Book of Common Prayer
Ca Tụng Chúa về Những Việc
Quyền Năng của Ngài và về Sự Nhậm Lời Cầu Nguyện của Ngài
Thơ của Ða-vít
Cho Trưởng Ban Nhạc
1 Hỡi muôn loài trên đất,
Hãy cất tiếng reo mừng dâng lên Ðức Chúa Trời.
2 Hãy ca ngợi danh vinh hiển của Ngài;
Hãy tôn vinh ca ngợi Ngài.
3 Hãy thưa cùng Ðức Chúa Trời rằng,
“Những công việc của Ngài thật đáng kinh hãi thay!
Bởi quyền năng lớn lao của Ngài,
Những kẻ thù của Ngài phải phủ phục trước mặt Ngài.
4 Mọi loài trên đất sẽ thờ phượng Ngài,
Chúng sẽ hát ca tôn ngợi Ngài;
Chúng sẽ ca hát tôn vinh danh Ngài.” (Sê-la)
5 Hãy đến và nhìn xem những công việc của Ðức Chúa Trời;
Những gì Ngài làm cho loài người thật đáng kinh hãi thay!
6 Ngài biến đại dương thành đất khô;
Ngài cho họ đi bộ vượt qua dòng nước mạnh.
Hãy đến, chúng ta hãy vui mừng trong Ngài!
7 Ngài dùng quyền năng của Ngài trị vì đời đời;
Mắt Ngài nhìn xem các nước,
Kẻo những kẻ phản loạn nổi lên gây rối chăng. (Sê-la)
8 Hỡi các dân, hãy ca ngợi Ðức Chúa Trời chúng ta;
Hãy làm cho âm thanh ca ngợi Ngài vang ra khắp chốn,
9 Vì Ngài giữ gìn mạng sống chúng ta;
Ngài không để cho chân chúng ta trợt ngã.
10 Thật vậy Ðức Chúa Trời ôi, Ngài đã thử thách chúng con;
Ngài đã rèn luyện chúng con như người ta luyện bạc.
11 Ngài đã để cho chúng con bị sa vào lưới;
Ngài đã để gánh nặng bị áp bức đè nặng trên lưng chúng con.
12 Ngài đã để người ta cỡi trên đầu trên cổ chúng con;
Chúng con phải đi qua lửa và qua nước;
Nhưng rồi Ngài đã đem chúng con ra khỏi,
Ðể đưa chúng con vào một nơi trù phú.
13 Con sẽ vào nhà Ngài với những của lễ thiêu;
Con sẽ trả xong cho Ngài những gì con đã hứa nguyện,
14 Những gì môi con đã hứa,
Và miệng con đã nói ra trong lúc bị khốn khổ.
15 Con sẽ dâng lên Ngài những con vật hiến tế béo tốt để làm của lễ thiêu, chung với mỡ của các chiên đực;
Con sẽ dâng các bò đực và các dê đực. (Sê-la)
16 Hỡi mọi người kính sợ Ðức Chúa Trời, xin đến nghe,
Tôi sẽ thuật lại những gì Ngài đã làm cho tôi.
17 Miệng tôi đã kêu cầu Ngài,
Và lưỡi tôi đã tôn vinh Ngài.
18 Nếu lòng tôi chú về tội ác,
Ắt Chúa chẳng nghe tôi;
19 Nhưng Ðức Chúa Trời thật có nghe;
Ngài đã lắng nghe tiếng cầu nguyện của tôi.
20 Tôn ngợi Ðức Chúa Trời, Ðấng chẳng bỏ qua lời cầu nguyện của tôi,
Và không rút lại tình thương của Ngài đối với tôi.
Kêu Gọi Các Dân Ca Ngợi CHÚA
Cho Trưởng Ban Nhạc
Dùng với nhạc khí bằng dây
1 Cầu xin Ðức Chúa Trời bày tỏ lòng thương xót của Ngài đối với chúng con và ban phước cho chúng con,
Cầu xin Ngài chiếu sáng mặt Ngài trên chúng con, (Sê-la)
2 Ðể đường lối của Ngài được biết đến trên đất,
Và ơn cứu rỗi của Ngài được phổ cập giữa các dân.
3 Ðức Chúa Trời ôi, nguyện muôn dân ca ngợi Ngài;
Nguyện tất cả các dân ca ngợi Ngài.
4 Nguyện các dân các nước vui mừng và hân hoan ca hát,
Vì Ngài xét đoán muôn dân một cách công minh,
Và Ngài trị vì các quốc gia trên đất. (Sê-la)
5 Ðức Chúa Trời ôi, nguyện muôn dân ca ngợi Ngài;
Nguyện tất cả các dân ca ngợi Ngài.
6 Ðất sẽ sinh sản hoa màu;
Ðức Chúa Trời là Thần[a] của chúng ta,
Chính Ngài sẽ ban phước cho chúng ta.
7 Nguyện Ðức Chúa Trời tiếp tục ban phước cho chúng ta,
Ðể mọi người ở tận cùng trái đất kính sợ Ngài.
Tác Phẩm của Ðức Chúa Trời
Thơ của Ða-vít
Cho Trưởng Ban Nhạc
1 Các tầng trời rao truyền vinh hiển Ðức Chúa Trời;
Bầu trời công bố công việc tay Ngài làm.
2 Ngày ngày truyền rao sứ điệp;
Ðêm đêm bày tỏ tri thức.
3 Không dùng lời, chẳng cần tiếng;
Chẳng ai nghe giọng nói chúng ra sao;
4 Nhưng âm thanh chúng đã lan truyền khắp đất,
Lời chúng đã vang ra đến cùng tận địa cầu.
Ngài đã lập một chỗ ở[a] cho mặt trời trong chúng.
5 Mặt trời như một tân lang ra khỏi loan phòng,
Như một lực sĩ hân hoan chạy trên tuyến đường mình.
6 Mặt trời mọc lên từ phương trời này,
Chạy vòng đến phương trời kia;
Không vật gì tránh khỏi hơi nóng của nó được.
7 Luật pháp của Chúa thật trọn vẹn, làm linh hồn hồi sức;
Quy tắc của Chúa thật vững chắc, khiến kẻ dại khôn ra.
8 Luật lệ của Chúa thật phải lẽ, làm tâm hồn vui vẻ;
Ðiều răn của Chúa thật minh bạch, khiến mắt lòng thấy rõ.
9 Ðộng cơ kính sợ Chúa thật trong sạch, nên còn lại đời đời;
Phán quyết của Chúa thật chính đáng, thảy đều công bình cả.
10 Những điều ấy quý hơn vàng, thật báu hơn vàng ròng;
Chúng ngọt hơn mật, thật ngọt hơn mật nhểu từ tàng ong.
11 Hơn nữa nhờ những điều ấy, đầy tớ Ngài được cảnh giác;
Nhờ giữ những điều ấy, tôi tớ Ngài được ban thưởng lớn lao.
12 Nào ai có thể tự mình biết hết mọi lầm lỗi mình?
Cầu xin Ngài tha thứ con vì những lỗi lầm con không biết.
13 Xin giữ tôi tớ Ngài khỏi cố ý phạm tội;
Xin đừng để tội lỗi cầm quyền trên con;
Ðể con sẽ không có chỗ nào đáng trách,
Và con sẽ không phạm tội nặng.
14 Nguyện lời nói của miệng con và sự suy gẫm của lòng con được đẹp ý Ngài,
Lạy Chúa, Vầng Ðá của con và Ðấng Cứu Chuộc của con.
Ðức Chúa Trời Là Nơi Ẩn Núp của Dân Ngài
Một thi ca do con cháu Cô-ra cảm tác theo điệu A-la-mốt
Cho Trưởng Ban Nhạc
1 Ðức Chúa Trời là nơi ẩn náu và sức mạnh của chúng ta;
Ngài là nguồn giúp đỡ trong lúc rắc rối khó khăn.
2 Vì thế chúng ta chẳng sợ dù trái đất chuyển lay,
Dù các núi đồi tuột vào lòng biển;
3 Dù đại dương gầm thét và sủi bọt,
Dù núi non chuyển động và chực nổ tung. (Sê-la)
4 Có một dòng sông làm vui thành Ðức Chúa Trời,
Nơi ngự thánh của Ðấng Tối Cao.
5 Ðức Chúa Trời ngự giữa thành, nó sẽ không bị rúng động;
Ðức Chúa Trời sẽ phù hộ thành từ khi bình minh ló dạng.
6 Các dân nổi dậy, các nước chuyển mình;
Ngài đằng hắng một tiếng, đất liền tan chảy.
7 Chúa các đạo quân ở với chúng ta;
Ðức Chúa Trời của Gia-cốp là thành lũy của chúng ta. (Sê-la)
8 Hãy đến và xem những công việc của Chúa,
Ðấng đã làm cho mặt đất tan hoang.
