Add parallel Print Page Options

Dân I-sơ-ra-ên Ðến Núi Si-nai

19 Ðến lần trăng mới thứ ba kể từ khi dân I-sơ-ra-ên rời khỏi xứ Ai-cập, vào ngày thứ nhất của tháng đó,[a] họ tới Ðồng Hoang Si-nai. Họ nhổ trại rời khỏi Rê-phi-đim để vào Ðồng Hoang Si-nai, và hạ trại trong đồng hoang. Dân I-sơ-ra-ên đóng trại tại đó, đối ngang ngọn núi.

Môi-se lên núi hầu chuyện với Ðức Chúa Trời. Từ trên núi Ðức Chúa Trời gọi ông và phán, “Ngươi hãy nói với nhà Gia-cốp và bảo dân I-sơ-ra-ên thế nầy: Các ngươi đã thấy những điều Ta làm cho dân Ai-cập, và thể nào Ta đã mang các ngươi trên cánh đại bàng đem các ngươi đến với Ta. Vậy bây giờ nếu các ngươi vâng theo tiếng Ta và giữ giao ước Ta, thì trong tất cả các dân, các ngươi sẽ là dân thuộc riêng về Ta, vì cả thế gian đều thuộc về Ta, và các ngươi sẽ thành một vương quốc tư tế và một dân thánh cho Ta. Ðó là những lời ngươi hãy nói lại với dân I-sơ-ra-ên.”

Vậy Môi-se trở xuống, triệu tập các vị trưởng lão trong dân lại, và trình ra trước họ mọi lời Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân trả lời như một rằng, “Mọi điều gì Chúa phán bảo, chúng tôi sẽ làm theo.” Môi-se trình lại với Chúa những lời dân đã cam kết. Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Ta sẽ ngự trong đám mây đen đến với ngươi, để khi Ta nói chuyện với ngươi thì dân có thể nghe, và như vậy chúng sẽ tin cậy ngươi mãi mãi.”

Biệt Riêng Dân Ra Thánh

Khi Môi-se đã trình lại với Chúa những lời dân đã cam kết, 10 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đến với dân và làm cho chúng ra thánh hôm nay và ngày mai. Hãy bảo chúng giặt sạch y phục, 11 và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày mốt, vì ngày mốt Chúa sẽ ngự xuống trên Núi Si-nai trước mặt toàn dân.

12 Ngươi hãy định giới hạn rõ ràng cho dân quanh chân núi và bảo chúng, ‘Hãy cẩn thận, đừng lên núi và cũng đừng chạm đến chân núi. Hễ ai chạm đến núi sẽ bị xử tử. 13 Không ai được đụng đến kẻ ấy. Nó phải bị ném đá hoặc bị bắn bằng cung tên. Bất kể thú vật hay người ta đều sẽ không được để cho sống.’ Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi dài, bấy giờ chúng mới được phép lên núi.”

14 Vậy Môi-se từ trên núi đi xuống với dân. Ông làm cho dân ra thánh, và họ giặt sạch y phục của họ. 15 Ðoạn ông nói với dân, “Hãy chuẩn bị cho ngày mốt; không được gần phụ nữ.”

16 Vào sáng sớm ngày mốt, tức ngày thứ ba, trên không trung sấm nổ vang trời, chớp loé lên sáng rực khắp đất, mây đen kéo đến bao phủ núi, và tiếng kèn trỗi lên vang rền, đến nỗi dân trong trại phải run lên vì khiếp sợ. 17 Môi-se đưa dân ra khỏi trại để gặp Ðức Chúa Trời. Họ đến đứng nơi chân núi. 18 Vả, lúc bấy giờ cả Núi Si-nai đều tỏa khói mịt mù, vì Chúa đã ngự xuống trong một luồng lửa. Khói từ ngọn núi bốc lên như khói ra từ một lò lửa, trong khi cả núi rung chuyển dữ dội. 19 Ðang khi tiếng kèn càng lúc càng lớn, Môi-se thưa chuyện, và Ðức Chúa Trời đáp lời ông trong tiếng sấm. 20 Chúa ngự xuống trên đỉnh Núi Si-nai. Chúa gọi Môi-se lên đỉnh núi, và Môi-se đi lên đó. 21 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi xuống và cảnh cáo dân: đừng vượt qua lằn ranh mà xông lên núi để nhìn Chúa, kẻo nhiều người sẽ chết. 22 Ngay cả các tư tế muốn đến gần Chúa cũng phải làm cho mình nên thánh, bằng không Chúa sẽ đánh phạt họ.”

23 Môi-se thưa với Chúa, “Dân không được phép lên Núi Si-nai, vì chính Ngài đã cảnh cáo chúng con rằng, ‘Hãy đặt giới hạn quanh núi và biệt riêng nó ra thánh.’”

24 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi xuống và dẫn A-rôn lên với ngươi, nhưng đừng cho phép các tư tế hay dân chúng vượt qua lằn ranh để đi lên nhìn Chúa, kẻo Ngài sẽ đánh phạt chúng.” 25 Vậy Môi-se đi xuống gặp dân và nói lại với họ.

Mười Ðiều Răn

(Phục 5:1-33)

20 Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán mọi lời nầy, “Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, Ðấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, tức khỏi nhà nô lệ:

Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác.
Ngươi chớ làm hình tượng cho mình để thờ, bất kể hình tượng của vật gì trên trời, hoặc vật gì dưới đất, hoặc vật gì trong nước dưới mặt đất.
Ngươi không được sấp mình xuống trước mặt chúng hay thờ lạy chúng, vì Ta, Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, là một Thần[b] ghen tương. Do tội ghét bỏ Ta của ông bà cha mẹ mà con cháu sẽ bị vạ lây đến ba bốn đời, nhưng Ta sẽ bày tỏ ơn thương xót đến ngàn đời cho những kẻ yêu kính Ta và vâng giữ các điều răn Ta.
Ngươi chớ dùng danh Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, một cách bất kính, vì Chúa sẽ không kể vô tội kẻ nào dùng danh Ngài một cách bất kính.
Hãy nhớ ngày Sa-bát mà biệt riêng ngày ấy ra thánh. Ngươi sẽ lao động và làm mọi việc của mình trong sáu ngày, 10 nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để tôn kính Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, súc vật, hay ngoại kiều cư ngụ trong thành ngươi đều không được làm việc gì, 11 vì trong sáu ngày Chúa đã dựng nên trời, đất, biển, và mọi vật trong chúng, nhưng đến ngày thứ bảy, Ngài nghỉ. Vậy Chúa đã ban phước cho ngày Sa-bát và biệt riêng ngày ấy ra thánh.
12 Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất mà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, ban cho ngươi.
13 Ngươi chớ sát nhân.
14 Ngươi chớ ngoại tình.
15 Ngươi chớ trộm cắp.
16 Ngươi chớ làm chứng dối để hại người lân cận ngươi.[c]
17 Ngươi chớ tham nhà của người lân cận ngươi; ngươi chớ tham muốn vợ của người lân cận ngươi, hoặc tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất cứ vật chi thuộc về người lân cận ngươi.”

18 Khi toàn dân chứng kiến cảnh sấm nổ vang trời, sét chớp liên hồi, tiếng kèn trỗi lên vang lừng, và núi bốc khói mịt mù, thì sợ hãi và đứng cách xa. 19 Họ nói với Môi-se, “Xin chính ông nói với chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời ông, nhưng xin đừng để Ðức Chúa Trời nói với chúng tôi, e chúng tôi chết mất.”

20 Môi-se nói với dân, “Ðừng sợ, vì Ðức Chúa Trời đến chỉ để thử anh chị em, hầu anh chị em kính sợ Ngài mà đừng phạm tội.” 21 Dân cứ đứng cách một khoảng xa, trong khi Môi-se đến gần đám mây đen, nơi Ðức Chúa Trời đang ngự.

Luật về Việc Lập Bàn Thờ

22 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên như thế nầy: Chính các ngươi đã thấy Ta từ trời nói chuyện với các ngươi. 23 Các ngươi chớ đúc các tượng thần bằng bạc để thờ bên cạnh Ta. Các ngươi cũng chớ đúc các tượng thần bằng vàng để thờ.

24 Ngươi chỉ cần lập cho Ta một bàn thờ bằng đất, rồi dâng trên đó những của lễ thiêu, của lễ cầu an, chiên, và bò của mình ở những nơi Ta muốn danh Ta được ghi nhớ, để Ta sẽ đến với ngươi và ban phước cho ngươi. 25 Còn nếu ngươi muốn lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì chớ dùng những đá đã bị đục đẽo, vì nếu ngươi đã dùng mũi đục mà chạm khắc trên đá ấy, ngươi đã làm cho đá ấy trở nên ô uế. 26 Ngươi chớ đi lên bàn thờ bằng bực thang, để sự lõa lồ của ngươi sẽ không bị lộ.

Luật về Nô Lệ

(Phục 15:12-18)

21 Ðây là các luật lệ ngươi sẽ đặt trước mặt dân:

Khi ngươi mua một người Hê-bơ-rơ làm nô lệ, người ấy sẽ phục vụ ngươi sáu năm, nhưng năm thứ bảy người ấy sẽ được tự do ra đi mà không phải trả tiền chuộc. Nếu lúc đến làm nô lệ mà người ấy độc thân, khi ra đi người ấy sẽ ra đi độc thân; nhưng nếu lúc đến làm nô lệ mà người ấy đã lập gia đình, khi ra đi, vợ người ấy cũng sẽ ra đi với người ấy. Nếu trong thời gian làm nô lệ, chủ cưới vợ cho người ấy, rồi vợ người ấy sinh cho người ấy con trai hoặc con gái, khi ra đi vợ và con người ấy sẽ thuộc về chủ, người ấy chỉ ra đi một mình. Nhưng nếu người ấy nói, ‘Tôi thương chủ tôi, vợ tôi, và các con tôi. Tôi không muốn ra đi làm người tự do,’ thì chủ người ấy sẽ đem người ấy đến trước mặt các quan tòa.[d] Người ấy sẽ được dẫn đến bên cổng hoặc khung cửa, rồi chủ người ấy sẽ lấy dùi xỏ lủng tai người ấy, và người ấy sẽ phục vụ chủ suốt đời mình.

Khi một người bán con gái mình làm tỳ nữ, người con gái ấy sẽ không được tự do ra đi như các nam nô lệ. Nếu nàng không vừa ý chủ là người đã dành nàng cho mình, chủ phải cho nàng được chuộc lại. Chủ không có quyền bán nàng cho dân ngoại, vì như thế là thất tín với nàng. Nếu chủ muốn dành người con gái đó cho con trai mình, chủ phải đối xử với nàng như con gái mình. 10 Nếu chủ cưới một người phụ nữ khác làm vợ, chủ không được quyền cắt giảm phần lương thực, quần áo, và quyền phối ngẫu của nàng. 11 Nếu chủ không làm ba điều trên cho nàng, nàng có quyền ra đi tự do, không nợ nần, không phải trả tiền gì cả.

Luật về Tội Bạo Hành

12 Hễ ai đánh chết người, kẻ ấy sẽ bị xử tử. 13 Nếu người ấy không cố ý giết người, nhưng án mạng đã xảy ra do Ðức Chúa Trời cho phép kẻ bị chết phải chết bởi tay người ấy, thì Ta sẽ chỉ định cho ngươi một chỗ để người ấy có thể chạy đến đó ẩn náu. 14 Nhưng nếu ai cố tình toan tính, rồi xông vào giết người lân cận mình, ngươi phải lôi kẻ sát nhân ấy ra khỏi bàn thờ Ta, mà xử tử nó đi.

15 Kẻ nào đánh cha hoặc đánh mẹ sẽ bị xử tử.

16 Kẻ nào bắt cóc người ta, bất kể người bị bắt cóc đã bị bán hay còn bị nó giam giữ, kẻ bắt cóc ấy sẽ bị xử tử.

17 Kẻ nào chưởi cha hoặc mắng mẹ sẽ bị xử tử.

18 Khi hai người cãi nhau, nếu một người đánh người kia bằng cục đá hay bằng nắm tay, khiến người kia bị trọng thương, dù không gây cho người kia bị thiệt mạng, nhưng phải nằm liệt giường, 19 rồi sau đó có thể đứng dậy, chống gậy đi lại, và đi ra ngoài được, thì kẻ đánh người sẽ được tha, nhưng phải trả tiền chữa trị và thiệt hại cho người kia trong suốt thời gian dưỡng bịnh cho đến khi hoàn toàn bình phục.

