Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Chronological

Read the Bible in the chronological order in which its stories and events occurred.
Duration: 365 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Nê-hê-mi 8-10

Dân Chúng Tụ Họp Lại Nghe Đọc Và Giải Nghĩa Kinh Luật

Bấy giờ toàn dân nhất trí tụ họp lại tại quảng trường trước cổng Nước. Họ xin thầy tế lễ Ê-xơ-ra thông thạo về Kinh Luật đem ra cuộn da đã chép Kinh Luật Môi-se mà CHÚA đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên. Ngày mồng một tháng bảy, thầy tế lễ Ê-xơ-ra đem Kinh Luật ra trước hội chúng bao gồm cả nam lẫn nữ cùng hết thảy những người có khả năng thông hiểu những gì họ nghe. Tại quảng trường trước cổng Nước, từ rạng đông cho đến trưa, ông đọc cho cả nam lẫn nữ cùng những người có khả năng hiểu biết nghe. Toàn dân lắng tai nghe đọc Kinh Luật.

Thầy tế lễ thông thạo Kinh Luật Ê-xơ-ra đứng trên một bục gỗ cao[a] đóng nhơn dịp này. Đứng bên phải ông có Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Hinh-ki-gia, và Ma-a-sê-gia. Bên trái có Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hạch-ba-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam. Vì Ê-xơ-ra đứng cao hơn họ, nên khi ông mở cuốn kinh ra, toàn dân đều thấy, và đứng dậy. Ê-xơ-ra ca tụng CHÚA, Đức Chúa Trời vĩ đại. Toàn dân giơ tay lên, đáp lại: “A-men! A-men!” rồi quỳ gối, sấp mặt xuống đất, thờ lạy CHÚA.

Những người Lê-vi là Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, A-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-sê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, và Bê-la-gia giải thích cho dân chúng hiểu rõ Kinh Luật trong khi dân chúng ai nấy đứng nguyên tại chỗ mình. Họ đọc Kinh Luật của Đức Chúa Trời, đọc và giải nghĩa từng phân đoạn[b] cho nên dân chúng hiểu lời họ đọc.

Vì cả dân chúng đều khóc khi nghe những lời trong Kinh Luật nên tổng trấn Nê-hê-mi, thầy tế lễ Ê-xơ-ra, và những người Lê-vi đang giải thích cho dân chúng thông hiểu Kinh Luật, nói với họ: “Xin ông bà anh chị chớ buồn rầu, cũng đừng than khóc, vì hôm nay là ngày thánh cho CHÚA.” 10 Ê-xơ-ra nói tiếp: “Ông bà anh chị hãy về ăn của ngon,[c] uống vật ngọt,[d] và hãy san sẻ thức ăn[e] cho những người không có chuẩn bị, vì hôm nay là ngày thánh cho Chúa chúng ta. Xin ông bà anh chị chớ sầu thảm, vì niềm vui trong CHÚA là sức mạnh của ông bà anh chị.” 11 Người Lê-vi cũng khuyên lơn dân chúng: “Xin ông bà anh chị an tâm. Vì hôm nay là ngày thánh, xin ông bà anh chị đừng sầu não nữa.” 12 Toàn thể dân chúng ra về, ăn, uống, và san sẻ cho người không có. Họ ăn mừng trọng thể vì họ hiểu được những lời truyền dạy cho họ.

Cử Hành Lễ Lều Tạm

13 Qua ngày mồng hai, các trưởng tộc trong dân chúng, các thầy tế lễ và người Lê-vi tụ họp chung quanh thầy tế lễ thông thạo Kinh Luật Ê-xơ-ra để học hỏi những lời răn dạy trong Kinh Luật. 14 Họ thấy có ghi chép trong Kinh Luật, CHÚA truyền dạy qua Môi-se rằng dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong lều suốt thời gian lễ trong tháng bảy, 15 và phải rao thông báo khắp các thành thị và thành Giê-ru-sa-lem như vầy: “Hãy lên đồi, mang về những cành lá cây ô-liu, cây thông, cây sim, cây kè, và nhánh những loài cây rậm lá để dựng lều y như đã chép.”

16 Thế là dân chúng lên đồi, mang lá về dựng lều: người thì dựng ngay trên mái nhà mình, kẻ thì dựng trong sân nhà, kẻ khác trong sân đền thờ Đức Chúa Trời, kẻ kia tại quảng trường bên cổng Nước, kẻ nọ tại quảng trường bên cổng Ép-ra-im. 17 Toàn hội chúng những người trở về từ chốn phu tù đều dựng lều và ở trong lều. Từ thời Giô-suê, con trai Nun, cho đến nay, dân Y-sơ-ra-ên chưa từng làm như vậy. Mọi người đều hoan hỉ. 18 Ê-xơ-ra[f] đọc Kinh Luật của Đức Chúa Trời mỗi ngày, từ ngày đầu đến ngày cuối. Họ giữ lễ trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám, họ cử hành lễ bế mạc cách trọng thể, và nghỉ mọi công việc, theo như quy định.

Lễ Sám Hối

Ngày hai mươi bốn tháng ấy, dân Y-sơ-ra-ên họp lại, kiêng ăn, quấn vải thô,[g] rải bụi đất lên đầu.[h] Những người thuộc gốc Y-sơ-ra-ên phân rẽ với hết thảy những người ngoại quốc. Họ đứng và xưng nhận tội lỗi của chính mình, và sự gian ác của tổ phụ mình. Họ đứng nguyên tại chỗ, đọc Kinh Luật của CHÚA suốt một phần tư ngày,[i] rồi họ xưng tội và thờ phượng CHÚA thêm một phần tư ngày nữa. Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-nia đứng trên bực cao của người Lê-vi, và lớn tiếng kêu cầu CHÚA. Kế đến, những người Lê-vi là Giê-sua, Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nia, Sê-rê-bia, Hô-đi-gia, Sê-ba-nia (hoặc Sê-van-gia), và Phê-ta-hia (hoặc Phê-ta-gia) nói:

“Xin chúng ta cùng đứng lên ca tụng CHÚA:
    Từ đời này qua đời kia,
Nguyện xin mọi người ca tụng danh vinh hiển của Ngài,
    Là danh được tôn cao trên cả mọi lời chúc tụng, ngợi khen!

Cầu Nguyện Xưng Tội

Lạy CHÚA, chính Ngài là Đấng duy nhất!
    Ngài dựng nên các tầng trời,
Các tầng trời cao ngất,
    Cùng với các thiên binh,
Đất và mọi vật trên đất,
    Biển và mọi vật trong biển,
Ngài bảo tồn tất cả,
    Và các thiên binh tôn thờ Ngài.
Chính Ngài là CHÚA, là Đức Chúa Trời,
    Là Đấng chọn Áp-ra-ham,
Ngài đem ông ra khỏi U-rơ xứ Canh Đê,
    Và đặt tên ông là Áp-ra-ham.
Khi Chúa thấy lòng ông trung thành với Ngài,
    Ngài lập giao ước với ông,
Và hứa ban đất của dân Ca-na-an,
    Dân Hê-tít, dân A-mô-rít,
Dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-rê-ga-sít (hoặc Ghia-gát),
    Cho dòng dõi ông.
Chúa thực hiện lời Ngài hứa,
    Vì Ngài trung tín.
Chúa thấy nổi thống khổ của tổ tiên chúng con tại Ai-cập,
    Ngài nghe tiếng kêu van của họ bên Biển Đỏ,[j]
10 Chúa thực hiện dấu kỳ phép lạ
    Chống lại Pha-ra-ôn, quần thần và toàn dân trong lãnh thổ người,
Vì Chúa biết chúng cư xử ngang ngược
    Với tổ phụ chúng con,
Vậy uy danh Chúa vang lừng[k]
    Cho đến ngày nay,
11 Chúa phân rẽ biển trước mặt họ,
    Họ đi ngang qua biển như trên đất khô.
Nhưng Chúa ném kẻ đuổi theo họ vào biển sâu,
    Như ném đá vào dòng nước lũ.
12 Ban ngày, Chúa dựng trụ mây dẫn dắt họ,
    Ban đêm, Ngài dựng trụ lửa
    Soi sáng nẻo đường họ phải noi theo.
13 Chúa giáng lâm trên núi Si-nai,
    Từ trời cao Ngài phán với họ,
Ngài ban cho họ
    Sắc luật ngay thẳng,
Sắc lệnh chân thật,
    Quy luật và điều răn tốt lành.
14 Chúa cho họ biết
    Về ngày Sa-bát thánh của Ngài,
Chúa truyền dạy họ điều răn, quy luật, và sắc lệnh
    Qua Môi-se, tôi tớ Ngài.
15 Ngài ban bánh từ trời khi họ đói,
    Ngài cho nước văng ra từ tảng đá khi họ khát,
Chúa bảo họ vào chiếm lấy đất
    Ngài đã giơ tay lên thề[l] ban cho họ.
16 Nhưng tổ phụ chúng con ương ngạnh, cứng cổ,
    Không tuân giữ điều răn Chúa.
17 Họ không chịu vâng lời,
    Cũng không nhớ đến các phép lạ
    Ngài thực hiện ngay giữa họ,
Nhưng lại cứng cổ, lập người lãnh đạo
    Đưa họ về kiếp sống nô lệ tại Ai-cập.
Nhưng Chúa là Đức Chúa Trời rộng lượng tha thứ,
    Khoan dung và nhân từ,
    Nhẫn nại và giàu lòng yêu thương,
    Ngài không từ bỏ họ.
18 Ngay cả khi họ tự đúc cho mình
    Một con bê đực bằng kim loại,
Rồi tuyên bố: ‘Đây là thần của ngươi,
    Thần đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập,’
    Họ khinh thường Chúa quá đổi,
19 Chúa vẫn giàu lòng thương xót,
    Ngài không bỏ mặc họ trong sa mạc.
Trụ mây không rời khỏi họ,
    Nhưng tiếp tục dẫn đường họ vào ban ngày,
Và ban đêm trụ lửa
    Tiếp tục soi sáng lối họ phải đi.
20 Chúa ban Thần Linh chân thiện dạy dỗ họ,
    Ngài không cất bánh ma-na khỏi miệng họ,
    Ngài cho họ nước uống trong cơn khát.
21 Chúa nuôi nấng họ suốt bốn mươi năm,
    Nơi sa mạc họ không thiếu thốn chi,
Áo họ không sờn rách,
    Chân họ không sưng phù.
22 Chúa ban cho họ các vương quốc và các dân tộc,
    Ngài chia đất làm biên giới[m] cho họ:
Họ chiếm hữu đất của Si-hôn, vua Hết-bôn,
    Và đất của Óc, vua Ba-san.
23 Chúa khiến con cháu họ sinh sôi nẩy nở,
    Đông như sao trên trời,
Ngài đưa họ vào xứ
    Mà Ngài có truyền bảo tổ phụ họ vào chiếm hữu.
24 Con cháu họ vào chiếm hữu đất,
    Ngài bắt phục trước mặt họ;
Dân cư trong xứ, người Ca-na-an, Ngài phó vào tay họ;
    Các vua chúa và dân cư trong đất,
    Ngài cho họ tùy ý đối xử.
25 Họ chiếm thành kiên cố,
    Đất phì nhiêu,
Họ chiếm nhà cửa đầy những vật dụng tốt đẹp,
    Bể chứa nước đục sẵn, vườn nho, vườn ô-liu,
    Và cây ăn quả rất nhiều.
Họ ăn no nê, họ trở nên béo tốt,
    Họ thỏa thích trong sự nhân từ lớn lao của Chúa.
26 Dù vậy, họ lại bất tuân lệnh Chúa,
    Phản nghịch Ngài,
    Họ ném bỏ luật pháp Chúa ra phía sau,[n]
Họ giết các tiên tri của Chúa,
    Là những người cảnh cáo họ để đem họ về với Chúa.
    Họ khinh thường Chúa quá đổi.
27 Vì thế, Chúa phó họ vào tay quân thù,
    Quân thù áp bức họ,
Trong cơn gian truân họ kêu xin Chúa,
    Từ trời cao Chúa nghe họ,
Chúa thương xót vô biên, Chúa ban cho họ những vị cứu tinh;
    Giải cứu họ khỏi tay quân thù.
28 Tuy nhiên, vừa mới hưởng được cảnh an nhàn,
    Họ lại phạm tội với Chúa,[o]
Cho nên Chúa bỏ mặc họ rơi vào tay kẻ thù,
    Kẻ thù thống trị họ, họ lại kêu xin Chúa,
Từ trời cao Chúa nghe và giải cứu họ bao nhiêu lần,
    Vì Chúa thương xót họ.
29 Chúa cảnh cáo họ, Ngài muốn họ quay về với Kinh Luật Ngài,
    Nhưng họ ngang ngược,
    Không tuân theo điều răn Chúa,
Họ vi phạm quy luật Ngài,
    Là điều lệ mà người nào vâng giữ sẽ được sống,
Nhưng họ kênh vai ra,
    Cứng cổ lại, không chịu tuân theo.
30 Chúa nhẫn nhục chịu đựng họ
    Suốt bao nhiêu năm,
Chúa cảnh cáo họ qua Thần Linh của Ngài,
    Qua các vị tiên tri,
Nhưng họ không quan tâm,
    Chúa đành phải phó họ vào tay các dân tộc địa phương.
31 Tuy nhiên, vì lòng thương xót vô biên của Chúa,
    Ngài không tận diệt họ, Ngài cũng không từ bỏ họ,
    Vì Ngài là Đức Chúa Trời khoan dung và nhân từ.
32 Và giờ đây, ôi lạy Đức Chúa Trời của chúng con,
    Là Đức Chúa Trời vĩ đại, uy quyền, đáng kính sợ,
    Là Đấng giữ giao ước và tình yêu trung kiên,
Xin Ngài đừng coi nhẹ tất cả những hoạn nạn
    Ngài giáng xuống chúng con, các vua chúa chúng con,
    Các thầy tế lễ và các vị tiên tri chúng con,
Các tổ phụ chúng con, và toàn thể con dân Ngài,
    Từ thời các vua A-si-ri cho đến ngày nay.
33 Chúa thật công bằng
    Trong mọi việc xảy ra cho chúng con,
Vì Ngài đối xử thành tín,
    Trong khi chúng con làm điều ác.
34 Thật các vua chúa,
    Các thầy tế lễ và các tổ phụ chúng con
Không tuân giữ sắc lệnh Ngài,
    Cũng không quan tâm đến các điều răn và lời cảnh cáo
    Ngài ban truyền cho họ.
35 Ngay cả khi họ còn vương quốc,
    Và hưởng phước lành đầy dẫy Ngài ban cho.
    Trong vùng đất rộng rãi phì nhiêu
Ngài ban cho họ, họ cũng không thờ phượng Chúa,
    Cũng không từ bỏ công việc gian ác mình.
36 Vì thế ngày nay, chúng con làm nô lệ,
    Ngay trên mảnh đất Ngài ban cho tổ phụ của chúng con,
Để thụ hưởng hoa quả và sự mầu mỡ của đất,
    Thật vậy, chúng con làm nô lệ trên đất ấy.
37 Hoa màu của đất này dồn vào tay các vua
    Ngài đặt lên cai trị chúng con vì tội lỗi chúng con,
Các vua này cầm quyền trên thân thể chúng con,
    Và tự tiện sử dụng súc vật của chúng con.
    Chúng con khổ nhục vô cùng.

38 Dù vậy, chúng con đồng ý lập giao ước bền chặt. Văn kiện có đóng ấn của các nhà lãnh đạo, người Lê-vi, và các thầy tế lễ của chúng con.”

Hứa Nguyện Vâng Giữ Kinh Luật

10 Ấn mang tên tổng trấn Nê-hê-mi, con Ha-ca-lia,

Sê-đê-kia; Sê-ra-gia, A-xa-ria, Giê-rê-mi.

Phát-hua, A-ma-ria, Manh-ki-gia,

Hát-túc, Sê-ba-nia, Ma-lúc,

Ha-rim, Mê-rê-mốt, Ô-ba-đia (hoặc Ô-bát-gia),

Đa-ni-ên, Ghi-nê-thôn, Ba-rúc,

Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min,

Ma-a-xia, Binh-gai, Sê-ma-gia. Những người kể trên là thầy tế lễ.

Người Lê-vi:

Giê-sua, con A-xa-nia, Bin-nui, con cháu Hê-na-đát, Cát-mi-ên,

10 và các anh em Lê-vi khác, Sê-ba-nia, Hô-đi-gia, Kê-li-ta, Bê-la-gia, Ha-nan,

11 Mi-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bia,

12 Xác-cua, Sê-rê-bia, Sê-ba-nia,

13 Hô-đi-gia, Ba-ni, Bê-ni-nu.

14 Các nhà lãnh đạo dân chúng:

Pha-rốt, Pha-hát Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni,

15 Bu-ni, A-gát, Bê-bai,

16 A-đô-ni-gia, Biệt-vai, A-đin,

17 A-te, Ê-xê-chia, A-xu-rơ,

18 Hô-đi-gia, Ha-sum, Bê-sai,

19 Ha-ríp, A-na-tốt, Nê-bai,

20 Mạc-bi-ách, Mê-su-lam, Hê-xia,

21 Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Gia-đua,

22 Phê-la-tia, Ha-nan, A-na-gia,

23 Hô-sê, Ha-na-nia, Ha-súp,

24 Ha-lô-hết, Binh-ha, Sô-bếch,

25 Rê-hum, Ha-sáp-nia, Ma-a-sê-gia,

26 A-ni-gia, Ha-nan, A-nan,

27 Ma-lúc, Ha-rim, Ba-a-na.

28 Những người còn lại, thầy tế lễ, người Lê-vi, người gác cổng, ca nhạc sĩ, người phục dịch đền thờ, và toàn thể những người nào đã tự mình phân rẽ khỏi dân địa phương vì kính sợ[p] luật của Đức Chúa Trời, cùng với vợ, con trai và con gái họ, hết thảy những người có khả năng hiểu biết, 29 cùng họp với các anh em quý tộc của họ, thề nguyện nhận chịu hình phạt nếu họ không sống theo Kinh Luật Đức Chúa Trời ban truyền qua Môi-se, tôi tớ Ngài. Họ hứa cẩn thận vâng giữ mọi điều răn, sắc lệnh và quy luật của CHÚA của họ, 30 đặc biệt là:

Chúng con thề không gả con gái chúng con cho dân địa phương, cũng không cưới con gái họ cho con trai chúng con;

31 Nếu dân địa phương mang hàng hóa hoặc các thứ thóc lúa ra bán vào ngày Sa-bát, chúng con thề không mua của họ vào ngày Sa-bát hoặc bất cứ ngày thánh lễ nào khác;

Chúng con thề không cày cấy vào năm thứ bảy,[q] và tha hết những món nợ chưa trả;

32 Chúng con hứa mỗi người dâng một phần ba sê-ken[r] hằng năm vào công việc đền thờ, 33 để trang trải các chi phí[s] về bánh trần thiết, về tế lễ chay và tế lễ thiêu dâng thường xuyên, hàng ngày, tế lễ thiêu dâng vào ngày Sa-bát, ngày trăng mới, các ngày lễ khác, về các lễ vật thánh và lễ vật chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên, cùng mọi công việc khác trong đền thờ Đức Chúa Trời chúng con.

34 Chúng con, thầy tế lễ, người Lê-vi và thường dân, bắt thăm về việc dâng củi, định phiên cho mỗi gia tộc đem củi đến đền thờ đốt trên bàn thờ CHÚA, vào những thời hạn nhất định trong năm, theo Kinh Luật quy định.

35 Chúng con hứa dâng hằng năm vào đền thờ CHÚA hoa lợi đầu mùa của đất đai chúng con và quả đầu mùa của mỗi loại cây ăn quả; 36 luôn cả con trưởng nam và thú vật đầu lòng của chúng con, theo như quy định trong Kinh Luật; chúng con hứa đem bò và chiên sinh đầu lòng dâng vào đền thờ Đức Chúa Trời, trình cho các thầy tế lễ hầu việc[t] tại đền thờ; 37 chúng con hứa nộp vào kho đền thờ cho các thầy tế lễ bột thượng hạng và các lễ vật khác, hoa quả của mỗi loại cây, rượu mới, và dầu; và chúng con hứa nộp một phần mười hoa mầu của đất đai cho người Lê-vi, vì người Lê-vi vẫn thu phần mười trong khắp các thành nơi chúng con làm việc. 38 Một thầy tế lễ thuộc dòng dõi A-rôn sẽ có mặt khi người Lê-vi thu phần mười, và người Lê-vi sẽ dâng lại một phần mười trong số phần thu được vào đền thờ Đức Chúa Trời, vào kho ngân khố. 39 Chúng con, dân Y-sơ-ra-ên và người Lê-vi, sẽ nộp các lễ vật về ngũ cốc, rượu mới và dầu vào kho, là nơi chứa các dụng cụ đền thánh, và là nơi cư ngụ của các thầy tế lễ đang phiên trực, người gác cổng, và các ca nhạc sĩ.

Chúng con hứa không dám bỏ bê đền thờ Đức Chúa Trời.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)