Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Book of Common Prayer

Daily Old and New Testament readings based on the Book of Common Prayer.
Duration: 861 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Thánh Thi 89

Giao Ước của Chúa với Ða-vít và Hoạn Nạn của Dân I-sơ-ra-ên

Giáo huấn ca của Ê-than, con cháu của Ê-xơ-ra

Con sẽ ca ngợi lòng thương xót của Chúa mãi mãi;
Con sẽ dùng miệng con thuật lại cho các thế hệ đến sau biết đức thành tín của Ngài,
Vì con đã nói, “Lòng thương xót của Ngài sẽ vững lập đời đời;
Ngài sẽ thiết lập đức thành tín của Ngài trong thiên đàng.”
Vì Ngài đã phán, “Ta đã lập một giao ước với kẻ Ta đã chọn;
Ta đã thề với Ða-vít tôi tớ Ta rằng:
‘Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến đời đời,
Và xây dựng ngôi vua của ngươi suốt mọi thế hệ.’” (Sê-la)

Chúa ôi, thiên đàng sẽ ca ngợi các việc diệu kỳ của Ngài;
Ðức thành tín Ngài sẽ được tán dương trong hội của các thánh.
Vì ở trên trời nào ai sánh được với Chúa chăng?
Trong vòng các con của các đấng quyền năng, có ai giống như Chúa chăng?
Một Ðức Chúa Trời rất đáng kính sợ trong hội đồng các thánh,
Và Ðấng rất đáng hãi hùng đối với những kẻ ở quanh Ngài.
Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của các đạo quân, nào ai có quyền năng như Ngài chăng?
Chúa ôi, đức thành tín của Ngài tỏa rạng chung quanh Ngài.

Ngài cai trị những cơn cuồng sôi của biển;
Khi các lượn sóng lớn nổi lên, Ngài bắt chúng phải lặng im.
10 Ngài đã đập nát con thủy quái[a] thành một xác chết;
Ngài làm tán loạn quân thù bằng cánh tay quyền năng của Ngài.
11 Trời thuộc về Ngài, đất cũng thuộc về Ngài;
Ngài đã dựng nên chúng và mọi vật trong đó.
12 Phương bắc và phương nam đều do Ngài tạo dựng;
Núi Tha-bô và Núi Hẹt-môn vui mừng ca ngợi danh Ngài.
13 Ngài có một cánh tay quyền năng;
Tay Ngài thật mạnh mẽ, tay phải Ngài được tôn cao.

14 Công chính và công lý đều là nền của ngai Ngài;
Lòng thương xót và đức thành tín hằng đi trước mặt Ngài.
15 Phước thay cho dân nào biết cất tiếng vui vẻ ca ngợi Ngài!
Chúa ôi, họ bước đi trong ánh sáng của thánh nhan Ngài.
16 Họ vui mừng trong danh Ngài suốt ngày;
Nhờ đức công chính của Ngài, họ được hớn hở luôn luôn,
17 Ngài là vinh hiển của sức mạnh họ;
Và nhờ ơn Ngài, sừng chúng con được ngước cao lên.
18 Vì thuẫn khiên của chúng con thuộc về Chúa,
Vua của chúng con thuộc về Ðấng Thánh của I-sơ-ra-ên.