20 Khi người chủ nô lệ đánh một nam nô lệ hay một nữ nô lệ bằng roi, và người nô lệ chết ngay dưới tay chủ, người chủ phải bị trừng phạt. 21 Nhưng nếu người nô lệ còn sống được một, hai ngày, người chủ khỏi bị trừng phạt, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.

22 Khi người ta ẩu đả nhau, nếu ai gây cho một phụ nữ đang mang thai bị hư thai, nhưng không thiệt hại chi khác, kẻ gây cho nàng bị hư thai phải bồi thường theo số tiền chồng nàng đòi, và theo quyết định của quan tòa. 23 Nhưng nếu có thiệt hại gì khác, ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, 25 phỏng đền phỏng, thương tích đền thương tích, bầm đền bầm.

26 Khi người chủ nô lệ đánh nhằm con mắt của một nam nô lệ hay một nữ nô lệ của mình, khiến nó bị mù, người chủ nô lệ đó phải để cho người nô lệ được ra đi tự do, để đền bù cho con mắt của người đó. 27 Nếu người chủ nô lệ đánh gãy răng của một nam nô lệ hay một nữ nô lệ của mình, người nô lệ ấy được ra đi tự do, để đền bù cho cái răng bị gãy.

Luật về Tài Sản

28 Khi một con bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, con bò ấy phải bị ném đá chết; không ai được ăn thịt nó. Chủ con bò ấy sẽ được xem là vô can. 29 Nhưng nếu con bò ấy hay có tật húc người, và chủ bò đã được khuyến cáo, nhưng không chịu kiềm chế nó, để nó húc chết một người nam hay nữ, con bò ấy sẽ bị ném đá chết và chủ nó cũng sẽ bị xử tử. 30 Nếu người ta cho chủ bò được đền tiền chuộc mạng, chủ bò phải đền bất cứ giá nào thân nhân của nạn nhân đòi cho mạng sống của nạn nhân. 31 Nếu bò húc chết một đứa bé trai hay một đứa bé gái, chủ bò cũng bị xử theo luật nầy. 32 Nếu bò húc chết một nam nô lệ hay một nữ nô lệ, chủ bò phải trả cho chủ người nô lệ ba trăm bốn mươi lăm gờ-ram bạc,[e] còn con bò phải bị ném đá chết.

33 Nếu ai để giếng mình không đậy, hoặc đào giếng mà không đậy miệng giếng lại, rủi bò hay lừa của ai té vào giếng ấy, 34 chủ giếng phải bồi thường tiền cho chủ con vật, nhưng xác con vật sẽ thuộc về chủ giếng.

35 Nếu bò của người nầy húc bò của người kia chết, phải bán con bò còn sống mà chia nhau số tiền, và họ cũng sẽ chia nhau con bò chết. 36 Nhưng nếu người ta biết một con bò đã có tật hay húc, mà chủ bò không kiềm chế nó, thì chủ bò phải lấy bò đền bò, và người ấy sẽ được giữ con bò chết.

Luật về Bồi Thường

22 Khi một người ăn trộm một con bò hay một con chiên, rồi làm thịt ăn hay đem bán, kẻ ăn trộm phải bồi thường năm con bò cho một con bị ăn cắp, và bốn con chiên cho một con bị ăn cắp.

Nếu kẻ trộm cắp bị bắt quả tang và bị đánh chết, người đánh chết kẻ trộm sẽ không mang tội sát nhân. Nhưng nếu sự việc xảy ra sau khi mặt trời đã mọc, người đánh chết kẻ trộm sẽ mang tội làm đổ máu. Kẻ trộm cắp phải bồi thường. Nếu nó không có gì để bồi thường, hãy bán nó làm nô lệ, để lấy tiền bồi thường cho tội trộm cắp của nó.

Khi một con vật, bất kỳ là bò, lừa, hay chiên, được thấy còn sống trong tay kẻ trộm, kẻ trộm phải bồi thường gấp đôi cho chủ của con vật bị trộm.

Khi một người làm thiệt hại ruộng hay vườn nho của người khác, hoặc thả súc vật mình vào phá ruộng người khác, người ấy phải lấy hoa lợi tốt nhất trong ruộng hoặc vườn nho mình mà bồi thường cho chủ ruộng hay chủ vườn bị thiệt hại.

Khi người nào nổi lửa trong ruộng mình, nhưng rủi lửa bốc cháy cỏ gai rồi cháy lan ra, đốt lúa vừa mới gặt, hoặc lúa chưa kịp gặt, hoặc làm cháy đám ruộng của người khác, người nổi lửa phải bồi thường mọi thiệt hại.

Khi ai trao cho người láng giềng giữ tiền hay đồ vật, nếu tiền hay đồ vật ấy bị mất trộm trong nhà người láng giềng, kẻ trộm cắp, nếu bị bắt, phải bồi thường gấp đôi. Nếu kẻ trộm không bị bắt, chủ căn nhà sẽ đem sự việc trình ra trước mặt các quan tòa,[f] để được xác định là mình có nhúng tay vào tiền bạc của người gởi hay không.

Trong mọi sự tranh tụng liên quan đến quyền sở hữu chủ của bò, lừa, chiên, y phục, hay bất cứ vật chi bị mất, nếu một bên nói, “Vật nầy là của tôi,” thì hai bên hãy đến trước mặt các quan tòa; bên nào bị các quan tòa định tội, bên ấy phải bồi thường gấp đôi.

10 Khi ai trao cho người láng giềng mình giữ lừa, bò, chiên, hay bất cứ con vật nào, nếu con vật ấy chết hay bị thương hay bị mất, mà không ai hay biết, 11 thì sự vụ sẽ được giải quyết giữa hai bên bằng lời thề của người giữ trước mặt Chúa rằng người ấy không nhúng tay vào tài sản của người kia. Người chủ con vật sẽ chấp nhận lời thề, và người giữ không phải bồi thường chi cả. 12 Nhưng nếu con vật thật đã bị trộm cắp, người giữ phải bồi thường cho chủ con vật. 13 Nếu con vật bị thú dữ cắn xé, người giữ sẽ đem xác còn lại của con vật ra làm bằng chứng và không phải bồi thường gì cả.

14 Khi ai mượn một con vật của người khác, và con vật sau đó bị thương hay chết mà người chủ con vật không có mặt lúc đó, người mượn phải bồi thường đầy đủ. 15 Nếu người chủ con vật có mặt ở đó, người mượn không phải bồi thường gì. Nếu con vật được chủ cho thuê, người thuê chỉ phải trả tiền thuê mà thôi.

Luật về Các Mối Quan Hệ Xã Hội và Tôn Giáo

16 Khi một người nam dụ dỗ một trinh nữ chưa đính hôn với ai và ăn nằm với nàng, người ấy phải nộp tiền sính lễ và cưới nàng làm vợ. 17 Nhưng nếu cha nàng nhất định không chịu gả nàng cho người ấy, người ấy vẫn phải nộp tiền sính lễ tương đương với tiền cưới một trinh nữ cho gia đình nàng.

18 Ngươi chớ để cho một tên phù thủy nào được sống.

19 Kẻ nào ăn nằm với một con vật sẽ bị xử tử.

20 Kẻ nào dâng tế lễ cho bất cứ thần nào khác không phải là Chúa sẽ bị diệt trừ.

21 Ngươi không được ngược đãi và ức hiếp ngoại kiều, vì các ngươi từng là ngoại kiều trong xứ Ai-cập.

22 Các ngươi không được ức hiếp góa phụ hoặc cô nhi. 23 Nếu các ngươi ức hiếp chúng, chúng sẽ kêu cứu đến Ta, Ta chắc chắn sẽ nghe tiếng kêu cứu của chúng, 24 rồi cơn giận của Ta sẽ nổi phừng lên, Ta sẽ cho gươm giết các ngươi, bấy giờ vợ các ngươi sẽ thành góa phụ và con cái các ngươi sẽ thành cô nhi.

25 Nếu ngươi cho ai trong dân Ta, là những người nghèo khó giữa các ngươi, mượn tiền, chớ đối xử với chúng như chủ nợ và cũng đừng bắt chúng trả tiền lời.

26 Nếu ngươi giữ áo choàng của người lân cận làm đồ cầm, hãy trả lại cho người ấy trước khi mặt trời lặn, 27 vì biết đâu đó là chiếc áo duy nhất người ấy có để che thân; nếu không có nó, người ấy biết lấy gì đắp để ngủ? Nếu người lân cận ngươi kêu van Ta, Ta sẽ nghe, vì Ta hay thương xót.

28 Ngươi chớ xúc phạm Ðức Chúa Trời và cũng đừng nguyền rủa người lãnh đạo của dân ngươi.

29 Ngươi chớ chậm trễ dâng hoa màu đầu mùa và rượu nho ngươi thâu hoạch được.

Ngươi hãy dâng lên Ta con trai đầu lòng của ngươi. 30 Ngươi hãy làm như vậy với bò và chiên của ngươi. Con đầu lòng sẽ ở với mẹ nó bảy ngày; ngày thứ tám ngươi sẽ dâng nó lên Ta.

31 Các ngươi sẽ là một dân được biệt riêng ra thánh cho Ta; vì thế các ngươi sẽ không ăn thịt thú vật đã bị thú dữ cắn xé, nhưng hãy quăng thịt ấy cho chó ăn.

Giữ Gìn Công Lý và Bày Tỏ Lòng Nhân Từ

23 Ngươi chớ phao tin thất thiệt. Ngươi chớ tiếp tay với kẻ ác mà làm chứng dối. Ngươi chớ hùa theo số đông mà làm điều ác. Khi ngươi làm nhân chứng trong một vụ kiện, ngươi chớ hùa theo số đông để bẻ cong công lý. Ngươi không được thiên vị người nghèo trong một vụ kiện.

Khi ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù ngươi đi lạc, hãy dẫn nó về cho chủ nó.

Khi ngươi thấy con lừa của kẻ thù ngươi bị ngã quỵ vì chở nặng, chớ làm ngơ, nhưng phải giúp người ấy đỡ con lừa dậy.

Ngươi chớ làm sai lệch công lý của người nghèo trong vụ kiện.

Hãy tránh xa những lời cáo gian. Ngươi chớ giết người vô tội và ngay lành, vì Ta sẽ không để cho kẻ có tội được trắng án. Ngươi chớ nhận hối lộ, vì của hối lộ làm cho người khôn ngoan trở nên đui mù và làm sai lệch duyên cớ của người ngay lành.

Ngươi chớ áp bức các kiều dân. Các ngươi thấu hiểu tâm trạng của kiều dân là thế nào, vì các ngươi từng là kiều dân trong xứ Ai-cập.

Năm Sa-bát và Ngày Sa-bát

10 Trong sáu năm, ngươi sẽ trồng trọt trong ruộng đất của ngươi và thu hoạch hoa màu, 11 nhưng năm thứ bảy ngươi phải để cho đất nghỉ và không canh tác gì cả. Nhờ vậy những người nghèo trong dân sẽ được hưởng những hoa màu mọc lên trong năm đó. Những gì chúng không dùng, các thú rừng sẽ ăn. Ngươi hãy làm như vậy với vườn nho và vườn ô-liu của ngươi.

12 Trong sáu ngày ngươi sẽ làm công việc mình, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ, để bò và lừa của ngươi được nghỉ, các nô lệ sinh ra trong nhà ngươi và những kiều dân làm thuê có thời gian lấy lại sức.

13 Hãy cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền cho các ngươi:

Ngươi chớ kêu tên các thần khác mà cầu khẩn; miệng ngươi chớ nhắc đến tên chúng để cầu xin điều gì.

14 Mỗi năm ba lần ngươi sẽ giữ các ngày lễ để thờ kính Ta. 15 Ngươi sẽ giữ Lễ Bánh Không Men như Ta đã truyền cho ngươi. Ngươi sẽ ăn bánh không men bảy ngày, theo thời gian đã định trong tháng A-bíp,[g] vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập.

