cha-xia, con A-háp lên ngôi vua Ít-ra-en ở Xa-ma-ri trong năm thứ mười bảy đời Giô-sa-phát, vua Giu-đa. A-cha-xia cai trị Ít-ra-en trong hai năm 52 và làm điều ác trước mặt CHÚA. Ông làm ác giống như A-háp, cha mình và Giê-xa-bên, mẹ mình, cùng Giê-rô-bô-am, con Nê-bát, đã làm. Tất cả những lãnh tụ đó quyến dụ dân Ít-ra-en đi sâu vào đường tội lỗi. 53 A-cha-xia thờ phụng và phục vụ thần Ba-anh, chọc giận CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. Ông làm y như cha mình đã làm.
Hãy sẵn sàng khi Chúa đến
5 Thưa các anh chị em, hiện chúng tôi không cần viết cho anh chị em biết về ngày và giờ. 2 Anh chị em biết là ngày Chúa đến bất thần như kẻ trộm lúc ban đêm. 3 Trong khi người ta tuyên bố, “Chúng ta đang hưởng hòa bình và an ninh,” thì họ bị tiêu diệt nhanh chóng. Giống như đàn bà đang đau đẻ, họ không thoát được đâu. 4 Nhưng anh chị em không nên sống trong bóng tối để ngày ấy bất chợt đến với anh chị em như kẻ trộm. 5 Anh chị em là những người thuộc về ánh sáng và ban ngày. Chúng ta không phải thuộc về ban đêm hay bóng tối. 6 Chúng ta không nên ngủ mê như kẻ khác mà phải sáng suốt và tiết độ. 7 Ai ngủ thì ngủ ban đêm, say thì say ban đêm. 8 Còn chúng ta thuộc ban ngày nên phải tiết độ. Chúng ta hãy lấy đức tin và tình yêu thương mà tự vệ. Đội mũ sắt bằng hi vọng về sự cứu rỗi chúng ta. 9 Thượng Đế không định cho chúng ta gánh chịu cơn giận của Ngài mà cho chúng ta nhận được sự cứu rỗi qua Giê-xu, Chúa Cứu Thế chúng ta. 10 Ngài chịu chết vì chúng ta để chúng ta có thể cùng sống với Ngài dù chúng ta còn sống hay qua đời lúc Ngài trở lại. 11 Cho nên hãy khích lệ và nâng đỡ nhau như anh chị em hiện đang làm.
Lời dặn dò sau cùng và chào thăm
12 Thưa anh chị em, chúng tôi xin anh chị em hãy biết ơn những người có công khó giữa vòng mình là những người hướng dẫn trong Chúa và dạy dỗ anh chị em. 13 Hãy tôn trọng họ bằng một tình yêu đặc biệt vì công tác họ làm.
Hãy sống hòa thuận với mọi người. 14 Hãy cảnh cáo những kẻ không chịu làm việc. Hãy khuyến khích những kẻ sợ sệt, giúp đỡ kẻ yếu đuối, kiên nhẫn với mọi người. 15 Đừng ai lấy ác trả ác nhưng bao giờ cũng cư xử tốt với nhau và với tất cả mọi người.
16 Hãy vui mừng luôn luôn, 17 thường xuyên khẩn nguyện. 18 Dù trong hoàn cảnh nào cũng hãy dâng lời tạ ơn. Đó là ý muốn của Thượng Đế đối với anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.
19 Đừng cản trở công tác của Thánh Linh. 20 Chớ xem thường các lời tiên tri 21 nhưng hãy trắc nghiệm mọi điều. Điều gì tốt thì giữ lấy, 22 còn điều ác thì hãy tránh xa.
23 Nguyền Thượng Đế, Chúa của hòa bình, khiến anh chị em trở nên thánh sạch để thuộc về một mình Ngài. Nguyện toàn thể con người anh chị em từ tinh thần, linh hồn đến thể xác đều được bình an, không chỗ chê trách khi Chúa Cứu Thế Giê-xu của chúng ta trở lại. 24 Anh chị em có thể tin cậy Đấng đã kêu gọi mình vì Ngài làm được mọi điều ấy.
25 Thưa anh chị em, hãy cầu nguyện cho chúng tôi. 26 Hãy lấy cái hôn thánh chào nhau. 27 Nhân danh thẩm quyền của Chúa, tôi xin anh chị em đọc thư nầy cho tất cả các tín hữu. 28 Nguyền xin ân phúc của Chúa Cứu Thế Giê-xu ở với anh chị em.
Chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-xa
4 Vua Nê-bu-cát-nết-xa gởi văn thư sau đây cho các dân tộc, quốc gia, các người nói mọi thứ tiếng trên thế giới:
“Ta chúc các ngươi bình yên và thịnh vượng!
2 Thượng Đế Chí Cao đã làm nhiều phép lạ và điều kỳ diệu cho ta mà ta rất vui thuật cho các ngươi biết.
3 Việc làm của Ngài thật lớn lao,
phép lạ Ngài quyền năng.
Nước Ngài còn mãi mãi,
quyền lực Ngài không bao giờ dứt.
4 Ta, Nê-bu-cát-nết-xa, rất vui và thành công trong cung điện ta, 5 nhưng ta có một chiêm bao khiến ta hoang mang. Trong khi ta đang nằm trên giường, ta thấy những hình ảnh và dị tượng trong trí ta làm ta kinh hoảng. 6 Cho nên ta ra lệnh triệu những nhà thông thái của Ba-by-lôn đến để nói cho ta biết ý nghĩa của điềm chiêm bao đó. 7 Các nhà tướng số, thuật sĩ, và thông thái đến, rồi ta thuật cho họ nghe chiêm bao ta nhưng họ không thể giải thích được.
8 Sau cùng có Đa-niên đến gặp ta. Ta gọi người là Bên-tơ-sát-xa để tỏ lòng tôn kính các thần của ta vì linh của các thánh thần ở trong người. Ta thuật cho người nghe điềm chiêm bao ta.
9 Ta bảo, ‘Bên-tơ-sát-xa ơi, anh là nhà tướng số tài giỏi nhất. Ta biết linh của các thần ở trong anh cho nên không có điều huyền bí nào quá khó mà anh không hiểu nổi. Đây là điềm chiêm bao của ta, anh hãy giải thích ý nghĩa của nó. 10 Sau đây là các dị tượng ta thấy trong khi ta đang nằm trên giường: Ta nhìn thì thấy trước mặt ta có một cây đứng sừng sững giữa trời. Cây ấy rất cao lớn. 11 Nó lớn mạnh. Ngọn nó đụng đến trời và bất cứ chỗ nào trên đất đều có thể nhìn thấy ngọn nó được [a]. 12 Lá nó đẹp, trái thì sai và rất ngon, đủ cho mọi người ăn. Muông thú núp duới tàng nó, và chim chóc làm tổ trên các nhánh nó. Tất cả các thú vật đều sống nhờ nó.
13 Đang khi mải nhìn những điều đó trong dị tượng khi ta đang nằm trên giường thì ta thấy một vị canh giữ, một thiên sứ thánh từ trời xuống. 14 Người la lớn: Hãy đốn cây và chặt nhánh nó đi. Hãy tuốt hết lá nó và phân tán trái nó. Hãy để muông thú núp dưới tàng nó chạy thoát đi và các chim chóc trong nhánh nó bay đi chỗ khác. 15 Nhưng hãy chừa lại gốc và rễ nó dưới đất lấy xiềng sắt và đồng buộc quanh gốc nó; hãy để nó ở trong đồng cùng với cỏ mọc xung quanh. Hãy để nó dầm sương và sống chung với muông thú và cây cối trên đất. 16 Đừng cho nó suy nghĩ như con người nữa mà ban cho nó trí óc của loài thú trong bảy năm.
17 Các vị canh giữ ra lệnh đó; các đấng thánh tuyên án. Như thế để cho muôn dân biết rằng Thượng Đế Chí Cao trị vì các nước trên thế giới. Ngài ban nước cho người nào Ngài muốn, và Ngài chọn những người cai trị họ là những người khiêm tốn.
18 Đó là điều ta, vua Nê-bu-cát-nết-xa thấy trong chiêm bao. Bây giờ, Bên-tơ-sát-xa [b], hãy giải thích cho ta biết ý nghĩa chiêm bao đó. Không có học giả nào trong nước ta có thể giải thích cho ta, nhưng anh có thể giải thích được vì linh của các thánh thần ở trong anh.’”
Đa-niên giải thích ý nghĩa chiêm bao
19 Lúc đó Đa-niên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, đứng im lặng khá lâu vì ý nghĩa chiêm bao khiến ông hoảng sợ. Vua liền bảo ông, “Bên-tơ-sát-xa ơi, đừng để chiêm bao hay ý nghĩa của nó làm anh lo sợ.”
Bên-tơ-sát-xa liền thưa, “Thưa ngài, nguyền chiêm bao của ngài xảy đến cho các kẻ thù ngài và ý nghĩa của nó dành cho những kẻ chống nghịch ngài! 20 Trong chiêm bao vua nhìn thấy một cây mọc lên cao lớn. Ngọn nó chấm đến trời, dưới đất nơi nào cũng thấy. 21 Lá nó đẹp, trái thì sai đủ cho mọi người ăn. Nó là nơi trú ẩn cho muông thú, nhánh nó là chỗ cho chim chóc làm tổ. 22 Tâu vua, ngài là cây đó! Ngài trở nên hùng mạnh như cây lớn đó cao vút đến tận trời. Quyền lực của ngài lan đến những nơi xa xăm trên đất.
23 Tâu vua, ngài nhìn thấy một người canh giữ, một thiên sứ thánh từ trời xuống bảo, ‘Hãy đốn cây và tiêu diệt nó đi. Nhưng hãy chừa gốc và rễ nó dưới đất bằng xích sắt và đồng buộc quanh nó; để nó trong đồng với cây cỏ. Hãy để nó dầm sương và sống như muông thú trong bảy năm.’
24 Tâu vua, đây là ý nghĩa của chiêm bao đó. Thượng Đế Chí Cao đã truyền rằng những điều sau đây sẽ xảy ra cho vua, là chủ tôi: 25 Vua sẽ bị đuổi khỏi loài người và sống giữa muông thú. Người ta sẽ cho vua ăn cỏ như bò, vua sẽ dầm sương trời. Sau bảy năm vua sẽ học được bài nầy: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên đất và Ngài có quyền ban nước cho ai tùy ý Ngài muốn.
26 Vì còn gốc cây và rễ trong đất, nước của vua sẽ phục hồi lại cho vua sau khi vua hiểu ra rằng Đấng ngự trên trời cai quản nước của vua. 27 Cho nên, thưa vua, hãy nghe lời tôi khuyên. Đừng phạm tội và hãy làm điều thiện. Hãy thôi làm điều ác và tỏ ra nhân từ đối với kẻ nghèo thì vua sẽ mãi thành công.”
Điềm chiêm bao của vua thành sự thật
28 Tất cả những lời tiên đoán đó xảy ra cho vua Nê-bu-cát-nết-xa. 29 Mười hai tháng sau đó khi vua đang đi dạo trên nóc [c] cung điện mình ở Ba-by-lôn, 30 vua bảo, “Tay ta đã xây thành lớn Ba-by-lôn nầy để làm nơi ở của ta. Ta đã dùng quyền năng ta xây nên nó để tỏ ra vinh quang và oai nghi ta.”
31 Lời còn đang ở trong miệng vua thì có tiếng từ trời vọng xuống rằng, “Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-xa, những điều sau đây sẽ xảy ra cho ngươi: Ngươi đã bị tước hết quyền lực. 32 Ngươi sẽ bị đuổi khỏi loài người. Ngươi sẽ sống chung với muông thú và ăn cỏ như bò. Sau bảy năm ngươi sẽ học được bài sau đây: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên thế gian. Ngài ban nước cho ai tùy ý Ngài chọn.”
