Historical
San-shê-ríp Đe Dọa Giê-ru-sa-lem
36 Vào năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia, San-chê-ríp, vua A-si-ri lên đánh tất cả các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. 2 Vua A-si-ri sai Ráp-sa-kê[a] từ La-ki đem một đạo binh hùng mạnh đến Giê-ru-sa-lem để tấn công vua Ê-xê-chia. Ráp-sa-kê đứng tại cống nước Ao Thượng, nơi con đường đến ruộng thợ nhuộm. 3 Bấy giờ, Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai quản cung điện; Sép-na, quan ký lục và Giô-a, con trai A-sáp, quan ngự sử đến cùng người.
4 Ráp-sa-kê nói với họ: “Hãy nói với Ê-xê-chia rằng: ‘Đại Đế, vua A-si-ri phán thế này: Cậy vào đâu mà ngươi tin tưởng như vậy? 5 Ngươi[b] bảo rằng: Lời nói suông sẽ là chiến lược và lực lượng cho chiến tranh chăng? Giờ đây, ngươi cậy ai mà phản loạn cùng ta? 6 Này, ngươi nương cậy Ai Cập, là cái gậy bằng sậy đã gãy mà hễ ai tựa vào nó sẽ bị đâm lủng tay. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập cũng như vậy đối với ai nương cậy người. 7 Còn nếu ngươi bảo ta rằng: “Chúng tôi tin cậy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi;” nhưng đó không phải là Đấng mà Ê-xê-chia đã hủy bỏ các nơi cao và các bàn thờ của Ngài rồi truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy thờ lạy trước bàn thờ này sao?” 8 Nào, bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta, vua A-si-ri: Ta sẽ ban cho ngươi hai ngàn con ngựa nếu ngươi đủ sức tìm đủ lính kỵ để cưỡi! 9 Thế thì làm sao ngươi đánh đuổi được một tướng rất nhỏ trong số các tôi tớ của chủ ta dù ngươi cậy Ai Cập để có xe chiến mã và lính kỵ? 10 Vả lại, không phải nhờ CHÚA mà ta lên đánh xứ này và hủy diệt nó sao? CHÚA bảo ta hãy lên đánh và hủy diệt xứ này.’ ”
11 Ê-li-a-kim, Sép-na và Giô-a nói cùng Ráp-sa-kê rằng: “Xin nói với tôi tớ ông bằng tiếng A-ram vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa cho dân trên tường thành này nghe.” 12 Nhưng Ráp-sa-kê đáp: “Phải chăng chủ ta chỉ sai ta nói những lời này với chủ ngươi và ngươi thôi sao? Không phải cũng nói cho những kẻ ngồi trên tường thành, là những kẻ cùng các ngươi sẽ phải ăn phân, uống nước tiểu mình sao?”
13 Thế rồi Ráp-sa-kê đứng dậy, dùng tiếng Giu-đa kêu to lên rằng: “Hãy nghe lời phán của Đại Đế, là vua A-si-ri: 14 Vua phán: Đừng để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi vì người không đủ sức giải cứu các ngươi. 15 Cũng đừng để Ê-xê-chia thuyết phục các ngươi tin cậy vào CHÚA mà nói rằng: ‘Chắc chắn CHÚA sẽ giải cứu chúng ta, Ngài không để thành này lọt vào tay vua A-si-ri đâu!’
16 Chớ nghe lời Ê-xê-chia vì vua A-si-ri phán thế này: Hãy làm hòa[c] với ta, đầu hàng ta đi thì mỗi người sẽ được ăn trái nho, trái vả và uống nước giếng mình. 17 Cho đến khi ta đến và đem các ngươi vào vùng đất như đất của các ngươi, tức là đất có lúa và rượu, đất có bánh và vườn nho. 18 Hãy coi chừng kẻo Ê-xê-chia dụ dỗ các ngươi mà nói rằng: ‘CHÚA sẽ giải cứu chúng ta.’ Vậy, có thần nào trong số thần của các nước đã giải cứu đất nước họ ra khỏi tay vua A-si-ri chưa? 19 Các thần của Ha-mát và Ạt-bát ở đâu? Các thần của Sê-phạt-va-im ở đâu? Các thần ấy có cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta không? 20 Thần nào trong tất cả thần của các nước đã giải cứu đất nước họ khỏi tay ta? Làm sao CHÚA có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta?”