9 Ngài chấm dứt chiến tranh trên toàn thế giới;
Ngài bẻ gãy cung và chặt giáo ra từng khúc;
Ngài thiêu rụi các chiến xa trong lửa.
10 “Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Ðức Chúa Trời!
Ta sẽ được tôn cao giữa các dân.
Ta sẽ được tôn cao trên khắp đất.”
11 Chúa các đạo quân ở với chúng ta;
Ðức Chúa Trời của Gia-cốp là đồn lũy của chúng ta. (Sê-la)
Cơn Ðại Hạn Hán
14 Ðây là lời của Chúa đến với Giê-rê-mi về cơn hạn hán:
2 “Giu-đa than khóc,
Các cổng nàng than thở âu sầu,
Chúng buồn tủi nằm bẹp mình dưới đất,
Tiếng khóc than của Giê-ru-sa-lem vang thấu trời cao.
3 Những nhà quyền quý sai các đầy tớ ra đi kiếm nước,
Họ ra giếng tìm nhưng chẳng có giọt nước nào,
Họ trở về với những vò khô trống rỗng,
Họ xấu hổ và thẹn thùng nên trùm kín đầu họ lại,
4 Bởi vì đất đã khô khan nứt nẻ.
Do chẳng có mưa trong xứ lâu ngày,
Các nông dân hổ thẹn buồn rầu,
Họ trùm kín đầu giấu thẹn.
5 Trong cánh đồng, nai mẹ đẻ con rồi bỏ mặc,
Vì cỏ không còn để ăn hầu có sữa cho con bú.
6 Các lừa rừng đứng trên các đồi trọc trụi,
Thở hổn hển như bọn chó hoang,
Mắt chúng lờ đờ vì không có cỏ để ăn.
7 ‘Dù tội lỗi chúng con buộc tội chúng con,
Ôi lạy Chúa, xin Ngài hành động, vì danh thánh của Ngài;
Tội phản nghịch của chúng con thật nhiều quá đỗi,
Chúng con quả đã phạm tội đối với Ngài.
8 Lạy Niềm Hy Vọng của I-sơ-ra-ên,
Ðấng Giải Cứu của dân ấy trong khi khốn quẫn,
Sao Ngài nỡ lạnh lùng như một người xa lạ trong xứ,
Như khách lữ hành ghé tạm trú qua đêm?
9 Sao Ngài cứ như người chần chừ chưa dứt khoát,
Như dũng sĩ tài năng nhưng không chịu cứu nguy?
Dù vậy, lạy Chúa, Ngài đang ở giữa chúng con,
Và chúng con được gọi bằng danh Ngài;
Xin đừng bỏ chúng con.’”
17 Ngươi hãy nói với chúng sứ điệp này,
‘Hãy để mắt tôi đổ lệ đêm ngày,
Hãy để lệ rơi không ngớt,
Vì trinh nữ của dân tôi đã bị đánh một đòn khủng khiếp,
Mang thương tích trầm trọng.
18 Nếu tôi đi ra ngoài đồng, kìa, người ta bị giết bằng gươm!
Nếu tôi đi vào trong thành, kìa, người ta yếu lả vì đói!
Bởi giới tiên tri và giới tư tế đi lòng vòng khắp xứ thi hành chức vụ, mà kỳ thật họ chẳng hiểu biết gì.’”
Giê-rê-mi Cầu Thay Cho Dân
19 Chẳng lẽ Ngài đã hoàn toàn loại bỏ Giu-đa rồi sao?
Chẳng lẽ lòng Ngài đã chán ghét Si-ôn lắm sao?
Sao Ngài nỡ đánh hạ chúng con đến độ không còn cách nào chữa lành như vậy?
Chúng con mong mỏi bình an, nhưng an lành chẳng thấy;
Chúng con trông mong đến kỳ được chữa lành, nhưng chỉ thấy toàn nỗi kinh hoàng.
20 Ôi Chúa, chúng con nhìn nhận tội lỗi của chúng con, và tội lỗi của tổ tiên chúng con;
Thật vậy chúng con đã phạm tội chống lại Ngài.
21 Vì danh thánh của Ngài, xin đừng hất hủi chúng con;
Xin đừng làm nhục ngai vinh hiển của Ngài;
Xin nhớ lại và đừng bỏ giao ước của Ngài đã lập với chúng con.
22 Có các thần nào của dân tộc nào làm mưa được chăng?
Hay trời xanh có thể cho mưa rào chăng?
Ôi Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, chẳng phải ấy là do Ngài làm sao?
Chúng con đặt trọn hy vọng của chúng con nơi Ngài,
Vì chính Ngài đã làm nên mọi điều ấy.
Gương của Ha-ga và Sa-ra
21 Hãy nói cho tôi nghe, hỡi những người muốn ở dưới Luật Pháp kia, anh chị em không nghe Luật Pháp nói gì sao? 22 Vì có lời chép rằng Áp-ra-ham có hai con trai, một người là con của người nữ nô lệ, một người là con của người nữ tự do. 23 Con của người nữ nô lệ được sinh ra theo xác thịt, còn con của người nữ tự do được sinh ra theo lời hứa. 24 Ðiều ấy ngụ ý rằng hai người đàn bà đó tượng trưng cho hai giao ước. Giao ước ở Núi Si-nai tượng trưng bởi Ha-ga, sinh con ra làm nô lệ. 25 Ha-ga tượng trưng cho Núi Si-nai ở A-ra-bi lúc ấy, tương tự như Giê-ru-sa-lem hiện nay, thành đang bị làm nô lệ với dân của nó. 26 Nhưng người nữ tự do tượng trưng cho Giê-ru-sa-lem thiên thượng, bà là mẹ chúng ta; 27 vì có lời chép rằng,
“Hãy vui lên, hỡi người phụ nữ hiếm muộn, người phụ nữ không con;
Hãy cất lên tiếng hát và trỗi giọng reo mừng, hỡi người phụ nữ chưa hề kinh nghiệm cơn đau lúc lâm bồn;
Vì con cái của người vợ bị hất hủi đông hơn con cái của người vợ đang sống với chồng.”
28 Thưa anh chị em, anh chị em là con cái của lời hứa, giống như I-sác. 29 Nhưng giống như thời ấy, con cái sinh ra theo xác thịt bắt bớ con cái sinh ra theo Ðức Thánh Linh thể nào, thì bây giờ cũng thể ấy. 30 Nhưng Kinh Thánh nói gì?
“Hãy đuổi người nữ nô lệ và đứa con của nàng đi, vì đứa con của người nữ nô lệ sẽ không được thừa hưởng gia tài với đứa con của người nữ tự do.”
31 Thế thì, thưa anh chị em, chúng ta không phải là con cái của người nữ nô lệ, nhưng là con cái của người nữ tự do.
Bảo Vệ Tự Do Thuộc Linh
5 Ðấng Christ đã giải thoát chúng ta để được tự do. Vậy hãy đứng vững, và đừng đặt mình dưới ách nô lệ nữa.
Người Pha-ri-si Xin Dấu Lạ
(Mat 16:1-4)
11 Những người Pha-ri-si kéo đến và bắt đầu tranh luận với Ngài. Họ thử Ngài bằng cách yêu cầu Ngài cho một dấu lạ từ trời. 12 Ngài thở dài ngao ngán[a] và nói, “Tại sao thế hệ này đòi xem một dấu lạ? Quả thật, Ta nói với các ngươi, thế hệ này sẽ chẳng được ban cho dấu lạ nào cả.” 13 Ngài rời khỏi họ, xuống thuyền trở lại, và qua bờ bên kia.
Men của Người Pha-ri-si
(Mat 16:5-12)
14 Khi ấy các môn đồ quên mang bánh theo; trên thuyền chỉ có mỗi một ổ bánh. 15 Ngài nghiêm dặn họ rằng, “Hãy coi chừng! Hãy đề phòng men của những người Pha-ri-si và men của những người của Hê-rốt.”
16 Các môn đồ bàn với nhau, “Thầy nói thế vì chúng ta không có bánh.”
17 Biết vậy Ngài nói với họ, “Tại sao các ngươi bàn với nhau về việc không có bánh? Các ngươi không thấy hoặc không hiểu sao? Lòng các ngươi vẫn cứng cỏi sao? 18 Mắt các ngươi không thấy và tai các ngươi không nghe sao? Các ngươi chẳng nhớ sao? 19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người ăn, những mảnh còn lại các ngươi đã gom được bao nhiêu giỏ đầy?”
Họ đáp, “Thưa mười hai giỏ.”
20 “Còn khi bảy cái bánh cho bốn ngàn người ăn, những mảnh còn lại các ngươi đã gom được bao nhiêu giỏ đầy?”
Họ đáp, “Thưa bảy giỏ.”
21 Ngài nói với họ, “Các ngươi vẫn còn chưa hiểu sao?”
Copyright © 2011 by Bau Dang