33 Lập tức những lời đó thành sự thật. Vua Nê-bu-cát-nết-xa bị đuổi ra khỏi giữa loài người và bắt đầu ăn cỏ như bò. Thân thể vua dầm sương. Tóc vua mọc dài ra như lông chim ưng, móng tay và móng chân mọc ra như móng chim.
34 “Cuối thời kỳ đó, ta, Nê-bu-cát-nết-xa, ngước lên trời và trí khôn bắt đầu phục hồi lại! Rồi ta ca ngợi Thượng Đế Chí Cao; ta dâng sự tôn trọng và vinh hiển cho Đấng sống đời đời.
Quyền cai trị của Thượng Đế còn mãi mãi,
và nước Ngài kéo dài vô tận.
35 Dân cư trên đất không quan trọng gì.
Thượng Đế tự ý hành động
qua quyền lực của thiên đàng
và con người dưới đất.
Không ai có thể ngăn chận
tay quyền năng Ngài hay hạch hỏi
điều Ngài làm.
36 Lúc đó ta có thể suy nghĩ bình thường trở lại, Thượng Đế phục hồi danh dự và quyền lực cao cả lại cho ta và trả lại vinh hiển cho nước ta. Những cố vấn của ta và các người quí tộc trở lại phục vụ ta như trước. Ta lại làm vua và còn cao trọng quyền uy hơn trước. 37 Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-xa, ca ngợi và tôn trọng cùng dâng vinh hiển lên cho Vua trên trời. Mọi việc Ngài làm đều đúng và công bằng, và Ngài có thể hạ kẻ kiêu căng xuống.”
Lời cầu xin được chiến thắng
Bài ca ngợi của Đa-vít.
108 Lạy Thượng Đế, lòng tôi ổn định.
Linh hồn tôi sẽ hát ca ngợi Chúa.
2 Hỡi đờn sắt và đờn cầm, hãy tỉnh giấc!
Tôi sẽ đánh thức bình minh dậy.
3 Chúa ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các dân;
tôn vinh Ngài trong các nước.
4 Tình yêu lớn lao của Ngài vượt trên các từng trời,
chân lý Ngài cao vút đến mây xanh.
5 Lạy Thượng Đế, nguyền Ngài được tôn cao hơn các từng trời.
Nguyện vinh quang Ngài lan tràn khắp đất.
6 Xin hãy trả lời chúng tôi qua quyền năng Ngài,
để dân mà Chúa yêu được giải cứu.
7 Từ đền thánh Ngài Thượng Đế phán,
“Sau khi thắng, ta sẽ chia Sê-chem
và đo thung lũng Xu-cốt.
8 Ghi-lê-át và Ma-na-xe đều thuộc về ta.
Ép-ra-im là mũ sắt ta.
Giu-đa cầm cây trượng vàng ta.
9 Mô-áp là chậu ta rửa ráy.
Ta ném giày dép ta ở Ê-đôm [a].
Ta reo hò đắc thắng trên Phi-li-tin.”
10 Ai sẽ đưa tôi đến thành có vách kiên cố?
Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm?
11 Chính là Thượng Đế, Đấng đã từ bỏ chúng tôi;
Ngài không còn ra trận với đạo quân chúng tôi nữa.
12 Xin hãy giúp chúng tôi đánh quân thù.
Sự giúp đỡ loài người thật vô dụng,
13 nhưng nhờ Thượng Đế giúp,
chúng tôi có thể chiến thắng quân thù.
Ngài sẽ đánh bại kẻ thù chúng tôi.
Lời cầu nguyện chống kẻ thù
Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.
109 Thượng Đế ôi, tôi ca ngợi Ngài.
Xin đừng im lặng.
2 Bọn gian ác và dối trá phao vu về tôi;
chúng đặt điều nói dối về tôi.
3 Chúng đồn đãi tiếng xấu cho tôi và vô cớ tấn công tôi.
4 Dù rằng tôi yêu thương và cầu nguyện cho chúng,
chúng vẫn công kích tôi.
5 Chúng lấy xấu báo tốt, lấy dữ trả lành.
Tôi yêu thương chúng, nhưng chúng ghét tôi.
6 Chúng nói về tôi rằng,
“Hãy kiếm một tên gian ác chống lại nó,
hãy cho một kẻ tố cáo nó.
7 Khi nó bị phân xử, mong cho nó bị xử có tội,
nguyện lời cầu nguyện của nó phô bày tội lỗi nó ra.
8 Nguyện đời nó bị rút ngắn,
nguyện không ai thay thế địa vị lãnh đạo của nó.
9 Nguyện con cái nó thành mồ côi
và vợ nó thành goá bụa.
10 Nguyện con cái nó thất thểu đi ăn xin.
Nguyện chúng bị đuổi khỏi chốn hoang tàn mà chúng đang trú ngụ.
11 Nguyện chủ nợ tịch thu hết các tài sản nó,
nguyện kẻ xa lạ ăn cắp hết những gì nó làm ra.
12 Nguyện không có ai thương nó
hay tội nghiệp cho đàn con côi cút của nó.
13 Nguyện dòng dõi nó chết không còn lưu lại kỷ niệm cho hậu thế.
14 Chúa ôi, xin nhớ lại tổ tiên chúng nó gian ác ra sao,
xin đừng bôi xóa tội lỗi của mẹ nó.
15 Chúa ôi, xin luôn nhớ tội lỗi chúng nó.
Xin Ngài khiến chúng nó bị lãng quên hoàn toàn.
16 Nó không hề nghĩ đến chuyện làm ơn.
Nó làm hại người nghèo,
kẻ túng thiếu và kẻ đau buồn cho đến khi họ gần chết.
17 Nó thích nguyền rủa người khác,
nguyện những lời trù ẻo đó lại rơi trên nó.
Nó không thích chúc lành cho kẻ khác,
nên nguyện nó không nhận được ơn lành nào.
18 Nó nguyền rủa người khác hằng ngày như mặc áo.
Nguyền rủa kẻ khác là bản tính của nó,
giống như uống nước hay dùng dầu thoa thân thể.
19 Nguyện những lời nguyền rủa phủ nó
như áo xống, quấn nó như cái nịt.”
20 Nguyện Chúa đối như vậy cho kẻ tố cáo tôi,
tức những kẻ bêu xấu tôi.
21 Nhưng, Chúa ôi, xin tỏ lòng nhân từ cùng tôi,
để kẻ khác biết rằng Ngài nhân hậu.
Vì tình yêu Chúa rất tốt lành, xin hãy cứu tôi.
22 Tôi nghèo khổ, khốn đốn và buồn thảm.
23 Tôi hấp hối như bóng chiều ngã dài;
bị xua đuổi như cào cào.
24 Đầu gối tôi run rẩy vì thiếu ăn,
tôi trở nên ốm yếu.
25 Kẻ thù tôi sỉ nhục tôi;
chúng nhìn tôi lắc đầu.
26 Lạy Chúa là Thượng Đế tôi, xin giúp đỡ tôi;
vì Ngài nhân ái, xin hãy cứu tôi.
27 Bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ngài làm việc ấy;
và hiểu rõ rằng chính quyền năng Chúa đã giúp đỡ tôi.
28 Chúng nguyền rủa tôi, nhưng Ngài ban phước cho tôi.
Chúng công kích tôi, nhưng sẽ bị hổ nhục.
Bấy giờ, tôi là kẻ tôi tớ Chúa sẽ vui mừng.
29 Nguyện những kẻ tố cáo tôi
bị hổ nhục và bị nhuốc nhơ bao trùm như cái áo.
30 Tôi sẽ dùng môi miệng ca ngợi Chúa;
tôi sẽ ca tụng Ngài trước mặt mọi người.
31 Ngài bênh vực kẻ cô thế,
cứu họ khỏi tay kẻ tố cáo họ.
© 2010 Bible League International