21 Nhưng họ im lặng, không trả lời một tiếng nào vì vua đã truyền: “Không được trả lời người.” 22 Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai quản cung điện; Sép-na, quan ký lục và Giô-a, con trai A-sáp, quan ngự sử đến với vua Ê-xê-chia, xé áo mình mà thuật lại các lời Ráp-sa-kê nói.
Lời Cầu Nguyện Của Vua Ê-xê-chia
37 Nghe thấy thế, vua Ê-xê-chia xé áo mình, mặc đồ tang chế, đi vào đền thờ CHÚA. 2 Vua sai Ê-li-a-kim, quan cai quản cung điện, Sép-na, quan ký lục, các trưởng lão trong hàng thầy tế lễ, đều mặc đồ tang chế đến gặp I-sa, con trai A-mốt, một vị tiên tri. 3 Họ nói với người: “Vua Ê-xê-chia phán như thế này: Hôm nay là ngày sầu thảm, quở trách và nhục nhã; vì con cái đã đến lúc ra đời nhưng không đủ sức để sinh. 4 Có lẽ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi sẽ nghe những lời mà Ráp-sa-kê, sứ giả của vua A-si-ri, chủ người sai đến để phạm thượng cùng Đức Chúa Trời hằng sống; và có lẽ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi sẽ trừng phạt nó vì những lời Ngài đã nghe. Vậy hãy cầu nguyện cho dân sót còn lại.”
5 Các tôi tớ vua Ê-xê-chia đến gặp I-sa. 6 I-sa bảo họ: “Hãy nói với chủ các ngươi rằng: CHÚA phán thế này: ‘Đừng sợ vì những lời mà người đã nghe tôi tớ vua A-si-ri nói phạm cùng Ta. 7 Này, Ta sẽ để một thần linh trong nó, nó sẽ nghe tin đồn và trở về xứ mình và Ta sẽ làm cho nó ngã bằng gươm trong xứ mình.’ ”
8 Bấy giờ Ráp-sa-kê trở về, thấy vua A-si-ri đang đánh thành Líp-na vì người nghe rằng vua đã rời khỏi La-ki. 9 Bấy giờ người nghe về Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi, rằng vua ấy đem quân đánh vua. Sau khi nghe như thế vua A-si-ri sai các sứ giả đến cùng Ê-xê-chia nói rằng: 10 “Hãy nói với Ê-xê-chia, vua Giu-đa thế này: ‘Chớ để Đức Chúa Trời, Đấng mà ngươi tin cậy, lừa ngươi khi Ngài hứa rằng: Thành Giê-ru-sa-lem sẽ không lọt vào tay vua A-si-ri.’ 11 Này, ngươi có nghe điều vua A-si-ri đã làm cho tất cả các nước không? Người hủy diệt chúng hoàn toàn; còn ngươi sẽ được giải cứu sao? 12 Các thần của các nước mà tổ tiên chúng ta đã hủy diệt, tức là thần của Gô-sen, của Kha-ran, của Rốt-xép, của con cái Ê-đen ở Tê-la-sa, có giải cứu được họ không? 13 Vua của Ha-mát, của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, thành Hê-na và thành Y-va ở đâu?”
14 Vua Ê-xê-chia nhận thơ từ tay các sứ giả và đọc nó; người lên đền CHÚA và mở thơ ra trước mặt CHÚA. 15 Vua Ê-xê-chia cầu nguyện cùng CHÚA rằng: 16 “Lạy CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng ngự trên các Chê-ru-bim, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của mọi vương quốc trên đất; chính Ngài đã tạo nên trời đất: 17 Lạy CHÚA, xin Ngài hãy nghiêng tai để nghe. Lạy CHÚA, xin Ngài hãy mở mắt để thấy, xin hãy nghe hết những lời mà San-chê-ríp đã sai nói để xúc phạm đến Đức Chúa Trời hằng sống. 18 Lạy CHÚA, thật vậy, các vua A-si-ri đã hủy diệt tất cả các nước[d] và đất đai họ; 19 ném các thần vào lửa, vì chúng không phải là thần linh, mà công việc bằng gỗ, đá do tay người làm ra nên bị hủy diệt. 20 Vậy, bây giờ, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi, xin giải cứu chúng tôi khỏi tay người để mọi vương quốc trên đất đều biết rằng chỉ một mình Ngài là CHÚA.”
21 I-sa, con trai A-mốt sai người tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán thế này: Vì ngươi đã cầu nguyện cùng ta về San-chê-ríp, vua A-si-ri. 22 Đây là lời của CHÚA phán về nó:
“Con gái đồng trinh của Si-ôn
Khinh bỉ ngươi, chế nhạo ngươi.
Con gái Giê-ru-sa-lem
Lắc đầu sau lưng ngươi.
23 Ngươi đã nhục mạ và xúc phạm cùng ai?
Ngươi đã cất tiếng nghịch cùng ai?
Ngươi đã ngước mắt kiêu kỳ
Nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
24 Ngươi đã dùng tôi tớ mình
Chế nhạo CHÚA,
Nói rằng:
‘Nhờ nhiều xe chiến mã,
Ta đã lên các đỉnh cao các núi,
Nơi sâu thẳm của Li-ban;
Ta đã chặt những cây tùng cao nhất,
Những cây bách tốt nhất;
Ta đã lên trên đỉnh cao nhất,
Đến nơi rừng rậm nhất.
25 Ta đã đào giếng[e]
Và uống nước,
Bàn chân Ta đã làm
Khô hạn mọi suối ở Ai Cập.’
26 Ngươi chưa nghe rằng
Ta đã làm điều đó từ xa xưa sao?
Ta đã định từ thượng cổ,
Nay Ta làm cho thành tựu.
Ấy là ngươi sẽ tàn phá các thành kiên cố,
Biến chúng thành những đống đổ nát.
27 Dân cư các thành ấy không còn sức lực,
Kinh hoàng và xấu hổ.
Chúng trở nên như cây ngoài đồng;
Như cỏ non;
Như cỏ trên mái nhà,
Chưa mọc lên[f] đã khô héo.[g]
28 Ta biết rõ khi ngươi ngồi,
Ngươi đi hay đến,
Và khi ngươi nổi giận nghịch cùng Ta.
29 Vì ngươi nổi giận nghịch cùng Ta,
Sự kiêu căng ngươi đã đến tai Ta,
Ta sẽ móc khoen vào mũi ngươi,
Đặt khớp nơi môi miệng ngươi,
Khiến ngươi quay trở về
Bằng con đường ngươi đã đến.
30 Đây là dấu hiệu cho ngươi, Ê-xê-chia:
Năm nay ngươi sẽ ăn hoa quả do ruộng tự sinh;
Sang năm, ăn những gì từ đó sinh ra.
Đến năm thứ ba hãy gieo và gặt;
Hãy trồng vườn nho và ăn trái.
31 Một lần nữa, dân sót của nhà Giu-đa còn sống sót,
Sẽ đâm rễ ở dưới và kết quả ở trên.
32 Vì từ Giê-ru-sa-lem dân sót sẽ đi ra
Và từ núi Si-ôn dân sống sót sẽ đến.
Lòng nhiệt thành của CHÚA Vạn Quân
Sẽ làm điều này.
33 Cho nên, CHÚA phán thế này về vua A-si-ri:
Người sẽ không vào thành này,
Không bắn vào đó một mũi tên,
Không mang thuẫn vào thành,
Cũng không đắp lũy chống nó.
34 Nó sẽ quay trở về bằng con đường nó đến.
CHÚA phán: Nó sẽ không vào thành này.
35 Ta sẽ bảo vệ và giải cứu thành này
Vì cớ Ta và vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta.”
36 Bấy giờ thiên sứ của CHÚA vào trại quân A-si-ri và giết 185,000 người. Sáng hôm sau khi thức dậy, kìa, toàn là thây người chết. 37 San-chê-ríp, vua A-si-ri, rời nơi đó để ra đi, trở về và ở tại Ni-ni-ve. 38 Một hôm, khi người đang thờ lạy trong đền của thần mình là Nít-róc; các con trai người là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se dùng gươm giết người rồi chúng trốn thoát qua xứ A-ra-rát. Con trai người là I-sạt-ba-đôn lên ngôi trị vì thế người.
Vua Ê-xê-chia Được Chữa Lành
38 Vào lúc ấy, vua Ê-xê-chia bị bệnh sắp chết. Tiên tri I-sa, con trai A-mốt, đến nói với vua rằng: “CHÚA phán thế này: Hãy sắp đặt nhà ngươi vì ngươi sẽ chết, không sống được.” 2 Vua Ê-xê-chia xây mặt vào tường và cầu nguyện cùng CHÚA. 3 Người cầu nguyện: “Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài, xin nhớ lại thể nào con đã bước đi trung tín[h] trước mặt Ngài, hết lòng theo Ngài và làm những điều tốt lành trước mặt Ngài;” thế rồi vua Ê-xê-chia khóc lớn tiếng.
4 Bấy giờ có tiếng của CHÚA phán cùng 5 I-sa rằng: “Hãy đến nói với Ê-xê-chia: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ngươi phán thế này: Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi, Ta đã thấy nước mắt ngươi. Này, Ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm tuổi. 6 Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này ra khỏi tay vua A-si-ri; Ta sẽ bảo vệ thành này.
7 Đây là dấu hiệu từ CHÚA ban cho ngươi; CHÚA sẽ làm điều Ngài đã hứa: 8 Này, Ta sẽ làm cho bóng trên các bậc thang[i] lui lại mười bậc, tức là bóng do mặt trời đi qua chiếu xuống các bậc thang cấp của A-cha.’ ”[j] Vậy mặt trời lui lại mười bậc trên các bậc thang nó đã đi qua.
9 Lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa sau khi bị bệnh và được lành.
10 Tôi nói: “Đang nửa đời người,
Tôi phải ra đi, những năm tháng còn lại của đời tôi
Bị giao phó cho cửa Âm Phủ.”[k]
11 Tôi nói: “Tôi sẽ không thấy CHÚA[l] nữa,
Là CHÚA ở trên đất người sống.
Tôi sẽ không còn nhìn thấy người nữa
Giữa vòng những dân cư trên thế gian.[m]
12 Nơi ở của tôi đã bị dọn và dời đi khỏi tôi
Như căn lều của kẻ chăn cừu.
Tôi cuốn đời tôi như thợ dệt;
Ngài cắt đứt tôi khỏi khung cửi.
Ngài chấm dứt đời tôi khỏi ngày lẫn đêm.[n]
13 Tôi kêu la cho đến sáng;
Như sư tử, Ngài đánh gãy tất cả xương cốt tôi.
Ngài chấm dứt đời tôi khỏi ngày lẫn đêm.
14 Như chim én, chim nhạn tôi kêu la;
Tôi rên rỉ như chim bồ câu.
Mắt tôi mòn mỏi trông lên!
Lạy CHÚA, tôi bị áp bức; xin Ngài bảo toàn tôi.”
15 Tôi sẽ nói gì?
Vì Ngài đã phán cùng tôi, và Ngài đã làm việc ấy.
Tôi sẽ bước đi khiêm cung trọn đời[o]
Vì tâm hồn cay đắng.
16 Lạy CHÚA, người ta sống nhờ những điều này,
Tâm linh tôi sống cũng nhờ những điều đó.
Xin CHÚA phục hồi sức khỏe cho tôi
Và cho tôi sống.
17 Kìa, vì sự phúc lợi cho tôi,
Tôi đã bị cay đắng nhiều.
Nhưng Ngài đã nắm giữ linh hồn tôi
Khỏi sa xuống hố hủy diệt.
Vì Ngài đã ném bỏ mọi tội lỗi tôi
Ra sau lưng Ngài.
18 Vì Âm Phủ không cảm tạ Ngài,
Sự chết không ca ngợi Ngài
Và những kẻ đi xuống vực sâu
Không có hy vọng nơi sự thành tín của Ngài.
19 Kẻ sống, chỉ kẻ sống mới cảm tạ Ngài
Như tôi đã làm hôm nay.
Người cha sẽ dạy cho con cái
Biết sự thành tín của Ngài.
20 CHÚA là Đấng cứu rỗi tôi.
Trọn đời, chúng tôi
Sẽ dùng đàn dây
Đàn ca trong nhà CHÚA.
21 Bấy giờ I-sa bảo: “Hãy lấy một cái bánh trái vả đắp trên vết ung nhọt, người sẽ sống.” 22 Ê-xê-chia đã hỏi: “Có dấu hiệu nào cho ta biết rằng ta sẽ lên nhà CHÚA?”
Sứ Giả Từ Ba-by-lôn
39 Vào lúc ấy, vua Ba-by-lôn là Mê-rô-đác Ba-la-đan, con vua Ba-la-đan sai các sứ giả đem thư và tặng phẩm dâng vua Ê-xê-chia vì người nghe vua đau và đã được lành. 2 Vua Ê-xê-chia chào mừng các sứ giả và cho họ xem kho báu, bạc, vàng, hương liệu, dầu quý, tất cả kho võ khí và tất cả mọi vật trong kho. Không có vật gì trong cung điện hay trong cả vương quốc của mình mà vua Ê-xê-chia không chỉ cho các sứ thần xem.
3 Bấy giờ, tiên tri I-sa đến chầu vua Ê-xê-chia và hỏi: “Những người kia nói gì với vua và họ từ đâu đến thăm vua?” Vua Ê-xê-chia đáp: “Họ từ vùng đất xa xôi đến thăm ta, từ Ba-by-lôn.” 4 I-sa tiếp: “Họ đã xem gì trong cung vua?” Ê-xê-chia đáp: “Họ đã xem tất cả mọi vật trong cung điện ta. Không có vật gì trong kho báu mà ta không chỉ cho họ xem.” 5 I-sa tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: “Xin vua hãy nghe lời phán của CHÚA Vạn Quân. 6 Này, trong những ngày đến, tất cả mọi vật trong cung điện ngươi, là những vật tổ phụ ngươi đã tích trữ cho đến ngày nay, sẽ bị mang qua Ba-by-lôn, không có gì còn lại, CHÚA phán. 7 Một số con cháu[p] ngươi, những người thuộc dòng dõi ngươi, do ngươi sinh ra sẽ bị bắt đi và làm hoạn quan trong cung vua Ba-by-lôn.” 8 Vua Ê-xê-chia nói với I-sa: “Lời của CHÚA mà ngươi vừa nói là tốt.” Vì vua nói rằng trong thời vua sẽ có hòa bình và an ninh.[q]
Dân Chúa Được Yên Ủi
40 Đức Chúa Trời của các ngươi phán:
Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta.
2 Hãy dịu dàng[r] nói với Giê-ru-sa-lem,
Hãy thông báo cho nàng rằng:
Sự lao khổ[s] của nàng đã chấm dứt;
Tội lỗi nàng đã được trả thay,
Vì tất cả tội lỗi mình,
Nàng đã nhận gấp đôi từ tay CHÚA.
3 Có tiếng kêu rằng:
“Hãy chuẩn bị trong đồng hoang
Một con đường cho CHÚA.
Hãy làm ngay thẳng đường cái trong sa mạc
Cho Đức Chúa Trời chúng ta.
4 Mọi thung lũng sẽ được nâng cao,
Mọi núi đồi sẽ bị hạ thấp.
Những nơi gồ ghề sẽ thành bằng phẳng,
Những chỗ lồi lõm sẽ trở nên đồng bằng.
5 Bấy giờ vinh quang của CHÚA sẽ được khải thị
Và mọi người[t] đều sẽ thấy[u]
vì miệng CHÚA
đã phán như thế.”
6 Có tiếng nói: “Hãy kêu lên.”
Tôi hỏi:[v] “Tôi sẽ kêu gì đây?”
Tất cả mọi người chỉ là cỏ,
Mọi sự đẹp đẽ của họ như hoa ngoài đồng.
7 Cỏ khô, hoa rụng
Khi hơi thở CHÚA thổi qua chúng.
Thật vậy, loài người chỉ là cỏ.
8 Cỏ khô, hoa rụng
Nhưng Lời Đức Chúa Trời chúng ta đứng vững đời đời.
9 Hỡi người đem tin mừng đến cho Si-ôn,
Hãy đi lên trên núi cao.
Hỡi người loan báo tin mừng cho Giê-ru-sa-lem,
Hãy hết sức cất tiếng lên,
Hãy cất tiếng lên, đừng sợ.
Hãy nói với các thành của Giu-đa rằng:
“Đức Chúa Trời của các ngươi đây.”
10 Kìa, CHÚA đến với quyền năng
Và Ngài dùng cánh tay mình cai trị.
Kìa, Ngài đem phần thưởng đến với Ngài
Và sự báo trả ở trước mặt Ngài.
11 Ngài sẽ chăn dắt đàn chiên mình như người chăn chiên,
Gom những chiên con trong cánh tay,
Ẵm chúng vào lòng
Và nhẹ nhàng dẫn các chiên mẹ.
12 Ai đã dùng lòng bàn tay đong nước biển,[w]
Gang bàn tay đo các tầng trời?
Lấy đấu[x] đong bụi đất?
Cân núi trên bàn cân
Và đồi trên cán cân?
13 Ai có thể lường[y] được Thần của CHÚA?
Và ai là cố vấn để dạy Ngài?
14 Ngài đã tham khảo ai để được khai sáng?
Ai sẽ dạy Ngài con đường công bình?
Ai sẽ dạy Ngài tri thức?
Ai sẽ chỉ cho Ngài con đường hiểu biết?
15 Kìa, các dân khác nào giọt nước trong chậu,
Bị kể như bụi trên bàn cân.
Kìa, Ngài cầm các hải đảo lên như hạt bụi.
16 Li-ban sẽ không có đủ củi đốt,
Cũng không đủ thú vật để làm tế lễ thiêu.
17 Trước mặt Ngài tất cả các nước đều như không,
Chúng bị kể như chưa có
Và hư vô.
18 Các ngươi sẽ ví Đức Chúa Trời với ai?
Lấy hình ảnh nào để sánh với Ngài?
19 Một tượng thần mà người thợ đúc?
Rồi thợ bạc bọc vàng
Và làm cho các dây chuyền bằng bạc.
20 Một người nghèo khi dâng lễ vật
Thì chọn gỗ[z] không mục.
Người tìm một thợ khéo
Tạc một bức tượng vững chắc không đổ.
21 Các ngươi chưa biết sao?
Các ngươi chưa nghe sao?
Từ lúc ban đầu các ngươi chưa được bảo cho sao?
Từ khi nền trái đất được lập các ngươi chưa hiểu sao?
22 Đấng ngự trên vòm trái đất và này,
Dân cư trên đất như châu chấu vậy.
Ngài kéo các từng trời ra như bức màn;
Ngài căng chúng lên như lều để ở.
23 Ngài làm cho các hoàng tử trở nên không,
Khiến các kẻ cai trị trái đất trở thành hư vô.
24 Họ vừa mới được trồng,
Họ vừa mới được gieo,
Cây vừa mới đâm rễ trong đất
Thì CHÚA thổi qua và chúng khô héo;
Này, một cơn gió lốc đùa chúng đi như rơm rạ.
25 Đấng Thánh phán: “Các ngươi sẽ so sánh Ta với ai?
Ta sẽ giống[aa] ai?”
26 Hãy ngước mắt lên cao,
Và nhìn xem ai đã sáng tạo ra những vật này?
Ai là Đấng đem các thiên thể đến theo số lượng[ab]
Và gọi tất cả thiên thể bằng tên?
Vì sức mạnh vĩ đại và quyền năng mạnh mẽ của Ngài
Không một thiên thể nào thiếu.
27 Hỡi Gia-cốp, tại sao ngươi nói;
Hỡi Y-sơ-ra-ên, tại sao ngươi tuyên bố rằng:
“Đường lối tôi bị che khuất khỏi CHÚA!
Đức Chúa Trời của tôi không quan tâm đến quyền lợi tôi!”
28 Ngươi không biết sao?
Ngươi chưa nghe sao?
CHÚA là Đức Chúa Trời đời đời.
Ngài là Đấng sáng tạo các đầu cùng trái đất.
Ngài không kiệt sức cũng không mỏi mệt,
Và sự hiểu biết của Ngài không thể dò được.
29 Ngài ban năng lực cho người kiệt lực;
Ngài thêm sức cho kẻ thiếu sức.
30 Ngay cả người trẻ tuổi cũng sẽ kiệt lực và mệt mỏi;
Các thanh niên sẽ vấp và ngã quỵ.
31 Nhưng ai trông cậy nơi CHÚA
Sẽ được phục hồi sức mới,
Cất cánh bay cao như chim đại bàng;
Chạy mà không mệt nhọc,
Đi mà không kiệt sức.
Y-sơ-ra-ên Được Chúa Giúp
41 “Hỡi các hải đảo, hãy im lặng trước mặt Ta.
Hãy để cho các nước phục hồi năng lực;
Hãy để chúng đến gần và nói đi.
Chúng ta hãy cùng nhau đến gần để tranh cãi.[ac]
2 Ai đã đánh thức người[ad] từ phương đông?
Trong sự công chính, kêu gọi người đến chân mình?
Trao các nước cho người,
Chà đạp các vua dưới chân.
Trao phó chúng nó cho gươm người như bụi đất?
Phó chúng nó cho cung người như rơm rác gió thổi bay đi?
3 Người săn đuổi chúng, vượt qua một cách an toàn
Con đường mà chân ngươi chưa hề bước đến.
4 Ai đã thực hiện và làm điều này?
Ai đã gọi các thế hệ từ ban đầu?
Chính Ta là CHÚA, là đầu tiên và cũng sẽ hiện diện
Cho đến cuối cùng. Chính Ta là Đấng ấy.”
5 Các hải đảo thấy và sợ hãi,
Các đầu cùng trái đất run rẩy;
Chúng tiến lại gần và đến.
6 Mỗi người giúp kẻ lân cận mình
Và nói với anh em mình: “Hãy can đảm lên.”
7 Thợ mộc khuyến khích thợ vàng;
Thợ gò bằng búa
Khích lệ thợ đập đe;
Thợ hàn lại bảo: “Thế là tốt;”
Rồi họ dùng đinh đóng để nó khỏi ngã.
8 “Nhưng ngươi, hỡi Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta.
Hỡi Gia-cốp, kẻ ta chọn lựa;
Là dòng dõi Áp-ra-ham, bạn Ta.
9 Ta đã nắm lấy ngươi từ đầu cùng trái đất,
Kêu gọi ngươi từ các góc đất,
Và bảo ngươi: ‘Ngươi là tôi tớ Ta,’
Ta đã chọn ngươi và không bỏ ngươi.
10 Đừng sợ vì Ta ở cùng ngươi.
Chớ kinh hoàng vì Ta là Đức Chúa Trời ngươi.
Ta sẽ thêm sức cho ngươi, giúp đỡ ngươi.
Ta sẽ gìn giữ ngươi bằng tay phải công chính[ae] của Ta.
11 Này, tất cả những kẻ giận ngươi
Sẽ bị hổ thẹn và nhục nhã.
Những kẻ chống nghịch ngươi
Sẽ như không và bị hủy diệt.
12 Những kẻ tranh đấu chống lại ngươi,
Ngươi sẽ tìm chúng nhưng không thấy.
Những kẻ tranh chiến nghịch cùng ngươi
Sẽ như không có gì cả.
13 Vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,
Đấng nắm tay phải ngươi
Và phán cùng ngươi: Đừng sợ,
Chính Ta sẽ giúp đỡ ngươi.
14 Hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người[af] Y-sơ-ra-ên: Đừng sợ.
Ta sẽ giúp đỡ ngươi.”
Ngài là Đấng cứu chuộc ngươi,
Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, CHÚA phán như thế.
15 “Này, Ta sẽ làm cho ngươi thành một công cụ đập lúa mới,
Bén và có nhiều răng.
Ngươi sẽ đập các núi và đánh tan chúng.
Ngươi sẽ làm các đồi trở thành như rơm rạ.[ag]
16 Ngươi sẽ sàng sảy chúng rồi gió thổi đi;
Một cơn gió lốc sẽ làm chúng tan tác.
Còn ngươi sẽ vui mừng trong CHÚA;
Và tôn vinh trong Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
17 Những kẻ nghèo nàn và thiếu thốn tìm kiếm nước
Nhưng không có;
Lưỡi họ khô vì khát.
Ta là CHÚA, sẽ đáp lời chúng;
Ta là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ không từ bỏ họ.
18 Ta sẽ làm cho các sông chảy ra trên đồi trọc;
Các suối ở giữa những thung lũng;
Biến sa mạc thành hồ nước;
Đất khô hạn thành những mạch nước.
19 Ta sẽ trồng cây tùng, cây xiêm,
Cây hải đào và cây ô-liu trong sa mạc.
Ta sẽ trồng chung với nhau trong sa mạc
Cây thông, cây huyền và cây bách.
20 Để người ta thấy và biết,
Để cùng nhau suy gẫm và hiểu rằng:
Bàn tay CHÚA đã làm điều này
Và Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã sáng tạo nó.”
21 CHÚA phán: “Hãy trình vụ kiện của các ngươi.”
Vua của Gia-cốp phán: “Hãy đưa ra những lý lẽ hùng biện.”
22 “Hãy để chúng đến[ah]
Và nói cho chúng ta biết điều gì sẽ xảy đến.
Hãy nói cho chúng ta biết những điều đã xảy ra từ trước
Để chúng ta suy tư
Và biết kết cục của chúng;
Hãy công bố cho chúng ta biết những việc sẽ đến.
23 Hãy nói cho chúng ta biết những điều sẽ xảy ra sau này
Để chúng ta biết các ngươi là các thần.
Phải, hãy ban phước hay giáng họa[ai] đi
Để chúng ta kinh ngạc hay cùng nhau chiêm ngưỡng.[aj]
24 Này, các ngươi chẳng ra gì;
Công việc của các ngươi là vô ích;
Kẻ chọn các ngươi là ghê tởm.
25 Ta đã đánh thức người từ phương bắc; người đã đến.
Từ phương đông, người đã kêu cầu danh Ta.
Người chà đạp[ak] những kẻ lãnh đạo như bùn đất;
Như thợ gốm nặn đất sét.
26 Ai đã nói điều đó từ ban đầu để chúng ta biết?
Ai đã bảo từ trước để chúng ta nói rằng: ‘Người là đúng.’
Không ai nói điều gì,
Không ai công bố gì,
Không ai nghe tiếng nào từ các ngươi cả.
27 Việc đầu tiên là đối với Si-ôn,[al] hãy nhìn xem, hãy nhìn xem chúng
Và Ta sẽ sai một người báo tin mừng đến Giê-ru-sa-lem.
28 Ta tìm xem nhưng không có ai,
Không một cố vấn nào giữa vòng những người này
Để khi Ta hỏi, họ có thể đáp một lời.
29 Kìa, tất cả chúng nó đều là hư ảo,
Công việc chúng nó là hư không;
Hình tượng chúng nó là gió và trống không.”
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)