19 Có lần Ngài đã phán với người thánh của Ngài qua khải tượng,
“Ta đã ban ơn giúp đỡ cho một người dũng lược;
Ta đã lập lên một kẻ Ta chọn từ giữa con dân Ta.
20 Ta đã tìm được Ða-vít, đầy tớ Ta;
Với dầu thánh của Ta, Ta đã xức dầu cho nó.
21 Ðó là người tay Ta sẽ làm cho vững lập;
Ấy là người cánh tay Ta sẽ làm cho mạnh mẽ.
22 Không kẻ thù nào có thể bắt nó phải triều cống vật chi;
Con cái của những kẻ gian ác sẽ không thể làm hại nó.
23 Ta sẽ chà nát những kẻ chống nghịch nó trước mặt nó;
Ta sẽ đánh phạt những kẻ nào ghét nó.
24 Ðức thành tín của Ta và lòng thương xót của Ta sẽ ở với nó;
Nhờ danh Ta sừng nó sẽ ngước cao lên.
25 Ta sẽ đặt tay nó trên biển cả,
Và tay phải nó trên các sông.
26 Nó sẽ gọi Ta rằng, ‘Ngài là Cha của con,
Ðức Chúa Trời của con, và Vầng Ðá cứu rỗi của con.’
27 Ta cũng sẽ làm cho nó thành đứa con đầu lòng của Ta,
Là vua cao trọng nhất trong các vua chúa thế gian.
28 Ta sẽ giữ lòng thương xót của Ta đối với nó đời đời;
Giao ước của Ta sẽ được thiết lập vững vàng với nó.
29 Ta sẽ lập giao ước với con cháu nó mãi mãi;
Rồi ngai của nó sẽ bền lâu như tuổi thọ của thiên đàng.
30 Nếu các con cháu nó lìa bỏ luật pháp Ta,
Và không đi theo các mạng lịnh Ta,
31 Nếu chúng vi phạm các luật lệ Ta và không giữ các điều răn Ta,
32 Ta sẽ dùng roi sửa dạy chúng vì các vi phạm của chúng,
Dùng đòn vọt sửa phạt chúng vì các tội lỗi của chúng.
33 Nhưng Ta sẽ không dời lòng thương xót của Ta khỏi nó,
Hoặc bỏ lòng thành tín của Ta đối với nó.
34 Ta sẽ không vi phạm giao ước của Ta;
Ta cũng không thay đổi lời môi Ta đã phán.
35 Một khi Ta đã lấy đức thánh khiết của Ta mà thề,
Thì Ta sẽ không dối gạt với Ða-vít.
36 Dòng dõi nó sẽ tồn tại đời đời;
Ngai của nó sẽ bền vững như mặt trời hằng ở trước mặt Ta.
37 Nó sẽ được vững lập mãi mãi như mặt trăng,
Một chứng tích muôn đời bền vững trên không gian.” (Sê-la)

38 Thế mà bây giờ Ngài đã hất hủi và loại bỏ người ấy;
Ngài đã giận kẻ được xức dầu của Ngài.
39 Ngài đã xóa bỏ giao ước với tôi tớ Ngài;
Ngài đã vứt vương miện của người ấy xuống đất để nó ra ô uế.
40 Ngài đã phá vỡ mọi tường thành che chở người ấy;
Ngài đã khiến các thành lũy của người ấy trở nên hoang tàn.
41 Tất cả ai qua lại đều cướp giật người ấy;
Người ấy đã thành một cớ nhạo báng cho những kẻ lân bang.
42 Ngài đã nâng cánh tay phải của những kẻ chống người ấy lên;
Ngài đã làm cho mọi kẻ thù của người ấy được vui vẻ.
43 Ngài đã làm cho lưỡi gươm của người ấy đâm ngược trở lại;
Ngài đã không giúp đỡ người ấy khi người ấy ra trận.
44 Ngài đã làm cho thời huy hoàng của người ấy dừng lại;
Ngài đã lật đổ ngai vàng của người ấy xuống đất.
45 Ngài đã khiến tuổi thanh xuân của người ấy ngắn lại;
Ngài đã bao phủ người ấy bằng nhục nhã ê chề. (Sê-la)

46 Còn bao lâu nữa, Chúa ôi? Ngài sẽ lánh mặt vĩnh viễn sao?
Cơn giận của Ngài chẳng lẽ cứ như lửa hừng, cháy mãi sao?
47 Xin Ngài nhớ lại rằng đời con thật ngắn ngủi;
Vì cuộc đời mọi người Ngài đã dựng nên thật như mây khói.
48 Có ai làm người mà có thể sống mãi mà không chết chăng?
Có người nào cứu được mình khỏi quyền lực của âm phủ chăng? (Sê-la)

49 Chúa ôi, tình thương của Ngài ngày trước,
Mà Ngài đã lấy đức thành tín của Ngài thề với Ða-vít đâu rồi?
50 Chúa ôi, xin nhớ đến những lời sỉ nhục mà tôi tớ Ngài phải chịu;
Làm sao lòng con có thể mang nổi những lời sỉ nhục mọi dân đã nói?
51 Chúa ôi, đó là những lời quân thù của Ngài đã sỉ vả,
Tức những lời chúng đã theo sát bước chân người được xức dầu của Ngài để nhục mạ tới cùng.

52 Tôn ngợi Chúa đời đời vô cùng!
A-men và A-men!

Sáng Thế 30:1-24

Con Cái của Bin-ha và Xinh-pa

30 Khi Ra-chên thấy bà không sinh được đứa con nào cho Gia-cốp, bà ganh tị với chị mình và nói với Gia-cốp, “Anh phải cho em có con, còn không em chết!”

Gia-cốp nổi giận với Ra-chên và nói, “Bộ anh là Ðức Chúa Trời, Ðấng có quyền không cho em có con, sao?”

Bà nói, “Ðây là Bin-ha, nữ tỳ của em. Anh hãy ăn nằm với nó, để nó có con, rồi em sẽ nhận con nó làm con em, để nhờ nó em cũng có con như ai.”[a] Rồi bà đưa Bin-ha nữ tỳ của bà để làm vợ ông. Gia-cốp đến với nàng. Bin-ha có thai và sinh cho Gia-cốp một con trai. Bấy giờ Ra-chên nói, “Ðức Chúa Trời đã xét xử cho tôi. Ngài đã nghe tiếng kêu cầu của tôi và cho tôi một con trai.” Bà đặt tên nó là Ðan.[b] Bin-ha nữ tỳ của Ra-chên lại có thai nữa và sinh cho Gia-cốp một con trai thứ hai. Bấy giờ Ra-chên nói, “Tôi đã vật lộn[c] với chị tôi những trận thật dữ dội, và tôi đã chiến thắng.” Bà đặt tên nó là Náp-ta-li.

Khi Lê-a thấy bà đã ngưng sinh sản, bà lấy Xinh-pa nữ tỳ của bà và trao cho Gia-cốp, để nàng làm vợ ông. 10 Xinh-pa nữ tỳ của Lê-a sinh cho Gia-cốp một con trai. 11 Bấy giờ Lê-a nói, “Thật là may mắn thay!” Vì thế bà đặt tên nó là Gát.[d] 12 Xinh-pa nữ tỳ của Lê-a lại sinh cho Gia-cốp một con trai thứ hai. 13 Lê-a bèn nói, “Tôi thật là có phước! Vì các phụ nữ sẽ gọi tôi là người có phước.” Do đó bà đặt tên nó là A-se.[e]

14 Vào mùa gặt lúa mì, Ru-bên ra đồng và tìm được một ít trái táo tình.[f] Cậu đem về cho Lê-a mẹ cậu. Ra-chên nói với Lê-a, “Chị cho em ít trái táo tình của con chị đi.”

15 Lê-a đáp với bà, “Bộ em tưởng giựt chồng của chị là chuyện nhỏ sao, mà bây giờ còn muốn lấy mấy trái táo tình của con chị nữa?”

Ra-chên đáp, “Chị cho em mấy trái táo tình của cháu thì tối nay em sẽ nhường ảnh cho chị.”

16 Ðến chiều tối khi Gia-cốp ở ngoài đồng về, Lê-a ra đón gặp ông và nói, “Tối nay anh phải qua ngủ bên em, vì em đã lấy táo tình của con em mướn anh rồi.” Vậy ông ăn nằm với bà đêm đó. 17 Ðức Chúa Trời nhậm lời của Lê-a. Bà mang thai và sinh cho Gia-cốp một con trai thứ năm. 18 Lê-a nói, “Ðức Chúa Trời đã trả công[g] cho tôi, vì tôi đã trao nữ tỳ của tôi cho chồng tôi.” Rồi bà đặt tên nó là I-sa-ca. 19 Lê-a lại mang thai nữa và sinh cho Gia-cốp một con trai thứ sáu. 20 Bấy giờ Lê-a nói, “Ðức Chúa Trời đã ban cho tôi một món quà quý báu. Lần nầy chồng tôi sẽ nể tôi thôi, vì tôi đã sinh cho chàng sáu con trai.” Vậy bà đặt tên nó là Xê-bu-lun. 21 Sau đó bà sinh được một con gái và đặt tên nó là Ði-na.

22 Ðức Chúa Trời nhớ lại Ra-chên. Ðức Chúa Trời chữa lành bà và cho bà mang thai. 23 Bà có thai và sinh một con trai. Bà nói, “Ðức Chúa Trời đã cất bỏ nỗi tủi nhục của tôi.” 24 Bà đặt tên nó là Giô-sép và nói rằng, “Cầu xin Chúa cho con có thêm một đứa con trai nữa.”

I Giăng 1

Lời của Sự Sống Nhập Thể

Ðiều đã có từ ban đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời của sự sống, và sự sống đã được bày tỏ. Chúng tôi đã thấy, làm chứng, và công bố cho anh chị em sự sống đời đời, là điều vốn ở với Ðức Chúa Cha và đã được bày tỏ cho chúng ta.

Chúng tôi công bố cho anh chị em những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe để anh chị em cũng hiệp thông với chúng tôi, mà đúng ra là chúng ta hiệp thông với Ðức Chúa Cha và với Con Ngài là Ðức Chúa Jesus Christ.

Chúng tôi viết những điều này để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn.

Ðức Chúa Trời Là Ánh Sáng

Ðây là sứ điệp chúng tôi đã nghe từ Ngài và rao giảng cho anh chị em: Ðức Chúa Trời là ánh sáng; trong Ngài không có một chút bóng tối. Nếu chúng ta nói rằng chúng ta hiệp thông với Ngài nhưng vẫn bước đi trong bóng tối, chúng ta nói dối và không làm theo sự thật. Nhưng nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng như chính Ngài ở trong ánh sáng, chúng ta có sự hiệp thông với nhau, và huyết Ðức Chúa Jesus Con Ngài tẩy sạch mọi tội chúng ta.

Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội, chúng ta lừa dối chính mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài, Ðấng thành tín và công chính, sẽ tha tội chúng ta và tẩy sạch khỏi chúng ta mọi điều gian ác. 10 Nếu chúng ta nói chúng ta không phạm tội, chúng ta cho Ngài là kẻ nói dối, và lời Ngài không ở trong chúng ta.

Giăng 9:1-17

Chúa Chữa Lành Người Mù

Trong khi Ðức Chúa Jesus đi đường, Ngài thấy một người mù từ lúc sinh ra. Các môn đồ Ngài hỏi Ngài, “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, ông này hay cha mẹ ông, mà vừa sinh ra ông đã bị mù?”

Ðức Chúa Jesus đáp, “Không phải vì ông hay cha mẹ ông đã phạm tội, nhưng để việc của Ðức Chúa Trời được thể hiện qua ông. Ðang khi còn ban ngày Ta[a] phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta; đêm đến không ai làm việc nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là ánh sáng của thế gian.”

Nói như thế xong Ngài nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, lấy bùn ấy bôi lên mắt người mù, rồi bảo ông, “Hãy đến Ao Si-lô-am và rửa.” ( Si-lô-am có nghĩa là ‘Ðược sai đi’). Vậy ông đi, rửa, và trở lại; mắt ông thấy được.

Láng giềng của ông và những người từng thấy ông ăn xin trước kia nói, “Ðây có phải là người lâu nay vẫn ngồi ăn xin không?” Người thì nói, “Anh ấy chứ ai,” kẻ khác lại bảo, “Không đâu, chắc ai giống anh ấy.” Nhưng ông nói, “Chính tôi đây.”

10 Họ hỏi ông, “Làm sao mắt anh thấy được vậy?”

11 Ông trả lời, “Người tên là Jesus lấy bùn bôi vào mắt tôi, rồi bảo tôi đến Ao Si-lô-am và rửa. Tôi đến đó, rửa, và thấy được.”

12 Họ hỏi ông, “Người ấy đâu rồi?”

Ông đáp, “Tôi không biết.”

Người Pha-ri-si Ðiều Tra Sự Chữa Lành

13 Họ dẫn người trước đã mù đến gặp những người Pha-ri-si. 14 Số là ngày Ðức Chúa Jesus hòa bùn và mở mắt cho ông lại nhằm vào ngày Sa-bát. 15 Vậy những người Pha-ri-si lại hỏi ông làm thế nào ông có được thị giác. Ông trả lời họ, “Người ấy lấy bùn bôi vào mắt tôi, tôi đi rửa và thấy được.”

16 Vài người Pha-ri-si nói, “Người ấy không phải từ Ðức Chúa Trời đâu, vì người ấy không giữ ngày Sa-bát.” Nhưng những người khác nói, “Một người có tội làm sao làm một phép lạ như thế được?” Rồi họ chia rẽ nhau.

17 Họ lại hỏi người mù nữa, “Anh nghĩ người đã mở mắt anh là ai?”

Ông đáp, “Người ấy là một đấng tiên tri.”

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang