M’Cheyne Bible Reading Plan
Cung điện Sô-lô-môn
7 Vua Sô-lô-môn cũng xây một cung điện cho mình; mất mười ba năm mới xong. 2 Cung điện được xây bằng gỗ hương nam, gọi là Rừng Li-băng, cung điện dài năm mươi thước [a], rộng hai mươi lăm thước [b], và cao mười lăm thước [c]. Có bốn hàng cột đỡ các cây đà bằng gỗ hương nam. 3 Có bốn mươi lăm cây đà đỡ mái nhà, mỗi hàng có mười lăm cây đà, và trần phía trên các cây đà được bọc bằng gỗ hương nam. 4 Các cửa sổ được đặt theo ba hàng đối diện nhau. 5 Các cửa đều hình vuông, và có ba cửa ở mỗi đầu đối diện nhau.
6 Sô-lô-môn cũng xây mái vòm có cột chống. Vòm nầy dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước. Dọc theo vòm là một mái có các trụ đỡ.
7 Sô-lô-môn cũng xây một phòng để ngai vàng, nơi ông ngồi xét xử dân chúng gọi là Điện Công Lý. Phòng nầy bọc bằng gỗ hương nam từ sàn cho tới trần.
8 Cung điện nơi Sô-lô-môn ở được xây như Điện Công Lý, và nằm ngay sau điện ấy. Sô-lô-môn cũng xây một cung điện như thế cho vợ mình, tức công chúa, con vua Ai-cập.
9 Các dinh thự nầy làm bằng các khối đá đẽo tốt. Trước hết các tảng đá được đục cẩn thận rồi mặt trước và mặt sau được xén gọn bằng cưa. Các tảng đá tốt nầy chạy từ nền dinh thự cho đến đỉnh của các vách. Sân cung điện cũng làm bằng các khối đá. 10 Các nền được làm bằng các khối đá đẽo tốt, có khối dài đến mười lăm bộ. Các khối đá khác dài mười hai bộ. 11 Bên trên các khối đá làm nền là các khối đá tốt khác và các cây đà hương nam. 12 Sân cung vua, sân bên trong đền thờ, và vòm của đền thờ đều có vách bao quanh. Tất cả các vách nầy có ba hàng đá khối, và một hàng cây đà bằng gỗ hương nam.
13 Vua Sô-lô-môn sai người đến thành Tia mang Hu-ram [d] về. 14 Mẹ của Hu-ram thuộc chi tộc Nép-ta-li, góa chồng. Cha Hu-ram là người gốc thành Tia và rất giỏi về nghề làm đồ đồng. Hu-ram cũng rất giỏi và giàu kinh nghiệm làm đồ đồng. Nên ông đến làm đồ đồng cho vua Sô-lô-môn.
15 Ông làm hai cây cột đồng, mỗi cột cao chín thước, chu vi sáu thước. Các cột đều rỗng ruột, chiều dầy của vách cột khoảng bảy phân tây [e]. 16 Ông cũng làm hai đầu cột cao hai thước rưỡi [f] và đặt lên trên đỉnh các cột. 17 Rồi ông cũng làm một cái lưới gồm bảy dây xích cho mỗi đầu cột, lưới đó bao quanh đỉnh của các đầu cột. 18 Ông làm hai hàng trái lựu bằng đồng gắn vào lưới. Các trái lựu đó bao quanh đầu cột. 19 Các phần đầu cột nơi vòm cửa được làm theo hình hoa huệ, cao hai thước. 20 Các đầu cột nằm trên chóp hai cột, phía trên phần hình chậu kế cận các lưới. Có hai trăm trái lựu kết theo hàng quanh đầu cột. 21 Hu-ram đặt hai cột đồng nầy nơi vòm cửa của đền thờ. Ông gọi cột phía nam là Đấng Thiết Lập và cột phía bắc là Sức Mạnh ở trong Ngài. 22 Trên mỗi đầu cột đều đúc theo hình hoa huệ. Như thế công tác xây cột hoàn tất.
23 Rồi Hu-ram làm một cái chậu lớn hình tròn bằng đồng, gọi là cái Biển [g]. Chu vi biển là mười lăm thước, ngang năm thước, sâu hai thước rưỡi. 24 Quanh mép ngoài cái chậu là cái viền. Dưới cái viền nầy là hai hàng cây bằng đồng tạc quanh chậu. Mỗi nửa thước có mười cây, các cây được đúc thành một khối liền với chậu. 25 Cái chậu được đặt trên lưng mười hai con bò đực bằng đồng, mặt xoay ra ngoài. Ba con quay mặt về phía bắc, ba con quay mặt về phía tây, ba con quay mặt về phía nam, và ba con quay mặt về phía đông. 26 Bề dầy của chậu khoảng một tấc, chứa được khoảng hai ngàn bát [h] nước. Viền của chậu giống như viền của ly hay đóa hoa sen.
27 Sau đó Hu-ram làm mười cái giá bằng đồng, mỗi cái dài sáu bộ, rộng sáu bộ, và cao bốn bộ rưỡi. 28 Các giá có hình vuông, đặt trên khung. 29 Trên mỗi cạnh có tạc hình sư tử, bò đực và thú có cánh. Trên các khung, phía trên và phía dưới các con sư tử và con bò là các hình bông hoa giát vào đồng. 30 Mỗi giá có bốn bánh xe bằng đồng và trục ngang cũng bằng đồng. Ở các góc có các cây chống bằng đồng để đỡ cái chậu lớn, trên các cây chống cũng có chạm trổ hình bông hoa. 31 Trên các chậu có cái khung, cao hơn chậu nửa thước. Miệng chậu hình tròn, sâu bảy tấc rưỡi. Có các kiểu chạm hoa vào khung đồng quanh miệng hình vuông, không phải hình tròn. 32 Bốn bánh xe đặt dưới khung cao bảy tấc rưỡi. Các trục giữa các bánh xe cũng được làm thành một miếng cùng với cái giá. 33 Các bánh xe giống như các bánh quân xa. Vật gì cũng đặt trên bánh xe trục, niền, căm, và ổ trục và đều làm bằng đồng.
34 Bốn cây chống được đặt ở bốn góc xe đẩy. Chúng được chế thành một khối chung với xe đẩy. 35 Một đường viền đồng bọc quanh mỗi xe đẩy sâu hai tấc rưỡi. Nó cũng được chế thành một khối chung với xe đẩy. 36 Các cạnh của xe đẩy và khung đều có chạm hình các con thú có cánh, hình sư tử, cây chà là, và bông hoa. 37 Hu-ram làm mười xe đẩy giống nhau. Đồng để làm xe đẩy được nấu chảy và đổ vào một khuôn nên tất cả các xe đều cùng một cỡ và một dạng.
38 Hu-ram cũng chế mười chậu đồng, mỗi xe đẩy có một chậu. Mỗi chậu rộng hai thước và có thể chứa được khoảng tám mươi thùng [i]. 39 Hu-ram đặt năm xe đẩy về phía nam của đền thờ và năm xe đẩy về phía bắc. Ông đặt cái biển lớn về góc Đông Nam của đền thờ. 40 Hu-ram cũng làm các chậu, giá múc, và chén bát. Vậy Hu-ram thực hiện xong công tác trong đền thờ của CHÚA cho vua Sô-lô-môn: 41 hai cây trụ mang hình cái chậu; hai mạng lưới để che phần trên đầu trụ; 42 bốn trăm trái lựu cho hai mạng lưới, mỗi mạng lưới trên chóp cột được phủ bằng hai hàng trái lựu; 43 mười giá, trên mỗi giá có một chậu; 44 một bể lớn đặt trên mười hai con bò; 45 các nồi, xẻng, chén bát, và tất cả vật dụng dùng cho đền thờ của CHÚA. Tất cả những gì vua Sô-lô-môn muốn, Hu-ram đều làm bằng đồng đánh bóng.
46 Vua cũng cho đúc khuôn tất cả các vật dụng đó ở thung lũng sông Giô-đanh giữa Xu-cốt và Xa-rê-than. 47 Sô-lô-môn không cân số lượng đồng dùng để làm các thứ đó, vì quá nhiều nên không ai biết tổng số lượng đồng là bao nhiêu.
48 Sô-lô-môn cũng làm tất cả các đồ dùng cho đền thờ của CHÚA: bàn thờ bằng vàng, cái bàn bọc vàng để chưng bày bánh hiện diện; 49 các chân đèn bằng vàng ròng đặt trong Nơi Chí Thánh, bên phải năm cái, bên trái năm cái; các bông hoa, đèn, các kẹp gắp bằng vàng; 50 các chậu bằng vàng ròng, kéo hớt tim đèn, chén bát, chậu đựng, và dĩa dùng đựng than; các bản lề vàng cho các cửa của Nơi Chí Thánh và phòng chính của đền thờ.
51 Sau cùng công tác vua Sô-lô-môn thực hiện cho đền thờ của CHÚA hoàn tất. Sô-lô-môn mang tất cả những thứ Đa-vít, cha mình đã biệt riêng ra cho đền thờ: bạc, vàng, và các món khác. Vua để mọi thứ vào trong kho ngân khố của đền thờ CHÚA.
Sự hợp nhất của thân thể
4 Tôi ngồi tù là vì Chúa. Thượng Đế đã chọn anh chị em làm dân Ngài, nên tôi khuyên anh chị em hãy ăn ở xứng đáng với đời sống mới mà Thượng Đế đã gọi anh chị em. 2 Bao giờ cũng phải khiêm nhường, hòa nhã, kiên nhẫn và chấp nhận lẫn nhau trong tình yêu. 3 Anh chị em đã được buộc chặt với nhau do Thánh Linh, Đấng kết hợp chúng ta trong hòa bình, nên hãy cố gắng sống như thế. 4 Chỉ có một thân, một Thánh Linh, một Thượng Đế, là Đấng đã gọi anh chị em để nhận một hi vọng. 5 Chỉ có một Chúa, một đức tin, một lễ báp-têm. 6 Chỉ có một Thượng Đế, là Cha của mọi loài. Ngài quản trị mọi loài, hiện diện khắp nơi và ở trong mọi loài.
7 Chúa Cứu Thế đã ban cho mỗi người chúng ta một ân phúc đặc biệt theo quyết định của Ngài. 8 Vì thế mà Thánh Kinh đã viết,
“Khi Ngài lên chốn cao,
dắt theo một đoàn tù nhân,
và ban ân phúc cho loài người.” (A)
9 Thánh Kinh nói, “Ngài lên”; điều đó có nghĩa gì? Có nghĩa là trước hết Ngài đã phải xuống nơi đất thấp nầy. 10 Cho nên, Chúa Giê-xu đã xuống, và Ngài cũng là Đấng vượt trên các từng trời để có thể đầy dẫy trong mọi loài. 11 Chúa Cứu Thế cũng đã ban ân phúc cho con người: Ngài lập người nầy làm sứ đồ, người kia làm nhà tiên tri, người khác rao giảng Tin Mừng, người khác nữa lo chăm sóc và dạy dỗ dân Chúa [a]. 12 Chúa Cứu Thế đã ban các ân phúc ấy để trang bị dân thánh của Thượng Đế trong công tác làm vững mạnh thân thể Ngài. 13 Công tác đó phải tiếp tục cho tới khi tất cả chúng ta đều hiệp nhất trong đức tin và trong sự hiểu biết về Con Thượng Đế. Chúng ta phải trở nên người trưởng thành, càng ngày càng lớn lên cho đến khi chúng ta trở nên giống như Chúa Cứu Thế và đạt đến mức toàn thiện như Ngài.
14 Lúc đó chúng ta sẽ không còn là trẻ con nữa. Chúng ta sẽ không còn bị xô đẩy như thuyền gặp sóng. Chúng ta sẽ không còn bị lung lạc bởi các giáo lý mới mà có kẻ muốn phỉnh dỗ chúng ta. Họ lập mưu và tìm thủ đoạn dẫn dụ người ta vào đường lầm lạc. 15 Trái lại, chúng ta nói ra chân lý bằng tình yêu và trở nên giống như Chúa Cứu Thế về mọi mặt, Ngài là đầu của thân thể. 16 Cả thân đều lệ thuộc vào Chúa Cứu Thế, mọi phần trong thân đều được kết hợp với nhau nhờ Ngài. Mỗi phần làm nhiệm vụ riêng để cho toàn thân được lớn mạnh trong tình yêu.
Nếp sống phải theo
17 Nhân danh Chúa, tôi khuyên anh chị em không nên sống theo kiểu người vô tín nữa. Tư tưởng họ thật vô dụng. 18 Họ không muốn hiểu biết và cũng chẳng muốn nghe, nên họ không thể nào nhận được sự sống mà Thượng Đế ban cho. 19 Họ mất tất cả liêm sỉ và dùng đời mình đeo đuổi những việc vô luân. Họ thích làm điều ác. 20 Nhưng anh chị em đã học về Chúa Cứu Thế thì đừng theo nếp sống ấy. 21 Anh chị em đã nghe biết về Ngài và được dạy dỗ trong Ngài nên anh chị em đã học sự thật trong Chúa Giê-xu. 22 Anh chị em được dạy rằng phải từ bỏ con người cũ, tức từ bỏ nếp sống độc ác trước kia. Con người cũ đó đã hư hỏng rồi, vì đã bị lừa phỉnh bởi những ham muốn xấu xa. 23 Nhưng anh chị em đã được dạy là phải có tấm lòng mới và một tinh thần mới, 24 trở thành người mới, được tạo nên giống như Thượng Đế; tức trở thành thật tốt và thánh thiện.
25 Anh chị em hãy bỏ tính nói dối. Mỗi người hãy nói thật với nhau [b] vì chúng ta đều là chi thể của cùng một thân. 26 “Khi đang nóng giận chớ nên phạm tội” [c], và hãy nguôi giận trước khi mặt trời lặn. 27 Đừng tạo cho ma quỉ cơ hội đánh bại anh chị em. 28 Ai hay trộm cắp hãy thôi trộm cắp mà bắt đầu làm việc. Phải kiếm việc làm lương thiện để có thể giúp đỡ những người nghèo khó hơn mình.
29 Khi nói, hãy tránh những lời lẽ làm tổn thương nhưng hãy dùng những lời khuyến khích và làm ích người khác. Như thế lời nói của anh chị em sẽ ích lợi cho người nghe. 30 Đừng làm buồn Thánh Linh. Thánh Linh của Thượng Đế là bằng chứng rằng anh chị em thuộc về Ngài. Thượng Đế ban Thánh Linh cho anh chị em để cho thấy rằng đến ngày cuối cùng Ngài sẽ giải thoát anh chị em. 31 Hãy dẹp bỏ những sự cay đắng và giận dữ. Đừng thốt ra những lời hung hăng làm tổn thương người khác. Đừng làm điều gì gian ác. 32 Hãy đối với nhau trong nhân từ và yêu thương, tha thứ nhau như Thượng Đế đã tha thứ anh chị em trong Chúa Cứu Thế.
Sự hiện thấy về các xương khô
37 Tôi cảm biết quyền năng CHÚA trên tôi và Thần Linh [a] CHÚA mang tôi đi rồi đặt tôi xuống giữa một thung lũng [b]. Ở đó đầy xương người. 2 Ngài dẫn tôi đi giữa đống xương, tôi thấy vô số xương, tất cả đều khô lắm. 3 Rồi Ngài hỏi tôi, “Hỡi con người, các xương nầy có sống được không?”
Tôi thưa, “Chúa ơi, chỉ một mình Ngài biết điều đó.”
4 Ngài bảo tôi, “Hãy nói tiên tri cùng các xương nầy và bảo chúng, ‘Hỡi các xương khô, hãy nghe lời phán của CHÚA. 5 CHÚA là Thượng Đế phán cùng các ngươi: Ta sẽ cho hơi sống [c] vào trong các ngươi để các ngươi sống lại. 6 Ta sẽ đặt các bắp thịt và thịt vào các ngươi và lấy da bọc các ngươi. Sau đó ta sẽ thở hơi vào để các ngươi sống lại. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA.’”
7 Vì vậy tôi nói tiên tri theo như CHÚA đã dặn. Trong khi tôi đang nói tiên tri thì có tiếng lọc cọc. Các xương cốt nhập lại với nhau. 8 Tôi nhìn thì thấy các bắp thịt gắn vào xương, thịt mọc lên, và da bọc lấy xương nhưng không có hơi thở trong các xương đó.
9 Rồi Ngài bảo tôi, “Hãy nói tiên tri cùng gió. Hỡi con người, hãy nói tiên tri cùng gió rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Hỡi gió, hãy đến từ bốn phương và thổi trên những kẻ bị giết nầy để chúng sống lại.’” 10 Nên tôi nói tiên tri theo như CHÚA truyền. Rồi hơi sống thổi vào, chúng sống lại, đứng lên và trở thành một đạo quân rất đông. 11 Rồi Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, các xương nầy giống như dân Ít-ra-en. Chúng bảo, ‘Xương cốt chúng tôi khô [d], hi vọng chúng tôi không còn. Chúng tôi bị tiêu diệt rồi.’ 12 Cho nên hãy nói tiên tri cùng chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Hỡi dân ta, ta sẽ mở mồ mả các ngươi và khiến các ngươi bước ra khỏi mồ mả mình. Rồi ta sẽ mang các ngươi về xứ Ít-ra-en. 13 Hỡi dân ta, các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA khi ta mở cửa mả các ngươi và khiến các ngươi bước ra khỏi đó. 14 Ta sẽ đặt Thần Linh ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ sống lại. Ta sẽ đặt các ngươi vào xứ mình. Rồi các ngươi sẽ biết rằng ta, CHÚA, đã phán và thực hiện điều đó, CHÚA phán vậy.’”
Giu-đa và Ít-ra-en sẽ thống nhất
15 CHÚA phán cùng tôi rằng, 16 “Hỡi con người, hãy lấy một cây gậy và ghi trên đó, ‘Dành cho Giu-đa và toàn dân Ít-ra-en [e].’ Rồi lấy một cây gậy khác và ghi trên đó, ‘Gậy của Ép-ra-im, dành cho Giô-xép và toàn dân Ít-ra-en cùng với người.’ 17 Rồi nhập hai cây gậy lại với nhau làm một để trong tay ngươi chỉ cầm một cây gậy mà thôi.
18 Khi dân ngươi yêu cầu, ‘Xin hãy giải thích điều ông làm,’ 19 thì hãy bảo chúng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Ta sẽ lấy cây gậy dành cho Giô-xép và các chi tộc Ít-ra-en cùng với người, tức gậy trong tay Ép-ra-im và ta sẽ để gậy đó chung với gậy của Giu-đa. Ta sẽ nhập hai cây gậy làm một, trong tay ta chỉ có một cây gậy thôi.’ 20 Hãy cầm các cây gậy mà ngươi đã ghi các tên đó trong tay ngươi để dân chúng nhìn thấy. 21 Hãy nói cùng dân chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Ta sẽ rút dân Ít-ra-en ra khỏi các dân mà chúng bị lưu đày. Ta sẽ gom chúng lại từ khắp mọi nơi và mang chúng về trong xứ mình. 22 Ta sẽ khiến chúng trở thành một dân trong xứ, trên các núi của Ít-ra-en. Một vị vua sẽ cai trị chúng. Chúng sẽ không còn là hai dân tộc nữa; không còn chia làm hai nước nữa. 23 Chúng sẽ không còn làm ô uế chính mình bằng những tượng chạm, các hình tượng mà ta ghét, hay bằng các tội lỗi chúng. Ta sẽ giải cứu chúng ra khỏi mọi cách chúng phạm tội và chống nghịch ta, ta sẽ tẩy sạch chúng. Rồi chúng sẽ làm dân ta, ta sẽ làm Thượng Đế chúng.’
24 Đa-vít, tôi tớ ta sẽ làm vua trên chúng, và chúng sẽ chỉ có một người chăn mà thôi. Chúng sẽ sống theo qui tắc và vâng theo luật lệ ta. 25 Chúng sẽ sống trong xứ mà ta ban cho Gia-cốp, tôi tớ ta, xứ mà tổ tiên chúng đã sống. Chúng sẽ sống trong xứ đó đời đời: từ chúng cho đến con cháu chúng. Đa-vít, kẻ tôi tớ ta sẽ làm vua trên chúng đời đời. 26 Ta sẽ lập giao ước hoà bình với chúng, một giao ước còn đời đời. Ta sẽ đặt chúng vào trong xứ và khiến dân số chúng gia tăng. Rồi ta sẽ đặt đền thờ ta ở giữa chúng đời đời. 27 Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ làm Thượng Đế chúng, còn chúng sẽ làm dân ta. 28 Khi đền thờ ta ở giữa chúng đời đời thì các dân sẽ biết rằng ta, CHÚA, đã khiến cho Ít-ra-en ra thánh.”
Chúa ưa thích Giê-ru-sa-lem
Bài ca ngợi của con cháu Cô-rê.
87 Chúa xây dựng Giê-ru-sa-lem trên các núi thánh.
2 Ngài ưa thích các cổng Xi-ôn hơn các nơi khác trong Ít-ra-en.
3 Hỡi thành của Thượng Đế,
người ta nói rất nhiều điều kỳ diệu về ngươi. Xê-la
4 Thượng Đế phán, “Ta sẽ đặt Ai-cập [a] và Ba-by-lôn
trong danh sách các quốc gia biết ta.
Các dân Phi-li-tin, Tia và Ê-thi-ô-bi đều sinh trưởng từ nơi đó.”
5 Họ nói về Giê-ru-sa-lem như sau,
“Người nầy, người nọ sinh ra ở đó.”
Thượng Đế Chí Cao sẽ thêm sức cho thành ấy.
6 Chúa sẽ giữ một danh sách các quốc gia.
Ngài ghi chú rằng, “Người nầy sinh tại đó.” Xê-la
7 Họ sẽ nhảy múa hát xướng,
“Mọi điều tốt lành đều từ ngươi mà ra, hỡi Giê-ru-sa-lem.”
Lời kêu ca buồn thảm
Bài ca ngợi của con cháu Cô-rê soạn cho nhạc trưởng. Lời cầu nguyện xin CHÚA chữa bệnh. Theo giọng Ma-ha-lát Lê-an-nốt. Thể mạch-kinh của Hê-man người Ếch-ra-hít.
88 Chúa ôi, Ngài là Thượng Đế, Đấng cứu tôi.
Cả ngày lẫn đêm, tôi kêu cầu cùng Chúa.
2 Xin hãy nghe lời khẩn nguyện tôi,
lắng nghe tiếng kêu xin của tôi.
3 Đời tôi đầy khốn khổ, tôi hầu như sắp chết.
4 Người ta nghĩ rằng tôi đang đi xuống mồ.
Tôi như người kiệt sức.
5 Tôi bị bỏ mặc cho chết,
như xác nằm trong mồ,
như những kẻ mà Ngài không nhớ tới nữa,
hoàn toàn bị cách xa quyền năng Chúa.
6 Chúa đã đặt tôi trong mồ sâu tăm tối của sự chết.
7 Cơn giận Ngài nổi phừng cùng tôi;
các lượn sóng Chúa bao trùm tôi. Xê-la
8 Chúa đã làm cho bạn hữu tôi xa lánh tôi,
khiến họ ghét tôi.
Tôi bị mắc kẹt không thoát được.
9 Mắt tôi lòa vì than khóc.
Chúa ôi, tôi cầu nguyện cùng Chúa mỗi ngày.
Tôi giơ tay lên cầu nguyện cùng Chúa.
10 Ngài có tỏ phép lạ cho người chết không?
Họ có sống dậy để ca ngợi Ngài không? Xê-la
11 Tình yêu Ngài có được rao truyền nơi huyệt mả không?
Sự thành tín Ngài có được rao giảng nơi cõi chết [b] không?
12 Phép lạ Ngài có được biết đến trong mồ mả đen tối không?
Sự nhân từ Ngài có được biết đến nơi đất lãng quên không?
13 Nhưng Chúa ôi, tôi đã kêu cứu cùng Ngài;
mỗi sáng tôi cầu nguyện với Ngài.
14 Lạy Chúa, sao Ngài lìa bỏ tôi?
Sao Ngài ẩn mặt cùng tôi?
15 Tôi yếu ớt và hấp hối từ khi còn trẻ.
Tôi gánh chịu sự kinh khiếp của Ngài,
tôi hoàn toàn kiệt quệ.
16 Ngài đã nổi giận cùng tôi,
cơn kinh khiếp của Chúa tàn hại tôi.
17 Chúng vây tôi hằng ngày như nước lụt.
Chúng đến quanh tôi.
18 Ngài đã lấy người thân và bạn bè tôi đi.
Tôi phải làm bạn với bóng tối.
© 2010 Bible League International