Không ai đến ra mắt Ta mà đi tay không.

16 Ngươi sẽ giữ Lễ Mùa Gặt. Ðó là lễ dâng các hoa lợi đầu mùa của sức lao động ngươi, tức hoa lợi do ngươi canh tác trong ruộng đất mình.

Ngươi sẽ giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm, sau khi ngươi thu hoạch hoa lợi của sức lao động ngươi từ ngoài đồng về.

17 Mỗi năm ba lần, tất cả người nam phải đến ra mắt Chúa Hằng Hữu.[h]

18 Ngươi chớ dâng lên Ta máu của con vật hiến tế với bất cứ món gì có men, và chớ để mỡ của con vật hiến tế đã dâng lên Ta qua đến sáng hôm sau.

19 Ngươi hãy mang những hoa lợi đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi vào nhà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi.

Ngươi chớ nấu thịt dê con trong sữa của mẹ nó.

Chúa Hứa Giúp Dân I-sơ-ra-ên Chinh Phục Ðất Ca-na-an

20 Nầy, Ta sai một thiên sứ đi trước ngươi để bảo vệ ngươi dọc đường, và đem ngươi vào nơi Ta đã sắm sẵn. 21 Hãy cẩn thận và vâng lời người. Ðừng chọc người nổi giận, vì người sẽ không tha sự vi phạm của ngươi đâu, bởi danh Ta ngự trong người. 22 Nhưng nếu ngươi cẩn thận nghe theo tiếng người, và làm mọi điều Ta truyền bảo, Ta sẽ trở thành kẻ thù của các kẻ thù ngươi và kẻ nghịch của các kẻ nghịch ngươi.

23 Thật vậy thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, đem ngươi vào xứ của dân A-mô-ri, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Ca-na-an, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si; và Ta sẽ dẹp sạch chúng.

24 Ngươi chớ sấp mình trước các thần của chúng, chớ thờ lạy các thần ấy, hoặc làm theo các thói tục của chúng, nhưng phải phá hủy hoàn toàn các tượng thần ấy và đập nát các trụ thờ của chúng. 25 Ngươi chỉ thờ lạy một mình Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, để Ngài sẽ ban phước cho thức ăn và thức uống của ngươi, và Ta sẽ cất bịnh tật ra khỏi các ngươi. 26 Không ai sẽ bị hư thai hoặc hiếm con trong đất ngươi sống. Ta sẽ cho ngươi hưởng trọn tuổi thọ của mình.

27 Ta sẽ sai kinh hoàng đi trước ngươi, làm mọi nước chống nghịch ngươi sinh rối loạn, và khiến tất cả quân thù của ngươi quay lưng chạy trốn khỏi ngươi. 28 Ta sẽ sai ong độc[i] đi trước ngươi để đuổi dân Hi-vi, dân Ca-na-an, và dân Hít-ti bỏ đi trước khi ngươi đến. 29 Ta sẽ không đuổi chúng đi hết trong một năm, vì như thế đất sẽ trở nên hoang vu, và thú dữ sẽ sinh ra nhiều, gây hại cho ngươi. 30 Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi từ từ, cho đến khi ngươi gia tăng đông đúc và chiếm trọn xứ. 31 Ta định biên giới cho ngươi từ Hồng Hải[j] đến biển của dân Phi-li-tin, từ đồng hoang đến Sông Ơ-phơ-rát, vì Ta sẽ phó các dân trong xứ ấy vào tay ngươi, và ngươi sẽ đuổi chúng đi trước mặt mình. 32 Ngươi chớ lập giao ước với chúng hoặc với các thần của chúng. 33 Chúng sẽ không được sống còn trong đất nước ngươi, nếu không chúng sẽ xui ngươi phạm tội nghịch lại Ta; vì nếu ngươi thờ lạy các thần của chúng, sự thờ lạy thần tượng đó sẽ thành cái bẫy hại ngươi.”

Giao Ước Ðược Thiết Lập

24 Ngài phán với Môi-se, “Hãy đi lên gặp Chúa: ngươi, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, và bảy mươi trưởng lão của dân I-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ phủ phục đằng xa.” Chỉ một mình Môi-se được đến gần Chúa, nhưng tất cả những người khác không được đến gần, và dân cũng không được đi lên với ông.

Môi-se đến và nói với dân mọi lời Chúa đã phán và mọi luật lệ. Mọi người đều đồng thanh đáp lại, “Chúng tôi sẽ làm theo mọi lời Chúa phán.”

Môi-se ghi lại mọi lời Chúa đã phán. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ tại chân núi, và dựng mười hai trụ đá, tiêu biểu cho mười hai chi tộc I-sơ-ra-ên. Ông cũng nhờ một số thanh thiếu niên I-sơ-ra-ên phụ giúp giết các con vật hiến tế dâng làm của lễ thiêu, và các con vật hiến tế bằng bò đực làm của lễ cầu an dâng lên Chúa. Môi-se lấy một nửa máu đổ vào các chậu, còn một nửa ông đem rảy trên bàn thờ. Ðoạn ông lấy cuốn sách giao ước và đọc cho dân nghe. Họ đáp, “Chúng tôi sẽ làm theo mọi lời Chúa phán, và chúng tôi sẽ vâng lời Ngài.”

Môi-se lấy máu, rảy trên dân, và nói, “Nầy, máu của giao ước mà Chúa đã lập với anh chị em y theo những lời trong sách nầy.”

Trên Núi với CHÚA

Bấy giờ Môi-se, A-rôn, Na-đáp, và A-bi-hu, cùng bảy mươi vị trưởng lão của dân I-sơ-ra-ên đi lên núi, 10 và họ trông thấy Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có vật chi giống như cái bệ bằng lam bảo ngọc, trong suốt như trời xanh. 11 Ngài không ra tay trên những vị lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên dù họ ngắm nhìn Ðức Chúa Trời, và họ đã ăn uống tại đó.

12 Chúa phán với Môi-se, “Hãy lên núi để gặp Ta và đợi ở đó. Ta sẽ ban cho ngươi các bảng đá, có luật pháp và điều răn, mà Ta đã chép để dạy dân.”

13 Vậy Môi-se cùng người phụ tá của ông là Giô-suê đi lên núi, và Môi-se đã đi lên núi của Ðức Chúa Trời. 14 Ông căn dặn các vị trưởng lão, “Xin quý vị hãy ở đây đợi chúng tôi, cho đến khi chúng tôi trở lại với quý vị. Có A-rôn và Hu-rơ ở với quý vị. Nếu có chuyện gì cần giải quyết, xin quý vị cứ đến với hai ông ấy.”

15 Ðoạn Môi-se đi lên núi, và mây bao phủ núi. 16 Vinh quang của Chúa ngự trên Núi Si-nai. Mây bao phủ núi liên tiếp sáu ngày; đến ngày thứ bảy, Ngài từ trong đám mây gọi Môi-se. 17 Bấy giờ vinh quang Chúa hiện ra trên đỉnh núi giống như lửa cháy phừng phừng trước mắt dân I-sơ-ra-ên. 18 Môi-se đi vào trong đám mây và lên trên núi. Môi-se ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.

Các Lễ Vật Dâng Làm Ðền Tạm

(Xuất 35:4-9)

25 Chúa phán với Môi-se, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên dâng lên Ta một lễ vật. Ai được cảm động mà dâng với lòng thành, ngươi hãy nhận lấy. Ðây là những lễ vật ngươi sẽ nhận từ nơi chúng: vàng, bạc, đồng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, da cá heo, gỗ si-tim,[k] dầu đốt đèn, hương liệu để chế tạo dầu xức và hương thơm, bạch bảo ngọc, và các loại bửu ngọc để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực. Hãy nói với chúng làm cho Ta một Nơi Thánh để Ta ngự giữa chúng. Ngươi cứ làm theo kiểu mẫu của Ðền Tạm và những đồ dùng trong đền ấy mà Ta sẽ chỉ cho ngươi, rồi các ngươi hãy cứ thế mà làm.

Rương Giao Ước

(Xuất 37:1-9)

10 Chúng sẽ làm một cái rương bằng gỗ si-tim. Rương ấy sẽ dài một mét hai mươi lăm, rộng bảy tấc rưỡi, và cao bảy tấc rưỡi.[l] 11 Ngươi sẽ bọc rương ấy bằng vàng ròng; ngươi sẽ bọc rương bằng vàng cả trong lẫn ngoài; ngươi cũng hãy làm trên rương ấy một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Ngươi hãy đúc bốn khoen bằng vàng và gắn vào bốn chân rương, hai cái bên nầy và hai cái bên kia. 13 Ngươi cũng hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi bọc vàng các đòn khiêng ấy. 14 Ngươi hãy xỏ các đòn khiêng vào các khoen gắn ở hai bên để khiêng rương. 15 Các đòn khiêng sẽ để luôn trong khoen rương, và không được rút ra. 16 Sau đó ngươi sẽ đặt vào rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.

17 Ngươi hãy làm một Nắp Thi Ân[m] bằng vàng ròng, dài một mét hai mươi lăm, và rộng bảy tấc rưỡi.[n] 18 Ngươi hãy làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng ở hai đầu nắp. 19 Ngươi hãy làm một chê-rúp[o] ở đầu nầy và một chê-rúp ở đầu kia. Ngươi sẽ làm hai chê-ru-bim dính liền với Nắp Thi Ân trên hai đầu nắp. 20 Các chê-ru-bim sẽ dang cánh ra ở trên nắp, dùng đôi cánh mình che phủ Nắp Thi Ân. Hai chê-ru-bim đó sẽ đối diện nhau, nhưng mặt của hai chê-ru-bim sẽ nhìn vào nắp. 21 Ngươi sẽ đậy Nắp Thi Ân đó trên rương, và ngươi sẽ đặt vào trong rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22 Ta sẽ gặp ngươi tại đó. Từ trên Nắp Thi Ân, tức từ giữa hai chê-ru-bim ở trên Rương Giao Ước, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi mạng lịnh cho dân I-sơ-ra-ên.

Bàn Ðể Bánh Thánh

(Xuất 37:10-16)

23 Ngươi hãy làm một bàn bằng gỗ si-tim, dài một mét, rộng nửa mét, và cao bảy tấc rưỡi.[p] 24 Ngươi hãy bọc bàn ấy bằng vàng ròng, và làm một đường viền quanh bàn bằng vàng. 25 Ngươi hãy làm một khung quanh bàn, bề ngang thành khung rộng một bàn tay, rồi làm một đường viền quanh khung ấy bằng vàng. 26 Ngươi hãy làm bốn khoen bằng vàng, rồi gắn bốn khoen ấy vào bốn góc ở bốn chân bàn. 27 Bốn khoen ấy ở sát khung bàn, để giữ các đòn khiêng. 28 Ngươi hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi lấy vàng bọc chúng lại. Các đòn ấy sẽ được dùng để khiêng bàn. 29 Ngươi hãy lấy vàng ròng mà làm các khay, vá, bình, và chén để dùng vào việc dâng lễ quán.[q] 30 Ngươi phải dâng Bánh Hằng Hiến ở trên bàn trước mặt Ta luôn luôn.

Cây Ðèn

(Xuất 37:17-24)

31 Ngươi sẽ làm một cây đèn bằng vàng ròng. Ðế và thân của cây đèn ấy sẽ được làm bằng vàng dát mỏng. Các đài hoa của đèn, các nụ hoa của đèn, và các cánh hoa của đèn đều dính với nhau thành một khối và dính vào cây đèn. 32 Cây đèn ấy sẽ có sáu nhánh tẻ ra hai bên, ba nhánh tẻ ra bên nầy và ba nhánh tẻ ra bên kia. 33 Trên mỗi nhánh bên nầy sẽ có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa; trên mỗi nhánh bên kia cũng sẽ có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa; như vậy cây đèn ấy có sáu nhánh tẻ ra hai bên. 34 Còn trên chính thân cây đèn sẽ có bốn đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. 35 Dưới nơi hai nhánh dưới cùng đâu lại với nhau sẽ có một nụ hoa, dưới nơi hai nhánh giữa đâu lại với nhau sẽ có một nụ hoa, và dưới nơi hai nhánh trên cùng đâu lại với nhau sẽ có một nụ hoa; sáu nhánh tẻ ra từ thân cây đèn đều sẽ như thế. 36 Các nụ hoa đèn và nhánh đèn dính liền với thân cây đèn thành một khối. Cả cây đèn sẽ được làm bằng vàng ròng dát mỏng. 37 Sau đó ngươi sẽ làm bảy cái đèn vàng cho cây đèn ấy, rồi đặt chúng trên đầu các nhánh, để chúng tỏa ánh sáng ra trước đèn. 38 Kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn cũng sẽ làm bằng vàng ròng. 39 Ngươi sẽ dùng ba mươi bốn ký[r] vàng ròng để làm cây đèn và mọi đồ phụ tùng cho cây đèn ấy. 40 Ngươi hãy để ý và làm đúng theo kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Ðền Tạm - Các Màn và Các Tấm Bạt

(Xuất 36:8-19)

26 Ngoài ra ngươi hãy làm một Ðền Tạm bằng mười tấm màn dệt bằng gải vai mịn, chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm. Ngươi sẽ thêu hình các chê-ru-bim thật mỹ thuật trên các màn ấy. Chiều dài mỗi màn sẽ là mười bốn mét; chiều rộng mỗi màn sẽ là hai mét.[s] Tất cả các màn sẽ đồng kích thước như nhau. Năm tấm màn nầy sẽ kết lại với nhau, và năm tấm màn kia sẽ kết lại với nhau. Ngươi hãy làm những khoen bằng chỉ xanh dương gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhất. Ngươi hãy làm những khoen tương tự gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhì. Ngươi hãy làm năm mươi khoen cho bộ màn nầy, và ngươi hãy làm năm mươi khoen gắn vào mép của bộ màn kia; các khoen của hai bộ màn phải đối nhau cách chính xác. Ngươi hãy làm năm mươi cái móc khóa bằng vàng, rồi dùng các móc khóa ấy kết hai bộ màn lại với nhau. Như thế Ðền Tạm sẽ thành hình do hai bộ màn được kết lại với nhau thành một.

Ngươi hãy làm mười một tấm màn bằng lông dê kết lại với nhau, để thành một mái lều che trên Ðền Tạm. Chiều dài mỗi tấm màn là mười lăm mét; chiều rộng mỗi tấm màn là hai mét.[t] Mười một màn ấy đều có kích thước bằng nhau. Ngươi hãy kết năm tấm màn lại với nhau thành một mái. Ngươi hãy kết sáu tấm màn kia lại với nhau thành một mái, nhưng tấm thứ sáu ngươi hãy gấp đôi lại ở phía trước lều. 10 Ngươi hãy làm năm mươi khoen gắn nơi mép của mái thứ nhất, và cũng hãy làm năm mươi khoen gắn nơi mép của mái thứ nhì.

11 Ngươi hãy làm năm mươi cái móc khóa bằng đồng, rồi móc các khoen lại, để kết hai mái lại với nhau; như vậy ngươi sẽ có một bộ mái lều. 12 Phần còn dư lại của các màn mái lều, tức phân nửa vải dư, sẽ được thả rủ xuống phía sau Ðền Tạm. 13 Nửa mét[u] màn dư phía bên nầy và nửa mét[v] màn dư phía bên kia, dọc theo chiều dài của lều, ngươi sẽ cho rủ xuống hai bên Ðền Tạm, một bên nầy, một bên kia, để che lều. 14 Ngươi hãy làm một tấm bạt bằng da chiên nhuộm đỏ để che lều, rồi phủ bên trên tấm bạt ấy một tấm bạt nữa làm bằng loại da thú thượng hạng.[w]

Vách Ván của Ðền Tạm

(Xuất 36:20-34)

15 Ngươi hãy dùng những tấm ván bằng gỗ si-tim dựng lên làm vách cho Ðền Tạm. 16 Mỗi tấm sẽ dài năm mét và rộng bảy tấc rưỡi.[x] 17 Mỗi tấm sẽ có hai cái mộng để gắn các tấm ván lại với nhau. Ngươi sẽ làm các mộng ấy cho tất cả các tấm ván của Ðền Tạm.

18 Ngươi hãy dựng các tấm ván của Ðền Tạm như sau: hai mươi tấm về hướng Nê-ghép, tức hướng nam. 19 Ngươi hãy làm bốn mươi cái đế bằng bạc để dưới hai mươi tấm ván; dưới mỗi tấm ván ngươi đặt hai đế ăn khớp với hai cái mộng, và cứ dưới mỗi tấm phải có hai cái đế ăn khớp với hai cái mộng. 20 Phía bên kia của Ðền Tạm, tức hướng bắc, ngươi hãy dựng hai mươi tấm ván, 21 cùng với bốn mươi cái đế bạc; hai đế dưới mỗi tấm ván; cứ dưới mỗi tấm ván đặt hai cái đế. 22 Ðầu trong cùng của Ðền Tạm, về hướng tây, ngươi hãy làm sáu tấm ván. 23 Ở hai góc trong cùng của Ðền Tạm, ngươi sẽ làm hai tấm ván. 24 Chúng sẽ được ghép lại với nhau thành góc từ dưới lên trên, cho đến khoen thứ nhất.[y] Các tấm ván ở hai góc đều ghép lại với nhau như thế, để làm thành hai góc. 25 Như vậy sẽ có tám tấm ván với những cái đế bằng bạc, mười sáu cái đế cả thảy. Cứ mỗi tấm ván có hai cái đế; tấm ván nào cũng có hai cái đế.

26 Ngươi hãy làm các thanh ngang bằng gỗ si-tim; năm thanh cho các tấm ván bên nầy của Ðền Tạm, 27 năm thanh cho các tấm ván bên kia của Ðền Tạm, và năm thanh cho các tấm ván cho phía trong cùng của Ðền Tạm, về hướng tây. 28 Thanh ngang giữa, nằm ở giữa độ cao của vách ván, sẽ dài từ đầu nầy đến đầu kia. 29 Ngươi sẽ dát vàng các tấm ván; còn các khoen giữ các thanh ngang, ngươi sẽ làm bằng vàng. Ngươi hãy lấy vàng bọc tất cả các thanh ngang. 30 Sau đó ngươi dựng Ðền Tạm theo như kiểu ngươi đã được chỉ vẽ trên núi.

Bức Màn và Tấm Màn Cửa

(Xuất 36:35-38)

31 Ngươi hãy làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Ngươi hãy thêu trên đó hình các chê-ru-bim thật mỹ thuật. 32 Ngươi sẽ treo bức màn đó trên bốn trụ gỗ si-tim bọc vàng, có móc vàng, dựng trên bốn đế bạc. 33 Ngươi sẽ treo bức màn đó dưới các móc khóa, rồi đem Rương Giao Ước vào đó, tức vào phía trong bức màn. Ðối với các ngươi, bức màn ấy sẽ phân chia giữa Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. 34 Ngươi sẽ đậy Nắp Thi Ân trên Rương Giao Ước trong Nơi Chí Thánh. 35 Ngươi sẽ đặt cái bàn để bánh thánh bên ngoài bức màn; cây đèn ngươi sẽ đặt ở phía nam trong Ðền Tạm đối ngang cái bàn, còn cái bàn ngươi sẽ đặt về phía bắc.

36 Ngươi sẽ làm một tấm màn che cửa vào lều bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng những sợi gai mịn. Ngươi hãy nhờ các thợ đan dệt tài khéo làm tấm màn đó. 37 Ngươi sẽ làm năm cây trụ gỗ si-tim, lấy vàng bọc lại, để treo tấm màn đó. Các móc treo màn sẽ được làm bằng vàng. Ngươi hãy đúc năm cái đế bằng đồng để dựng các trụ ấy.

Bàn Thờ Dâng Của Lễ Thiêu

(Xuất 38:1-7)

27 Ngươi hãy làm một bàn thờ bằng gỗ si-tim, chiều dọc hai mét rưỡi, chiều ngang hai mét rưỡi, tức bàn thờ có mặt hình vuông, và chiều cao một mét rưỡi.[z] Ở bốn góc bàn, ngươi sẽ làm bốn cái sừng. Các sừng của bàn thờ sẽ dính liền một khối với bàn thờ. Sau đó ngươi sẽ lấy đồng bọc bàn thờ ấy lại. Ngươi hãy làm các thùng đựng tro, các xẻng, các thùng nước, các chĩa, và các khay. Ngươi hãy làm tất cả các dụng cụ ấy bằng đồng. Ngươi hãy làm một rá lưới bằng đồng. Ngươi hãy làm ở bốn góc rá lưới ấy bốn chiếc khoen bằng đồng. Ngươi hãy treo rá lưới ấy trong bốn chân bàn thờ, bên dưới đường viền quanh bàn thờ, nằm ở khoảng giữa chiều cao của bàn thờ. Ngươi hãy làm những đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ si-tim, rồi lấy đồng bọc lại. Các đòn khiêng sẽ được xỏ vào các khoen, như vậy các đòn khiêng sẽ nằm hai bên bàn thờ khi bàn thờ được khiêng đi. Ngươi hãy làm bàn thờ rỗng bên trong, dùng ván đóng lại. Ngươi[aa] sẽ làm bàn thờ ấy theo như kiểu ngươi đã được chỉ vẽ trên núi.

Sân Ðền Tạm

(Xuất 38:9-20)

Ngươi hãy làm một bức tường bằng màn để che chung quanh sân Ðền Tạm.[ab] Về phía nam của sân đền, ngươi sẽ treo những tấm màn dệt bằng sợi gai mịn, chiều dài phía đó là năm mươi mét.[ac] 10 Hai mươi cây cột treo màn và hai mươi đế cột sẽ làm bằng đồng, nhưng các móc và các thanh ngang làm bằng bạc. 11 Ở phía bắc cũng vậy, các tấm màn nối lại dài năm mươi mét,[ad] hai mươi cây cột và hai mươi đế cột đều làm bằng đồng, nhưng các móc và các thanh ngang sẽ làm bằng bạc. 12 Về chiều rộng của sân đền, các tấm màn nối lại ở phía tây sẽ dài hai mươi lăm mét,[ae] với mười cây cột và mười đế cột. 13 Còn chiều rộng của sân đền về phía đông, tức mặt tiền của Ðền Tạm, sẽ là hai mươi lăm mét.[af] 14 Các màn che bên nầy là bảy mét rưỡi,[ag] với ba cây cột và ba đế cột. 15 Các màn che bên kia cũng bảy mét rưỡi,[ah] với ba cây cột và ba đế cột. 16 Còn cổng vào sân đền được làm bằng một tấm màn rộng mười mét;[ai] màn ấy sẽ được làm bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Các thợ đan thêu sẽ làm tấm màn ấy. Màn ấy sẽ được treo trên bốn cây cột dựng trên bốn đế cột. 17 Tất cả các cột chung quanh sân đền sẽ được nối kết với nhau bằng những thanh ngang bằng bạc, có những móc bằng bạc, và các đế cột bằng đồng. 18 Chiều dài của sân đền là năm mươi mét, chiều rộng hai mươi lăm mét, và chiều cao hai mét rưỡi.[aj] Sân đền sẽ được che bằng những tấm màn dệt bằng sợi gai mịn, và được treo trên những cột có đế bằng đồng. 19 Tất cả những vật dụng trong Ðền Tạm, tất cả những cọc dùng để căng Ðền Tạm và những cọc để dựng màn che quanh sân đền đều làm bằng đồng.

Dầu Thắp Ðèn

(Lê 24:1-4)

20 Ngươi hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên mang dầu ép ra từ trái ô-liu đến để làm dầu thắp đèn, hầu giữ đèn được thắp sáng luôn. 21 Trong Lều Hội Kiến,[ak] bên ngoài bức màn treo phía trước Rương[al] Giao Ước, A-rôn và các con ông có phận sự giữ cho đèn luôn luôn sáng trước mặt Chúa, từ chiều tối cho đến sáng. Ðó là quy luật đời đời mà dân I-sơ-ra-ên phải giữ trải qua các thế hệ.

Lễ Phục của Tư Tế

28 Từ trong dân I-sơ-ra-ên, ngươi hãy chọn A-rôn anh ngươi và các con trai ông đến gần ngươi, để làm tư tế phục vụ Ta – A-rôn và các con trai A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. Ngươi hãy làm cho A-rôn anh ngươi một bộ lễ phục thánh thật uy nghi rực rỡ. Ngươi hãy bảo những thợ khéo, tức những người Ta đã ban cho tài mỹ thuật, may bộ lễ phục cho A-rôn, hầu biệt riêng ông ra thánh để thi hành chức vụ tư tế phục vụ Ta. Ðây là các phần của bộ lễ phục chúng sẽ may: một túi đeo ngực, một ê-phót, một áo choàng, một áo lễ dài, một mũ tế, và một đai lưng. Khi chúng may bộ lễ phục cho A-rôn anh ngươi và cho các con trai ông, để làm các tư tế phục vụ Ta, chúng sẽ dùng vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn để làm.

Ê-phót

(Xuất 39:1-7)

Chúng sẽ dùng tài năng khéo léo làm một cái ê-phót bằng vàng, với chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Nó sẽ có hai cầu vai nối liền với hai thân ê-phót ở hai mép, nhờ hai cầu vai đó, hai thân ê-phót được kết lại với nhau. Ðai để cột nó cũng phải được làm thật khéo như vậy, và cũng dùng các thứ vật liệu là vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Ngươi hãy lấy hai viên bạch bảo ngọc có vân rồi khắc vào đó tên các con trai của I-sơ-ra-ên, 10 sáu tên trên viên nầy và sáu tên còn lại trên viên kia, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. 11 Theo cách thợ chạm khắc làm con dấu, ngươi hãy cho khắc vào hai viên ngọc tên các con trai của I-sơ-ra-ên như vậy, rồi ngươi cho khảm hai viên ngọc đó vào ổ của hai khuôn vàng. 12 Ngươi hãy gắn hai khuôn vàng có hai viên ngọc đó trên hai cầu vai ê-phót, để làm hai viên ngọc tưởng nhớ các con trai của I-sơ-ra-ên. Như thế A-rôn sẽ mang tên chúng trên hai vai để tưởng nhớ chúng trước mặt Chúa. 13 Ngươi sẽ làm các khuôn vàng 14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng, xoắn lại với nhau như kiểu dây thừng, rồi ngươi hãy gắn các sợi dây chuyền ấy vào các khuôn.

Túi Ðeo Ngực

(Xuất 39:8-21)

15 Ngươi hãy bảo các thợ khéo làm một túi đeo ngực để đựng cái thẻ dùng để biết phán quyết của Ta. Ngươi hãy làm túi ấy theo như cách đã làm ê-phót; tức ngươi sẽ làm nó bằng vàng, với chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. 16 Túi ấy hình vuông, có hai lớp, chiều ngang một gang tay và chiều dọc một gang tay. 17 Ngươi hãy gắn vào túi ấy bốn hàng bửu ngọc. Hàng thứ nhất: hồng bửu ngọc, hoàng bích ngọc, và lam bích ngọc; 18 hàng thứ nhì: lam lục ngọc, lam bảo ngọc, và nguyệt quang ngọc; 19 hàng thứ ba: hoàng hồng ngọc, bạch lục ngọc, và tử bửu ngọc; 20 hàng thứ tư: lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên ngọc ấy sẽ được khảm vào những ổ của một khuôn vàng. 21 Có cả thảy mười hai viên ngọc cho mười hai tên các con trai của I-sơ-ra-ên, mỗi viên sẽ được khắc như kiểu khắc con dấu, mỗi viên có tên riêng cho mười hai chi tộc. 22 Ngươi hãy làm cho túi đeo ngực những dây chuyền bằng vàng ròng, xoắn lại với nhau như dây thừng. 23 Ngươi hãy làm cho túi đeo ngực hai khoen bằng vàng, rồi gắn hai khoen đó vào hai mép túi đeo ngực. 24 Ngươi hãy gắn hai đầu dây chuyền bằng vàng đó vào hai khoen ở hai mép của túi đeo ngực, 25 còn hai đầu kia của hai dây chuyền bằng vàng, ngươi hãy gắn vào phía trước của hai khuôn trên hai cầu vai của ê-phót. 26 Ngươi cũng hãy làm hai khoen bằng vàng, rồi gắn vào hai mép, bên lớp trong của túi đeo ngực, tức sát với ê-phót. 27 Ngươi hãy làm hai khoen vàng khác, rồi gắn vào mặt dưới phía trước của hai cầu vai ê-phót, chỗ giáp mối, bên trên dải nịt vai của ê-phót. 28 Người ta sẽ lấy một rẻo vải xanh dương buộc các khoen vàng của túi đeo ngực với các khoen vàng của ê-phót lại với nhau, để túi đeo ngực không rời khỏi ê-phót. 29 Như thế A-rôn sẽ mang tên các con trai của I-sơ-ra-ên trên mặt túi đeo ngực có đựng thẻ dùng để biết phán quyết của Ta bên tim mình, để mỗi khi ông vào Nơi Thánh, chúng sẽ được nhớ đến trước mặt Chúa luôn luôn. 30 Ngươi hãy để vào trong túi đeo ngực ấy các thẻ U-rim và Thum-mim, hầu có thể biết phán quyết của Ta. Các thẻ ấy phải ở bên tim A-rôn mỗi khi ông vào chầu trước mặt Chúa. Như thế A-rôn sẽ mang thẻ dùng để biết phán quyết của Ta cho dân I-sơ-ra-ên bên tim mình trước mặt Chúa luôn luôn.

Áo Choàng và Các Món Ðồ Thánh

(Xuất 39:22-26; 30-31)

31 Ngươi hãy may một chiếc áo choàng làm toàn vải xanh dương để mặc bên dưới ê-phót. 32 Ở giữa áo ấy sẽ khoét một lỗ làm cổ để chui đầu vào như áo giáp; xung quanh cổ sẽ được dệt viền lại thật chắc để khỏi rách. 33 Phía dưới lai áo ngươi hãy làm những trái lựu bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm, xen kẽ với những chuông nhỏ bằng vàng gắn quanh lai áo. 34 Cứ một chuông nhỏ bằng vàng thì tới một quả lựu, một chuông nhỏ bằng vàng rồi một quả lựu, cứ thế mà gắn quanh hết lai áo. 35 A-rôn sẽ mặc áo ấy mỗi khi hành lễ. Người ta sẽ nghe tiếng chuông reo mỗi khi ông vào Nơi Thánh trước mặt Chúa, hay khi ông từ nơi ấy đi ra, như thế ông sẽ khỏi phải chết.

36 Ngươi hãy làm một thẻ bằng vàng ròng, rồi khắc trên đó, như kiểu khắc con dấu, những chữ sau đây, “Thánh cho Chúa.” 37 Ngươi hãy buộc thẻ đó trên mũ tế bằng một sợi dây làm bằng chỉ xanh dương; thẻ đó phải được buộc vào phía trước mũ tế. 38 Thẻ đó sẽ ở trên trán A-rôn, và A-rôn sẽ mang tội lỗi liên quan đến của lễ thánh, tức tất cả của lễ dân I-sơ-ra-ên đã biệt riêng ra thánh để đem dâng. Thẻ đó luôn luôn ở trên trán A-rôn, hầu chúng có thể được Chúa đoái nhận.

39 Ngươi hãy dệt một áo lễ dài bằng chỉ gai mịn. Ngươi hãy làm một chiếc mũ tế bằng chỉ gai mịn. Ngươi hãy nhờ thợ thêu đan làm một đai lưng.

Lễ Phục cho Các Con A-rôn

(Xuất 39:27-29)

40 Về các con trai A-rôn, ngươi hãy may các áo lễ dài, các đai lưng, và các mũ tế cho chúng, để chúng cũng được vẻ uy nghi rực rỡ. 41 Ngươi hãy cho A-rôn anh ngươi và các con trai ông mặc các lễ phục ấy. Ngươi hãy xức dầu cho chúng, phong chức cho chúng, và biệt riêng chúng ra thánh để làm các tư tế phục vụ Ta. 42 Ngươi hãy may những quần đùi bằng vải gai để chúng khỏi bị hở hang. Các quần đó sẽ dài từ ngang lưng đến bắp đùi. 43 A-rôn và các con trai ông sẽ mặc các bộ lễ phục đó mỗi khi sắp vào Lều Hội Kiến, hay khi đến gần bàn thờ để hành lễ trong Nơi Thánh, hầu chúng khỏi mắc tội mà phải chết. Ðây là một luật lệ muôn đời cho A-rôn và dòng dõi ông.

Phong Chức cho Các Tư Tế

(Lê 8:1-36)

29 Ðây là những điều ngươi sẽ làm để biệt riêng chúng ra thánh, hầu chúng sẽ làm những tư tế phục vụ Ta. Hãy bắt một con bò tơ và hai con chiên đực vẹn toàn, cùng với bánh mì không men, bánh ngọt làm bằng bột không men nhồi dầu, và bánh tráng không men thoa dầu. Ngươi hãy lấy bột lúa mì thượng hạng làm các bánh ấy. Ngươi sẽ để các bánh ấy vào một cái rổ, rồi bưng rổ bánh ấy đến dâng, cùng với con bò tơ và hai con chiên đực.

Ngươi hãy đem A-rôn và các con trai ông đến cửa Lều Hội Kiến, rồi dùng nước thanh tẩy chúng. Sau đó ngươi hãy lấy bộ lễ phục mặc cho A-rôn; đó là áo lễ dài, áo choàng dưới ê-phót, ê-phót, túi đeo ngực, rồi ngươi hãy lấy đai của ê-phót đã được thêu đan mỹ thuật thắt cho ông. Ngươi hãy đội mũ tế lên đầu ông, rồi gắn thẻ thánh trên mũ tế. Ðoạn ngươi hãy lấy dầu dùng cho phép xức dầu đổ lên đầu ông và xức dầu cho ông.

Sau đó ngươi hãy đem các con trai ông đến, mặc áo lễ cho chúng. Ngươi hãy lấy đai lưng thắt vào cho A-rôn và các con trai ông, rồi lấy mũ đội lên đầu chúng. Như thế chức tư tế sẽ thuộc về chúng, và đó là một luật muôn đời. Ngươi sẽ phong chức cho A-rôn và các con trai ông như vậy.

10 Ngươi sẽ dắt một con bò đến trước Lều Hội Kiến. A-rôn và các con trai ông sẽ đặt tay chúng trên đầu con bò ấy, 11 rồi ngươi sẽ giết con bò ấy trước mặt Chúa, trước cửa Lều Hội Kiến. 12 Ngươi sẽ lấy một ít máu con bò, dùng ngón tay bôi trên các sừng bàn thờ. Tất cả máu còn lại ngươi hãy đổ xuống nơi chân bàn thờ. 13 Ngươi sẽ lấy tất cả lớp mỡ bọc bộ lòng, lớp mỡ dính với lá gan, hai trái cật và lớp mỡ bọc hai trái cật, đem thiêu trên bàn thờ để trở thành khói thơm. 14 Nhưng thịt con bò, da nó, và phân nó, ngươi hãy đem ra ngoài doanh trại, rồi dùng lửa thiêu rụi chúng. Ðó là của lễ chuộc tội.

15 Kế đến ngươi hãy bắt một trong hai con chiên đực; A-rôn và các con trai ông sẽ đặt tay trên đầu con chiên ấy. 16 Ngươi sẽ giết con chiên ấy, rồi lấy máu nó rảy chung quanh bàn thờ. 17 Ðoạn ngươi sẽ chặt con chiên ấy ra từng mảnh, đem bộ lòng và bốn chân nó rửa sạch, xong sắp tất cả những mảnh thịt và đầu nó 18 trên bàn thờ, rồi thiêu rụi cả con chiên ấy thành khói. Ðó là của lễ thiêu dâng lên Chúa, một của lễ có mùi thơm, dùng lửa dâng lên Chúa.

19 Ngươi sẽ bắt con chiên đực còn lại. A-rôn và các con trai ông sẽ đặt tay chúng trên đầu con chiên ấy. 20 Ngươi sẽ giết con chiên ấy, rồi lấy một ít máu bôi vào trái tai phải của A-rôn, trái tai phải của các con trai ông, ngón cái tay phải của chúng, và ngón cái chân phải của chúng. Rồi ngươi lấy máu còn lại rảy chung quanh bàn thờ. 21 Ðoạn ngươi hãy lấy một ít máu trên bàn thờ và một ít dầu dùng cho phép xức dầu rảy chúng trên A-rôn và trên bộ lễ phục của ông, trên các con trai ông và trên các bộ lễ phục của chúng. Như vậy ông và lễ phục của ông cùng các con trai ông và lễ phục của chúng sẽ trở nên thánh.

22 Ngươi hãy lấy mỡ của con chiên đực, gồm cái đuôi luôn với mỡ dính trong đuôi, lớp mỡ bọc bộ lòng, lớp mỡ dính với lá gan, hai trái cật với lớp mỡ bọc hai trái cật, cái đùi phải của nó (vì đó là con chiên đực được dâng trong lễ tấn phong), 23 một ổ bánh mì, một cái bánh ngọt có dầu, và một cái bánh tráng trong rổ đựng bánh không men để trước mặt Chúa. 24 Ngươi hãy để tất cả những món đó trên hai bàn tay A-rôn và trên hai bàn tay các con trai ông, rồi ngươi bảo chúng giơ cao lên làm của lễ kính dâng lên trước mặt Chúa. 25 Ðoạn ngươi hãy lấy các món ấy từ tay chúng, đem đặt trên bàn thờ để làm một của lễ thiêu, rồi thiêu chúng thành khói có mùi thơm trước mặt Chúa. Ðó là của lễ dùng lửa dâng lên Chúa.

26 Ngươi hãy lấy cái ức của con chiên dùng cho lễ tấn phong A-rôn giơ cao lên làm của lễ kính dâng trước mặt Chúa, rồi phần đó sẽ thuộc về ngươi. 27 Ngươi hãy biệt riêng ra thánh cái ức đã được giơ cao lên làm của lễ kính dâng, và cái đùi của con chiên dùng cho lễ tấn phong đã được giơ cao lên làm của lễ kính dâng. Các phần đó sẽ thuộc về A-rôn và các con trai ông. 28 Sự chia phần của tế lễ cho A-rôn và các con cháu ông sau nầy sẽ là một thông lệ muôn đời cho dân I-sơ-ra-ên, vì đó là của lễ chúng đã dâng lên Ta.[am] Mỗi khi dân I-sơ-ra-ên đem dâng các của lễ cầu an lên Chúa, chúng phải hiểu rằng một phần trong các của dâng sau đó sẽ thuộc về các tư tế, vì đó là của lễ chúng đã dâng lên Ta rồi.

29 Bộ lễ phục thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho các con cháu ông đến sau ông. Chúng sẽ mặc bộ lễ phục đó khi nhận phép xức dầu và khi được phong chức. 30 Con cháu nào của ông khi được làm tư tế thay thế chức vụ ông sẽ được mặc bộ lễ phục đó bảy ngày, khi đi vào trong Lều Hội Kiến để thi hành chức vụ trong Nơi Thánh.

31 Ngươi hãy lấy thịt con chiên đực đã dâng trong lễ tấn phong đem nấu chín trong Nơi Thánh, 32 rồi A-rôn và các con trai ông sẽ ăn thịt đó và các bánh trong rổ, trước cửa vào Lều Hội Kiến. 33 Chính chúng phải ăn các thực phẩm đã dâng lên để chuộc tội, phong chức, và biệt riêng chúng ra thánh, nhưng không ai khác được ăn các món đó, bởi vì chúng đã thành vật thánh rồi. 34 Nếu thịt con vật hiến tế dùng cho lễ tấn phong hay bánh đã dâng còn thừa lại đến sáng hôm sau, ngươi phải đem thiêu tất cả những gì còn lại đó trong lửa. Không ai được phép ăn những món ấy, vì chúng là những vật thánh.

35 Ðó là những điều ngươi phải làm cho A-rôn và các con trai ông, như Ta đã truyền cho ngươi. Ngươi phải làm lễ tấn phong chúng trong bảy ngày. 36 Cứ mỗi ngày ngươi sẽ dâng một con bò đực làm của lễ chuộc tội. Ngươi cũng hãy dâng một của lễ chuộc tội cho bàn thờ. Ngươi phải chuộc tội cho bàn thờ, xức dầu cho bàn thờ, và biệt riêng bàn thờ ra thánh. 37 Liên tục trong bảy ngày, ngươi sẽ dâng lễ chuộc tội cho bàn thờ, biệt riêng nó ra thánh, rồi bàn thờ sẽ thành vật chí thánh; bất cứ những gì chạm vào bàn thờ đều sẽ trở thành thánh.

Của Lễ Dâng Hằng Ngày

(Dân 28:3-8)

38 Ðây là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ thường xuyên mỗi ngày: hai con chiên một tuổi. 39 Một con ngươi sẽ dâng vào buổi sáng, còn con kia ngươi sẽ dâng vào chiều tối. 40 Cùng với con chiên thứ nhất, ngươi sẽ dâng hai lít[an] bột thượng hạng, trộn với một lít[ao] dầu ép ra từ trái ô-liu, và một lít[ap] rượu nho để làm của lễ quán.[aq]

41 Còn con chiên kia ngươi sẽ dâng vào chiều tối. Cùng dâng với nó là một của lễ chay và một của lễ quán giống như buổi sáng, để làm một mùi thơm dùng lửa dâng lên Chúa. 42 Ðó là của lễ thiêu dâng lên thường xuyên, trải qua các đời, trước cửa vào Lều Hội Kiến trước mặt Chúa, nơi Ta sẽ gặp các ngươi và nói chuyện với ngươi. 43 Ta sẽ gặp dân I-sơ-ra-ên tại đó, và vinh quang Ta sẽ làm nơi đó trở nên thánh. 44 Ta sẽ biệt riêng ra thánh Lều Hội Kiến và bàn thờ. Ta cũng sẽ biệt riêng ra thánh A-rôn và các con trai ông, để làm những tư tế phục vụ Ta. 45 Ta sẽ ngự giữa dân I-sơ-ra-ên, và Ta sẽ làm Thần[ar] của chúng. 46 Chúng sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng, Ðấng đã đem chúng ra khỏi xứ Ai-cập để Ta ngự giữa chúng. Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng.

Bàn Thờ Dâng Hương

(Xuất 37:25-28)

30 Ngươi hãy làm một bàn thờ để dâng hương trên đó. Ngươi hãy làm bàn thờ ấy bằng gỗ si-tim. Bàn thờ ấy sẽ có chiều ngang nửa mét, chiều dọc nửa mét, tức hình vuông, và cao một mét.[as] Các sừng ở bốn góc bàn thờ phải liền một khối với bàn thờ. Ngươi hãy lấy vàng ròng bọc kín trên mặt, bốn mặt chung quanh, và các sừng của bàn thờ. Ngươi hãy làm một đường viền bằng vàng quanh bàn thờ. Ngươi hãy làm hai khoen bằng vàng, gắn vào hai bên, ở dưới đường viền. Ngươi hãy làm như thế cho mỗi bên của hai bên hông bàn thờ, để người ta xỏ các đòn khiêng vào khiêng nó. Ngươi sẽ làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi lấy vàng bọc chúng lại. Ngươi hãy để bàn thờ ấy phía trước bức màn che Rương Giao Ước, tức trước Nắp Thi Ân trên Giao Ước, nơi Ta sẽ gặp ngươi.

Mỗi buổi sáng A-rôn sẽ dâng hương thơm trên bàn thờ đó. Sau khi ông chăm sóc cây đèn, ông sẽ dâng hương trên bàn thờ ấy. Lúc chiều tối, sau khi A-rôn thắp đèn, ông cũng sẽ dâng hương trên bàn thờ ấy. Ðó là sự dâng hương đều đặn mỗi ngày trước mặt Chúa trải qua các đời.

Ngươi không được dâng bất cứ thứ hương nào không phải là hương thánh trên bàn thờ đó. Ngươi không được dâng của lễ thiêu hay của lễ chay trên đó. Ngươi cũng không được rưới của lễ quán trên đó. 10 Mỗi năm một lần A-rôn sẽ cử hành nghi thức chuộc tội trên các sừng của bàn thờ. Trải qua các đời, mỗi năm một lần, tư tế sẽ cử hành nghi thức chuộc tội cho bàn thờ bằng cách dùng máu của con vật hiến tế dâng trong lễ chuộc tội. Bàn thờ ấy là vật cực thánh cho Chúa.”

Thuế Thân cho Ðền Tạm

11 Chúa phán với Môi-se, 12 “Khi ngươi thực hiện việc thống kê dân số cho dân I-sơ-ra-ên; lúc ghi danh, mỗi người sẽ đóng cho Chúa một món tiền chuộc mạng, hầu sẽ không có ôn dịch nào xảy ra khi thực hiện việc thống kê. 13 Ðây là số tiền mỗi người dân đến đăng bạ sẽ phải đóng: nửa sê-ken[at] theo cân lượng của Nơi Thánh (một sê-ken bằng hai mươi ghê-ra[au]); nửa sê-ken đó là tiền cúng hiến lên Chúa. 14 Bất cứ ai đến đăng bạ, từ hai mươi tuổi trở lên, đều cúng hiến số tiền ấy lên Chúa. 15 Người giàu sẽ không đóng hơn, và người nghèo sẽ không đóng thiếu số tiền nửa sê-ken ấy. Ðó là tiền mỗi người sẽ cúng hiến lên Chúa, để làm tiền chuộc mạng cho mình. 16 Ngươi sẽ lấy tiền chuộc mạng ấy từ dân I-sơ-ra-ên, và biệt riêng nó ra, để dùng vào việc phục vụ trong Lều Hội Kiến. Trước mặt Chúa, số tiền ấy sẽ là một kỷ niệm cho dân I-sơ-ra-ên nhớ rằng các ngươi đã đóng tiền chuộc mạng cho mình.”

Ðỉnh Ðồng

17 Chúa phán với Môi-se, 18 “Ngươi hãy làm một cái đỉnh bằng đồng có đế bằng đồng để dùng vào việc tẩy rửa. Ngươi hãy để đỉnh ấy ở khoảng giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ, rồi ngươi sẽ đổ nước vào trong đỉnh ấy. 19 A-rôn và các con trai ông sẽ dùng nước ấy rửa tay chân. 20 Mỗi khi chúng sắp vào Lều Hội Kiến, hoặc mỗi khi chúng đến gần bàn thờ để hành lễ, tức để dùng lửa dâng của tế lễ lên Chúa; chúng phải lấy nước ấy mà tẩy rửa, để chúng khỏi phải chết. 21 Chúng phải tẩy rửa tay chân mình để chúng khỏi phải chết. Ðó là quy luật muôn đời cho chúng, tức cho A-rôn và dòng dõi ông trải qua các đời.”

Dầu Thánh

22 Chúa phán với Môi-se, 23 “Ngươi hãy lấy những hương liệu thượng hạng, gồm sáu ký[av] mộc dược lỏng, một nửa số lượng, tức ba ký[aw] hương nhục quế, ba ký hương quế thanh, 24 sáu ký quế bì, tính theo cân lượng Nơi Thánh, và bốn lít[ax] dầu ô-liu. 25 Ngươi hãy nhờ các thợ chế biến hương liệu dùng các chất liệu nầy chế biến thành một thứ dầu thánh để dùng cho phép xức dầu. Dầu đó sẽ trở thành dầu thánh. 26 Ngươi sẽ dùng dầu đó xức dầu cho Lều Hội Kiến, Rương Giao Ước, 27 bàn để bánh thánh và các đồ phụ tùng của bàn ấy, bàn thờ dâng hương, 28 bàn thờ dâng của lễ thiêu và các đồ phụ tùng của bàn thờ ấy, và đỉnh đồng với đế đỉnh. 29 Ngươi hãy biệt riêng chúng ra thánh, hầu chúng trở thành những vật chí thánh; phàm những gì chạm vào chúng đều sẽ trở nên thánh. 30 Ngươi sẽ xức dầu cho A-rôn và các con trai ông, và biệt riêng chúng ra thánh, để chúng làm các tư tế phục vụ Ta. 31 Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Ðây sẽ là dầu thánh của Ta, dùng cho phép xức dầu trải qua các đời. 32 Dầu ấy không được phép dùng để xức trên cơ thể người thường.[ay] Các ngươi không được dùng công thức đó để pha chế một thứ dầu khác tương tự như dầu ấy. Dầu ấy là dầu thánh, và các ngươi phải coi đó là một của thánh. 33 Kẻ nào chế biến một thứ dầu nào khác tương tự như dầu ấy, hoặc đem dầu ấy xức trên kẻ không xứng đáng sẽ bị khai trừ khỏi dân.’”

Hương Thánh

34 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy lấy những hương thơm, gồm tô hợp hương, loa yểm hương, và phong tử hương; ngươi hãy lấy các thứ hương thơm ấy và nhũ hương nguyên chất; mỗi thứ với cân lượng bằng nhau. 35 Ngươi hãy nhờ thợ chế hương dùng các thứ hương ấy chế biến theo nghệ thuật làm hương, để khi bỏ muối vào nó sẽ thành một thứ hương thơm tinh khiết và thánh. 36 Ngươi hãy lấy một phần sản phẩm ấy tán thành bột, rồi lấy một ít đặt phía trước Rương[az] Giao Ước trong Lều Hội Kiến, nơi Ta sẽ gặp ngươi. Bột hương ấy sẽ là vật chí thánh cho các ngươi. 37 Các ngươi không được phép dùng công thức ấy để chế biến một thứ hương tương tự dùng cho mình; đối với các ngươi, hương đó là một vật thánh, chỉ dành riêng cho Chúa. 38 Kẻ nào chế biến hương như thế để ngửi mùi thơm sẽ bị khai trừ khỏi dân.”

Bê-xanh-ên và Ô-hô-li-áp

(Xuất 35:30-36:1)

31 Chúa phán với Môi-se, “Nầy, Ta đã gọi đích danh Bê-xanh-ên con trai U-ri, cháu Hu-rơ, trong chi tộc Giu-đa. Ta đã ban cho nó đầy dẫy Thần của Ðức Chúa Trời, để nó thành một người khôn ngoan, thông minh, và có tri thức trong mọi lãnh vực của ngành chế tạo, hầu nó phác họa những tác phẩm nghệ thuật, rồi làm những đồ vật bằng vàng, bằng bạc, và bằng đồng, luôn cả việc cắt mài ngọc để khảm vào khuôn, chạm khắc gỗ, và mọi công việc đòi hỏi kỹ năng. Nầy, Ta đã chọn Ô-hô-li-áp con trai A-hi-sa-mách trong chi tộc Ðan làm người phụ tá cho nó. Ta cũng ban cho tất cả thợ làm việc với chúng lòng trí khôn ngoan để chúng thực hiện tất cả những gì Ta đã truyền cho ngươi: Lều Hội Kiến, Rương Giao Ước, Nắp Thi Ân trên rương, mọi đồ đạc trong lều, bàn để bánh thánh và mọi đồ phụ tùng cho bàn, cây đèn bằng vàng ròng và mọi đồ phụ tùng cho cây đèn, bàn thờ dâng hương, bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi đồ phụ tùng của bàn thờ, cái đỉnh cùng đế đỉnh, 10 các bộ lễ phục gồm bộ lễ phục thánh cho Tư Tế A-rôn và các bộ lễ phục cho các con trai ông để chúng mặc vào khi thi hành chức vụ tư tế, 11 dầu thánh dùng cho phép xức dầu, và hương thơm thánh cho Nơi Thánh. Chúng sẽ thực hiện mọi điều đó y như Ta đã truyền cho ngươi.”

Luật Ngày Sa-bát

12 Chúa phán với Môi-se, 13 “Chính ngươi phải nói với dân I-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát của Ta, vì đây là dấu hiệu giữa Ta và các ngươi trải qua các đời, để các ngươi biết rằng Ta, Chúa, làm cho các ngươi ra thánh. 14 Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát, vì là ngày thánh cho các ngươi. Kẻ nào làm cho ngày ấy ra uế tục sẽ bị xử tử. Kẻ nào làm bất cứ việc gì trong ngày ấy sẽ bị loại trừ khỏi dân. 15 Các ngươi sẽ làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để nghỉ ngơi và biệt riêng ra thánh cho Chúa; phàm ai làm bất cứ việc gì trong ngày Sa-bát sẽ bị xử tử. 16 Vậy dân I-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát, tuân theo luật ngày Sa-bát trải qua các đời, như một giao ước đời đời. 17 Ðó là dấu hiệu đời đời giữa Ta và dân I-sơ-ra-ên, vì Chúa đã dựng nên trời đất trong sáu ngày, đến ngày thứ bảy Ngài ngưng công việc và nghỉ ngơi.”

Hai Bảng Giao Ước

18 Khi Ðức Chúa Trời[ba] nói với Môi-se trên Núi Si-nai xong, Ngài trao cho ông hai bảng giao ước. Ðó là hai bảng bằng đá do chính ngón tay của Ðức Chúa Trời viết.

Thờ Bò Con Bằng Vàng

(Phục 9:6-29)

32 Khi dân thấy đã khá lâu mà Môi-se vẫn chưa từ trên núi xuống, dân tụ họp lại quanh A-rôn và nói với ông, “Xin ông đứng dậy, làm cho chúng tôi một vị thần,[bb] để đi trước dẫn đầu chúng tôi, vì Môi-se, người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, chúng tôi không biết đã có chuyện gì xảy ra cho ông ấy.”

A-rôn nói với họ, “Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ, con trai, và con gái các anh em đeo trên tai, rồi mang chúng đến tôi.” Vậy toàn dân gỡ những khuyên vàng họ đeo nơi tai và đem đến A-rôn. Ông lấy vàng từ các khuyên ấy, rồi dùng dụng cụ làm một cái khuôn và đúc thành tượng một con bò con. Bấy giờ họ nói, “Hỡi I-sơ-ra-ên, đây là thần của anh chị em, đấng đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập!” Khi A-rôn thấy vậy, ông dựng một bàn thờ trước tượng con bò con ấy. Ðoạn A-rôn tuyên bố rằng, “Ngày mai sẽ có lễ thờ phượng Chúa.”

Hôm sau họ thức dậy sớm và dâng những của lễ thiêu và của lễ cầu an cho con bò con ấy. Ðoạn họ ngồi xuống ăn và uống, xong rồi đứng dậy bày cuộc truy hoan.

Môi-se Cầu Thay cho Dân

Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy đi xuống ngay, vì dân ngươi, những kẻ ngươi đã đem ra khỏi xứ Ai-cập, đã bại hoại rồi. Chúng đã nhanh chóng lìa bỏ đường lối Ta truyền cho chúng. Chúng đã đúc cho mình tượng một bò con, rồi quỳ xuống lạy nó, dâng của tế lễ cho nó, và bảo, ‘Hỡi I-sơ-ra-ên, đây là thần[bc] của anh chị em, đấng đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập.’” Chúa phán với Môi-se, “Ta đã thấy dân nầy rồi. Nầy, chúng là một dân cứng cổ. 10 Bây giờ ngươi cứ để mặc Ta, hầu cơn thịnh nộ của Ta sẽ bừng lên nghịch lại chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Còn ngươi, Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.”

11 Nhưng Môi-se van nài với Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, và nói, “Lạy Chúa, tại sao Ngài nổi cơn thịnh nộ nghịch lại dân Ngài, những người Ngài đã đem ra khỏi xứ Ai-cập bằng quyền năng lớn lao và cánh tay mạnh mẽ của Ngài? 12 Tại sao Ngài để cho dân Ai-cập có cớ để nói, ‘Chính vì có ác ý mà Ngài đã đem chúng ra đi, để rồi tiêu diệt chúng trên núi, và thiêu sạch chúng khỏi mặt đất?’ Cầu xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ của Ngài. Xin Ngài đổi ý và đừng làm hại dân Ngài. 13 Xin Ngài nhớ đến Áp-ra-ham, I-sác, và I-sơ-ra-ên, tức các đầy tớ của Ngài; thể nào Ngài đã lấy chính mình Ngài mà thề với họ rằng, ‘Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông như sao trên trời, và cả vùng đất nầy mà Ta đã hứa Ta sẽ ban cho dòng dõi các ngươi, rồi chúng sẽ thừa hưởng đất ấy đến muôn đời.’”

14 Vậy Chúa đổi ý về tai họa Ngài định giáng xuống trên dân Ngài.

Môi-se Ðập Bể Hai Bảng Giao Ước

15 Bấy giờ Môi-se quay bước và đi xuống núi, hai tay ông mang hai bảng Giao Ước. Hai bảng ấy được viết cả hai mặt, mặt trước và mặt sau. 16 Hai bảng ấy là tác phẩm của Ðức Chúa Trời. Những chữ trên đó do chính Ðức Chúa Trời viết. Ngài khắc chúng trên hai bảng ấy. 17 Khi Giô-suê nghe tiếng dân reo hò, ông nói với Môi-se, “Có tiếng giao tranh trong trại.”

18 Nhưng Môi-se đáp, “Ðó không phải là âm thanh của những kẻ thắng trận, cũng không phải là âm thanh của những kẻ bại trận, nhưng là âm thanh của những kẻ truy hoan.” 19 Khi đến gần doanh trại ông thấy tượng con bò con, còn dân chúng thì đang nhảy nhót. Môi-se đùng đùng nổi giận, ông liệng hai bảng đó khỏi tay mình và đập vỡ chúng ở chân núi. 20 Ông lấy con bò con họ đã làm thiêu trong lửa, nghiền nó thành bột, rải bột ấy trên mặt nước, rồi bắt dân I-sơ-ra-ên uống nước ấy.

21 Môi-se nói với A-rôn, “Dân nầy đã làm gì anh mà anh đã khiến họ phạm một tội nặng như vậy?”

22 A-rôn đáp, “Xin chúa của tôi đừng nổi giận. Chính ngài cũng đã biết dân nầy, họ luôn có khuynh hướng xấu. 23 Họ nói với tôi, ‘Hãy làm cho chúng tôi một vị thần[bd] để đi trước dẫn đầu chúng tôi, vì Môi-se, người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, chúng tôi không biết đã có chuyện gì xảy đến cho ông ấy rồi.’ 24 Vì thế tôi nói với họ, ‘Ai có vàng, hãy gỡ nó ra.’ Vậy họ đưa vàng cho tôi, tôi thảy nó trong lửa, và nó thành ra con bò con nầy.”

25 Khi Môi-se thấy dân chúng sống quá buông tuồng, vì A-rôn đã để họ sống buông tuồng như thế, đến nỗi họ đã trở thành trò cười cho kẻ thù của họ, 26 Môi-se đến đứng nơi cổng trại và hỏi, “Ai có quyết tâm chỉ phụng thờ Chúa chăng? Ngươi ấy hãy theo tôi.” Tất cả con cháu của Lê-vi đều tụ họp quanh ông. 27 Ông nói với họ, “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy, ‘Hãy mang gươm của mình bên hông. Hãy đi tới đi lui, từ cửa lều nầy qua cửa lều khác, khắp cả doanh trại, mỗi người trong anh em hãy giết anh em mình, bạn hữu mình, và láng giềng mình.’” 28 Các con cháu Lê-vi làm y như Môi-se đã truyền cho họ. Trong ngày đó có chừng ba ngàn người trong dân đã ngã chết.

29 Môi-se nói, “Ngày nay anh em đã tự phong chức cho mình để phục vụ Chúa. Có người đã không nương tay ngay cả với con mình; có người đã không nương tay với anh em mình. Chắc chắn Ngài đã ban phước cho anh em hôm nay.”

Môi-se Cầu Thay cho Dân

30 Hôm sau Môi-se nói với dân, “Anh chị em đã phạm một tội trọng, nhưng bây giờ tôi sẽ lên gặp Chúa, may ra tôi có thể chuộc tội cho anh chị em.” 31 Vậy Môi-se trở lên với Chúa và thưa, “Hỡi ôi, dân nầy đã phạm một tội trọng. Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng. 32 Nhưng bây giờ con cầu xin Ngài tha tội cho họ, bằng không, xin Ngài xóa tên con khỏi sách Ngài đã viết đi.”

33 Chúa phán với Môi-se, “Kẻ nào phạm tội đối với Ta, Ta sẽ xóa tên nó khỏi sách của Ta. 34 Bây giờ ngươi hãy đi, hãy dẫn dân nầy đến nơi Ta đã bảo ngươi. Nầy, thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi; đến ngày Ta sửa phạt, Ta sẽ phạt chúng vì tội của chúng.”

35 Sau đó Chúa giáng một bịnh dịch trên dân, vì họ đã làm tượng con bò con, tức tượng con bò con A-rôn đã làm.

Lệnh Rời Núi Si-nai

33 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi, hãy rời khỏi nơi nầy, ngươi và dân ngươi đã đem lên khỏi xứ Ai-cập. Hãy đi đến xứ Ta đã thề với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp rằng, ‘Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất nầy.’ Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi. Ta sẽ đuổi dân Ca-na-an, dân A-mô-ri, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si ra khỏi đó. Hãy đi lên một xứ đượm sữa và mật, nhưng Ta sẽ không đi với các ngươi, kẻo Ta sẽ tiêu diệt các ngươi ở dọc đường chăng, vì các ngươi là một dân cứng cổ.”

Khi dân nghe tin chẳng lành đó, họ than khóc, và không ai đeo đồ trang sức có hình tượng nữa, bởi vì Chúa đã phán với Môi-se, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Các ngươi là một dân cứng cổ. Nếu Ta đi lên với các ngươi thì chỉ một thời gian ngắn, Ta sẽ tiêu diệt các ngươi.’ Vậy bây giờ hãy gỡ bỏ những đồ trang sức có hình tượng của các ngươi đi, may đâu Ta sẽ xét lại và sẽ quyết định phải làm gì với các ngươi.” Vì vậy dân I-sơ-ra-ên gỡ bỏ những đồ trang sức có hình tượng của họ tại Núi Hô-rếp.

Lều Hội Kiến

Môi-se lấy một cái lều đem dựng bên ngoài doanh trại, cách doanh trại một khoảng xa xa, và gọi đó là Lều Hội Kiến. Nếu ai muốn thỉnh ý Chúa, người ấy phải ra ngoài doanh trại và đến Lều Hội Kiến được dựng bên ngoài doanh trại ấy. Mỗi khi Môi-se đi ra để đến Lều ấy, toàn dân đứng dậy. Ai nấy đứng nơi cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào trong Lều thánh. Khi Môi-se đã vào trong Lều, trụ mây hạ xuống, đứng ở cửa Lều, và Chúa nói chuyện với Môi-se. 10 Khi dân thấy trụ mây đứng ở cửa Lều, mọi người đứng dậy, rồi sấp mình xuống thờ lạy nơi cửa lều mình. 11 Ðó là cách Chúa nói chuyện với Môi-se, mặt đối mặt, như hai người bạn nói chuyện với nhau. Sau đó ông trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông, Giô-suê con của Nun, thì không rời Lều ấy.

Môi-se Cầu Xin CHÚA

12 Môi-se thưa với Chúa, “Lạy Chúa, Ngài đã phán với con, ‘Hãy đem dân nầy đi,’ nhưng Ngài không cho con biết Ngài sẽ sai ai đi với con. Hơn nữa Ngài đã phán, ‘Ta biết đích danh ngươi và ngươi được ơn trước mặt Ta.’ 13 Bây giờ nếu con được ơn trước mặt Ngài, xin dạy con các đường lối Ngài, để con được biết Ngài hơn và được ơn trước mặt Ngài hơn. Ngoài ra con xin Ngài luôn xem dân nầy là dân Ngài.”

14 Ngài phán, “Chính Ta sẽ đi với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.”

15 Ông thưa với Ngài, “Nếu chính Ngài không đi với chúng con, xin đừng đem chúng con lên khỏi nơi đây. 16 Vì làm sao người ta biết được con và dân Ngài được ơn trước mặt Ngài? Há chẳng phải Ngài đi với chúng con sao? Chỉ như thế, chúng con, tức con và dân Ngài, mới khác biệt với mọi dân khác trên mặt đất.”

17 Chúa phán với Môi-se, “Ta sẽ làm mọi điều ngươi cầu xin, vì ngươi đã được ơn trước mặt Ta, và Ta biết đích danh ngươi.”

18 Môi-se thưa, “Con cầu xin Ngài cho con được chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.”

19 Ngài đáp, “Ta sẽ thể hiện hoàn toàn vẻ thiện mỹ của Ta ngang qua trước mặt ngươi, và hô danh ‘Chúa’ trước mặt ngươi. Ta sẽ làm ơn cho ai Ta muốn làm ơn. Ta sẽ thương xót ai Ta muốn thương xót. 20 Nhưng,” Ngài phán, “ngươi không thể thấy mặt Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.” 21 Chúa lại phán tiếp, “Nầy, có một chỗ gần Ta, và ngươi sẽ đứng trên vầng đá. 22 Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, Ta sẽ lấy tay Ta che ngươi lại, cho đến khi Ta qua khỏi. 23 Sau đó Ta sẽ rút tay Ta, bấy giờ ngươi sẽ thấy sau lưng Ta, nhưng mặt Ta thì ngươi không thể thấy.”

Hai Bảng Giao Ước Mới

(Phục 10:1-5)

34 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy làm hai bảng đá giống như hai bảng trước, để Ta sẽ viết trên đó những lời giống như hai bảng đá mà ngươi đã đập vỡ. Ðến sáng mai ngươi phải có sẵn. Sáng mai ngươi hãy lên Núi Si-nai, lên tận đỉnh núi, rồi trình diện Ta tại đó. Không ai được lên núi với ngươi, cũng không ai lảng vảng bất cứ nơi nào trên núi; ngay cả chiên, dê, bò, lừa đều không được gặm cỏ gần núi.” Vậy Môi-se đục hai bảng đá giống như hai bảng trước. Sáng hôm sau ông dậy sớm và lên Núi Si-nai như Chúa đã truyền cho ông; hai tay ông mang hai bảng đá. Chúa ngự xuống trong trụ mây, đứng với ông tại đó, và hô danh “Chúa.” Chúa đi qua trước mặt ông và hô:

Chúa! Chúa! Ðức Chúa Trời thương xót và đầy ơn,
Chậm giận, chan chứa tình thương, và chân thật,[be]
Thương ai thương đến ngàn đời,
Tha thứ tội ác, vi phạm, và tội lỗi,
Nhưng không kể kẻ có tội là vô tội;
Do tội của ông bà cha mẹ mà con cháu bị vạ lây đến ba bốn đời.”

Môi-se vội vàng cúi đầu và sấp mình xuống đất thờ lạy Ngài. Ông nói, “Lạy Chúa, nếu bây giờ con được ơn trước mặt Ngài, cầu xin Chúa đi với chúng con. Dù dân nầy là một dân cứng cổ, con cầu xin Ngài tha thứ tội ác và tội lỗi của chúng con, và xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài.”

Tái Lập Giao Ước

(Xuất 23:14-19; Phục 7:1-5; 16:1-17)

10 Ngài phán, “Nầy, Ta lập một giao ước. Trước mặt toàn dân ngươi Ta sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề thực hiện cho một dân nào trên khắp mặt đất. Tất cả các dân chung quanh ngươi sẽ thấy công việc của Chúa, vì đó là một việc kinh khủng Ta sẽ làm cho ngươi. 11 Hãy cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền cho ngươi ngày nay. Nầy, Ta sẽ đuổi đi trước mặt ngươi dân A-mô-ri, dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si. 12 Khá cẩn thận, đừng lập giao ước gì với các dân trong xứ mà ngươi sẽ đến sống, bằng không nó sẽ thành cái bẫy ở giữa ngươi. 13 Nhưng ngươi hãy phá đổ các bàn thờ của chúng, đập nát các trụ thờ bằng đá của chúng, và đốn hạ các cột thờ nữ thần của chúng, 14 vì ngươi sẽ không thờ một thần nào khác, bởi vì Chúa, danh Ngài là Ðấng Ghen Tương, là một Thần[bf] ghen tương. 15 Ngươi sẽ không lập giao ước với các dân trong xứ, kẻo khi chúng làm điếm với các thần của chúng và dâng của tế lễ cho các thần của chúng, chúng sẽ mời ngươi, rồi ngươi sẽ ăn của cúng ấy. 16 Hoặc ngươi sẽ cưới các con gái chúng làm vợ cho các con trai ngươi, rồi khi các con gái chúng làm điếm với các thần của chúng, chúng sẽ lôi cuốn các con trai ngươi cùng làm điếm với các thần của chúng.

17 Ngươi chớ đúc các tượng thần để thờ.

18 Ngươi sẽ giữ Lễ Bánh Không Men. Ngươi sẽ ăn bánh không men bảy ngày, như Ta đã truyền cho ngươi, theo thời điểm đã ấn định trong tháng giêng;[bg] vì trong tháng giêng ngươi đã ra khỏi Ai-cập.

19 Tất cả con đầu lòng sẽ thuộc về Ta. Mọi con đực trong bầy súc vật ngươi, tức mọi con đực đầu lòng của bò hay chiên cũng vậy. 20 Mỗi con đầu lòng của lừa, ngươi sẽ được chuộc lại bằng một con chiên; còn nếu ngươi không chuộc nó lại, ngươi phải bẻ gãy cổ nó đi. Tất cả các ngươi sẽ chuộc lại con đầu lòng của mình.

Không ai đi tay không đến ra mắt Ta.

21 Ngươi sẽ làm việc sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù ngay cả mùa cày cấy hay mùa gặt hái ngươi cũng phải nghỉ.

22 Ngươi phải giữ Lễ Các Tuần và dâng hoa lợi đầu mùa gặt lúa mì. Ngươi phải giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm.[bh]

23 Mỗi năm ba lần tất cả người nam của ngươi phải ra mắt Chúa Ðức Chúa Trời,[bi] Thần[bj] của I-sơ-ra-ên. 24 Vì Ta sẽ đuổi các dân đi trước mặt ngươi và mở rộng bờ cõi ngươi. Không ai sẽ muốn lấy đất của ngươi khi ngươi đi lên ra mắt Chúa, Ðức Chúa Trời ngươi, mỗi năm ba lần.

25 Ngươi sẽ không được dâng máu chung với men. Những của lễ dâng trong Lễ Vượt Qua sẽ không được để lại đến sáng hôm sau.

26 Ngươi hãy mang những hoa quả đầu mùa tốt nhất của ruộng vườn ngươi đến nhà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi.

Ngươi không được nấu thịt dê con trong sữa của mẹ nó.”

27 Chúa phán với Môi-se, “Hãy ghi lại những lời nầy, vì căn cứ theo những lời nầy Ta đã lập một giao ước với ngươi và với I-sơ-ra-ên.”

28 Ông ở đó với Chúa bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Ông không ăn bánh hay uống nước. Ngài[bk] viết trên hai bảng đá những lời của giao ước, tức Mười Ðiều Răn.

Môi-se Xuống Núi

29 Môi-se từ Núi Si-nai đi xuống. Ông đi xuống núi; hai tay ôm hai bảng giao ước. Môi-se không biết rằng vì đã hầu chuyện với Ðức Chúa Trời mà da mặt ông đã trở nên sáng rực. 30 Khi A-rôn và toàn dân I-sơ-ra-ên trông thấy Môi-se, và nầy, da mặt ông sáng rực, họ sợ và không dám lại gần ông.

Footnotes

  1. Xuất Hành 19:1 nt: vào chính ngày ấy (Câu nầy cũng có thể hiểu: Sau hai tháng họ rời Ai-cập, bắt đầu tháng thứ ba..)
  2. Xuất Hành 20:5 nt: El
  3. Xuất Hành 20:16 ctd: người khác (tương tự trong câu 17)
  4. Xuất Hành 21:6 ctd: Ðức Chúa Trời
  5. