Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Chronological

Read the Bible in the chronological order in which its stories and events occurred.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Các Vua 3-4

Sa-lô-môn Xin Sự Khôn Ngoan

(2 Sử 1:3-12)

Sa-lô-môn kết đồng minh với Pha-ra-ôn vua Ai-cập. Ông cưới con gái của Pha-ra-ôn, rồi đưa nàng về Thành Ða-vít, cho đến khi ông hoàn thành công trình xây cất cung điện cho ông, Ðền Thờ cho Chúa, và tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên dân chúng vẫn còn sát tế trên các tế đàn ở các nơi cao, vì đến bấy giờ ông chưa xây Ðền Thờ cho danh Chúa. Sa-lô-môn kính mến Chúa, bước đi theo những huấn lệnh của Ða-vít cha ông, ngoại trừ ông vẫn còn sát tế và dâng hương trên các tế đàn ở các nơi cao.

Vua đi đến Ghi-bê-ôn để sát tế, vì đó là chỗ thờ phượng trên nơi cao quan trọng nhất. Tại đó Sa-lô-môn dâng trên bàn thờ một ngàn của lễ thiêu. Tại Ghi-bê-ôn, ban đêm Chúa hiện ra cùng Sa-lô-môn trong chiêm bao, Ðức Chúa Trời phán rằng, “Hãy cầu xin Ta bất cứ điều gì ngươi muốn, Ta sẽ ban cho.”

Sa-lô-môn thưa, “Ngài đã lấy lòng nhân từ mà đối xử với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con, vì cha con đã hết lòng bước đi cách trung thành, ngay lành, và chính trực trước mặt Ngài. Ngài lại tiếp tục bày tỏ lòng nhân từ lớn lao ấy đối với cha con mà ban cho cha con một con trai để ngồi trên ngai của cha con cho đến ngày nay. Bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ngài đã cho tôi tớ Ngài được làm vua kế vị cho Ða-vít cha con, nhưng con chỉ là một đứa trẻ; con không biết phải điều khiển việc nước như thế nào. Tôi tớ Ngài lại ở giữa tuyển dân của Ngài, thật là một dân lớn và rất đông, không thể đếm hết được. Vậy xin Ngài ban cho tôi tớ Ngài một tâm trí thông minh khôn sáng, một khả năng phân biệt chính tà để trị vì dân Ngài, vì ai có thể trị vì một dân lớn như thế nầy của Ngài?”

10 Chúa rất hài lòng vì Sa-lô-môn đã xin điều ấy. 11 Vậy Ðức Chúa Trời phán với ông, “Bởi vì ngươi xin điều nầy, mà không xin cho ngươi được sống lâu hay giàu có, ngươi cũng không xin cho những kẻ thù của ngươi bị tiêu diệt, nhưng lại xin sự thông minh khôn sáng để thi hành công lý, 12 nầy, Ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. Nầy, Ta sẽ ban cho ngươi tâm trí khôn ngoan và thông sáng, đến nỗi trước ngươi chưa có ai bằng, và sau ngươi sẽ không ai sánh kịp. 13 Ngoài ra Ta sẽ ban cho ngươi những điều ngươi không cầu xin. Ngươi sẽ được cả giàu có lẫn tôn trọng, đến nỗi trọn đời ngươi không một vua nào có thể sánh với ngươi. 14 Nếu ngươi cứ bước đi trong đường lối Ta, vâng theo các luật lệ và các điều răn Ta, như Ða-vít cha ngươi đã làm, Ta sẽ cho ngươi được trường thọ.”

15 Bấy giờ Sa-lô-môn thức giấc và nhận biết rằng đó là một giấc chiêm bao. Ông trở về Giê-ru-sa-lem, đứng chầu trước Rương Giao Ước của Chúa, và dâng lên Ngài các của lễ thiêu và các của lễ tạ ơn.[a] Sau đó ông mở một yến tiệc thết đãi tất cả quần thần của ông.

Sa-lô-môn Xử Kiện

16 Bấy giờ người ta đem hai cô gái điếm đến đứng trước mặt vua. 17 Một người nói, “Tâu chúa thượng, người đàn bà nầy và tôi sống chung một nhà. Tôi sinh được một con trai trong lúc chị ấy đang ở nhà với tôi. 18 Ngày thứ ba, sau khi tôi sinh con, chị ấy cũng sinh một con trai. Chỉ có hai chúng tôi ở trong nhà, không có người nào khác. 19 Ðang đêm, con trai của chị ấy chết, vì chị ngủ say và đè trên đứa bé. 20 Thế rồi nửa đêm chị ấy thức dậy, đang lúc tôi ngủ say, chị đến bế con trai của tôi đang ở bên cạnh tôi và đem nó đặt vào lòng chị; sau đó chị đem đứa con đã chết của chị để vào lòng tôi. 21 Sáng hôm sau tôi dậy cho con tôi bú, thì kìa, nó đã chết rồi. Nhưng khi trời sáng, tôi nhìn kỹ, tôi biết rằng đó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.”

22 Người đàn bà kia nói, “Không! Ðứa sống là con tôi, đứa chết là con chị.”

Nhưng người nọ cứ khẳng định, “Không! Ðứa chết là con chị, đứa sống là con tôi.” Vậy họ cãi nhau trước mặt vua.

23 Vua phán, “Người nầy nói, ‘Con tôi là đứa sống, còn con chị là đứa chết,’ trong khi người kia nói, ‘Không! Con chị là đứa chết, còn con tôi là đứa sống.’”

24 Bấy giờ vua truyền, “Hãy đem cho ta một thanh gươm.” Vậy họ mang đến vua một thanh gươm. 25 Vua ra lịnh, “Hãy chặt đứa bé còn sống đó ra làm hai, cho người nầy một nửa và người kia một nửa.”

26 Người đàn bà mẹ của đứa con còn sống rất xúc động vì thương con, bà tâu với vua, “Tâu chúa thượng, xin đừng. Xin cho chị ấy đứa bé. Xin đừng giết nó!”

Nhưng người kia nói, “Nó sẽ không là con của chị và cũng không là con của tôi. Cứ chặt nó ra làm hai đi.”

27 Bấy giờ vua phán quyết, “Hãy trao đứa bé còn sống cho người thứ nhất. Ðừng giết nó. Người ấy chính là mẹ nó.”

28 Khi cả I-sơ-ra-ên đã nghe về phán quyết của vua, họ kính phục vua, vì họ nhận thấy vua có sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời để thi hành công lý.

Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi I-sơ-ra-ên. Sau đây là quần thần của ông:

A-xa-ri-a con của Xa-đốc làm tư tế.
Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, hai con trai của Si-sa, làm hai bí thư.
Giê-hô-sa-phát con của A-hi-lút làm ngự sử.
Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa chỉ huy quân đội.
Xa-đốc và A-bi-a-tha làm tư tế.
A-xa-ri-a con của Na-than chỉ huy các quan lại.
Xa-bút con của Na-than làm tư tế và cố vấn của vua.
A-hi-sa làm tổng quản hoàng cung.
A-đô-ni-ram con của Áp-đa phụ trách việc lao dịch.

Sa-lô-môn có mười hai quan trưởng trên toàn cõi I-sơ-ra-ên. Họ phụ trách việc cung cấp lương thực cho vua và mọi người trong triều đình. Mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp một tháng trong một năm. Ðây là tên của họ:

Bên Hu-rơ phụ trách vùng Cao Nguyên Ép-ra-im.

Bên Ðéc-ke phụ trách vùng Ma-cát, Sa-anh-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lôn thuộc Bết Ha-nan.

10 Bên Hê-sết phụ trách vùng A-rúp-bốt. Ông ấy cũng quản nhiệm vùng Sô-cô và toàn xứ Hê-phe.

11 Bên A-bi-na-đáp phụ trách toàn vùng cao nguyên Ðô-rơ. Vợ ông là Công Chúa Ta-phát, ái nữ của Sa-lô-môn.

12 Ba-a-na con của A-hi-lút phụ trách vùng Ta-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết Sê-an gần Xa-rê-than phía dưới Giê-rê-ên, và vùng từ Bết Sê-an đến A-bên Mê-hô-la chạy dài đến phía bên kia Giốc-mê-am.

13 Bên Ghê-be ở Ra-mốt Ghi-lê-át phụ trách các thị trấn của Giai-rơ con của Ma-na-se trong miền Ghi-lê-át. Ông cũng cai trị vùng Ạc-gốp trong xứ Ba-san, gồm sáu mươi thành có tường bao quanh và cổng thành có những thanh cài làm bằng đồng.

14 A-hi-na-đáp con của I-đô phụ trách vùng Ma-ha-na-im.

15 A-hi-ma-a phụ trách vùng Náp-ta-li. Ông cưới Công Chúa Ba-sê-mát ái nữ của Sa-lô-môn làm vợ.

16 Ba-a-na con của Hu-sai phụ trách vùng A-se và Bê-a-lốt.

17 Giê-hô-sa-phát con của Pa-ru-a phụ trách vùng I-sa-ca.

18 Si-mê-i con của Ê-la phụ trách vùng Bên-gia-min.

19 Ghê-be con của U-ri phụ trách vùng Ghi-lê-át. Ngày trước vùng đó là lãnh thổ của Si-hôn vua dân A-mô-ri và Óc vua Ba-san. Chỉ một mình ông làm quan cai trị cả xứ ấy.

Sự Huy Hoàng của Triều Ðại Sa-lô-môn

20 Dân Giu-đa và dân I-sơ-ra-ên đông như cát nơi bờ biển. Họ ăn, uống, và sống an vui. 21 Sa-lô-môn trị vì trên các vương quốc từ Sông Ơ-phơ-rát[b] đến xứ Phi-li-tin, tận đến biên giới Ai-cập. Người ta phải triều cống và phục vụ Vua Sa-lô-môn trọn đời ông.

22 Mỗi ngày trong hoàng cung của Sa-lô-môn người ta tiêu thụ sáu ngàn sáu trăm lít[c] bột mịn, mười ba ngàn hai trăm lít[d] bột thô, 23 mười con bò mập nuôi trong chuồng, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng, một trăm con chiên, không kể nai, hoàng dương, mang rừng, và gà vịt nuôi mập.

24 Sa-lô-môn trị vì trên các nước phía tây Sông Ơ-phơ-rát, từ Típ-sa đến Ga-xa. Tất cả các nước phía tây Sông Ơ-phơ-rát đều ở dưới quyền của ông. Ông giao hảo thân thiện với tất cả các nước chung quanh. 25 Trọn đời Sa-lô-môn trị vì, Giu-đa và I-sơ-ra-ên, từ Ðan cho đến Bê-e Sê-ba, sống an cư lạc nghiệp. Ai nấy đều sống an lành dưới bóng mát của cây nho và cây vả của mình.

26 Sa-lô-môn có bốn mươi ngàn[e] chuồng ngựa để nuôi ngựa kéo các xe chiến mã do mười hai ngàn kỵ binh điều khiển.

27 Các quan trưởng mỗi vùng cứ theo tháng đã định cho họ cung cấp mọi nhu cầu thực phẩm cho Vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến bàn ăn của Vua Sa-lô-môn. Họ không để cho thiếu vật chi. 28 Họ còn đem đến nơi đã chỉ định lúa mạch và rơm cho ngựa chiến và ngựa kéo xe chiến mã theo số đã quy định cho họ.

Sự Khôn Ngoan của Sa-lô-môn

29 Ðức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn khôn ngoan, thông sáng, và một kiến thức uyên bác vô kể như cát nơi bờ biển. 30 Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương đông, trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở Ai-cập. 31 Sa-lô-môn khôn ngoan hơn mọi người khác, kể cả Ê-than người Ê-xơ-ra-hi. Ông khôn ngoan hơn Hê-man, Canh-côn, và Ðạc-đa, tức các con trai của Ma-hôn. Danh tiếng của ông thật lẫy lừng trong các nước chung quanh. 32 Ông nói ra ba ngàn câu châm ngôn và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát. 33 Ông luận về các thảo mộc, từ cây bá hương ở Li-băng cho đến cây bài hương mọc ở bờ tường. Ông giảng giải về các thú vật và chim chóc, loài bò sát và loài cá. 34 Thiên hạ từ mọi nước kéo đến để nghe những lời khôn ngoan của Sa-lô-môn. Khi các vua trên đất nghe nói về sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, họ phái người đến triều kiến để nghe sự khôn ngoan của ông.

II Sử Ký 1

Sa-lô-môn Xin Sự Khôn Ngoan

Sa-lô-môn con của Ða-vít củng cố vương quyền trong vương quốc của ông. Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, ở với ông; Ngài làm cho ông rất được tôn trọng. Sa-lô-môn triệu tập tất cả những người lãnh đạo trong dân I-sơ-ra-ên, gồm các chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các chỉ huy trưởng hàng trăm quân, các quan tư pháp, các quan hành pháp trong khắp nước I-sơ-ra-ên, và các vị trưởng tộc. Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên đi với ông đến một nơi cao ở Ghi-bê-ôn, vì tại đó có Lều Hội Kiến của Ðức Chúa Trời mà Môi-se đã làm khi còn trong đồng hoang. Nhưng Rương của Ðức Chúa Trời thì Ða-vít đã đem từ Ki-ri-át Giê-a-rim đến chỗ ông đã chuẩn bị cho Rương Thánh, vì ông đã dựng một cái lều đặc biệt cho Rương Thánh tại Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra nơi cao đó còn có bàn thờ bằng đồng mà Bê-xa-lên con của U-ri, cháu của Hu-rơ, đã làm và đặt tại đó, trước sân Lều của Chúa. Ðó là nơi Sa-lô-môn và hội chúng cầu vấn Ngài.

Sa-lô-môn đi lên đó, đến bàn thờ bằng đồng ở trước mặt Chúa, tức bàn thờ bằng đồng trước sân Lều Hội Kiến, và dâng một ngàn của lễ thiêu trên bàn thờ ấy. Ðêm đó Ðức Chúa Trời đã hiện ra với Sa-lô-môn và phán với ông, “Hãy cầu xin điều ngươi muốn Ta làm cho ngươi.”

Sa-lô-môn thưa với Ðức Chúa Trời, “Ngài đã bày tỏ tình thương lớn lao đối với Ða-vít cha con và đã lập con làm vua kế vị cho người. Bây giờ lạy Chúa Ðức Chúa Trời,[a] cầu xin Ngài làm cho lời hứa của Ngài đối với Ða-vít được vững lập, vì Ngài đã lập con làm vua trị vì một dân đông như bụi đất. 10 Bây giờ xin Ngài ban cho con khôn ngoan và tri thức để con lãnh đạo dân nầy,[b] vì ai có đủ khả năng để trị vì dân lớn lao đông đúc nầy của Ngài được?”

11 Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn, “Bởi vì đó là điều trong lòng ngươi; ngươi không xin giàu sang, phú quý, tôn trọng, và mạng sống của kẻ thù; ngươi cũng không xin được cao niên trường thọ, nhưng chỉ xin được khôn ngoan và tri thức để có thể lãnh đạo dân Ta, dân mà Ta đã lập ngươi làm vua. 12 Vì thế ngươi sẽ được ban cho khôn ngoan và tri thức. Ngoài ra Ta sẽ ban cho ngươi giàu sang, phú quý, và tôn trọng, mà không vua nào trước ngươi đã có và không vua nào sau ngươi sẽ được như vậy.”

13 Vậy Sa-lô-môn từ trước Lều Hội Kiến ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn trở về Giê-ru-sa-lem và trị vì dân I-sơ-ra-ên.

Quyền Thế của Sa-lô-môn

14 Sa-lô-môn tập trung các xe chiến mã và các kỵ binh lại. Ông có một ngàn bốn trăm xe chiến mã và mười hai ngàn kỵ binh. Ông chia họ ra trú đóng trong các thành và một đơn vị đóng ở Giê-ru-sa-lem, gần bên vua. 15 Vua làm cho bạc và vàng ở Giê-ru-sa-lem ra tầm thường như sỏi đá, và gỗ bá hương nhiều như gỗ sung, một thứ cây mọc ở đồng bằng. 16 Sa-lô-môn mua nhiều ngựa nhập cảng từ Ai-cập và Cư-ê.[c] Các thương gia của triều đình đến tận Cư-ê mua chúng theo thời giá đem về. 17 Họ đặt mua các xe chiến mã tại Ai-cập, mỗi chiếc xe giá sáu trăm miếng[d] bạc; còn một con ngựa giá một trăm năm mươi miếng[e] bạc. Sau đó họ đem ra bán lại cho các vua dân Hi-tít và các vua dân A-ram.

Thánh Thi 72

Sự Trị Vì của Vua Công Chính

Thơ của Sa-lô-môn

Ðức Chúa Trời ôi, xin ban cho vua công lý của Ngài,
Và ban cho con của vua lẽ công chính của Ngài.
Ðể người xét đoán dân Ngài theo sự công chính,
Và xét xử kẻ khốn khổ theo lẽ công bình.
Nguyện các núi đem hòa bình đến cho toàn dân,
Và các đồi đem công chính đến cho họ.
Nguyện người giải oan cho kẻ bị khốn khổ trong dân,
Nguyện người cứu con cái của những người nghèo khó,
Và chà nát những kẻ cậy quyền cậy thế bức hại dân lành.

Hễ mặt trời còn bao lâu, nguyện họ kính sợ Ngài bấy lâu,
Và kéo dài mãi như mặt trăng hiện hữu, trải qua bao thế hệ.

Nguyện người ngự đến như mưa rơi trên cỏ,
Như mưa rào rơi xuống tưới mặt đất khắp nơi.
Trong đời người trị vì, nguyện người ngay lành được hưng thịnh,
Và hòa bình được lâu bền cho đến khi mặt trăng không còn nữa.

Nguyện người trị vì từ đại dương này đến đại dương kia,
Từ Sông Lớn[a] đến tận cùng trái đất.
Nguyện các dân du mục trong sa mạc cúi lạy trước mặt người;
Nguyện những kẻ thù của người sẽ phải liếm bụi đất.
10 Nguyện các vua ở Tạt-si và các hải đảo sẽ triều cống người,
Còn các vua ở Sê-ba và Se-ba sẽ đem lễ vật đến cho người.
11 Nguyện các vua sấp mình xuống trước mặt người,
Và các nước phục vụ người.
12 Bởi vì người giải cứu kẻ nghèo khó khi họ kêu cứu,
Người cứu giúp kẻ khốn cùng và kẻ không được ai giúp đỡ.
13 Người cảm thương những kẻ nghèo nàn và cùng khốn,
Người cứu mạng những kẻ nghèo khó để họ được sống.
14 Người giải cứu đời sống họ khỏi cảnh áp bức và bạo tàn;
Trước mặt người máu của họ thật quý báu biết bao.

15 Nguyện người được cao niên trường thọ;
Nguyện người ta đem vàng ở Sê-ba đến dâng cho người;
Nguyện họ cầu nguyện cho người luôn luôn;
Nguyện họ cầu phước cho người suốt ngày.
16 Nguyện lúa gạo dư dật khắp nơi trong nước, thậm chí những người sống trên các đỉnh núi cũng có lúa gạo đầy tràn;
Nguyện hoa quả nhiều như cây cối trên rừng Li-băng;
Nguyện những người sống ở thành thị phát đạt như cỏ lan trong đồng nội.
17 Nguyện người được lưu danh mãi mãi;
Hễ mặt trời tồn tại bao lâu, nguyện danh người còn lại bấy lâu;
Nguyện người ta lấy danh người chúc phước cho nhau;
Nguyện mọi dân ca tụng rằng, “Người ấy thật có phước.”

18 Chúc tụng Chúa Ðức Chúa Trời,[b] Thần[c] của I-sơ-ra-ên,
Ðấng duy nhất làm những việc lạ lùng.
19 Danh vinh hiển của Ngài thật đáng được ca tụng đời đời;
Nguyện khắp đất đầy dẫy vinh quang Ngài.
A-men và A-men.

20 Những lời cầu nguyện của Ða-vít con trai Giê-se kết thúc ở đây.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang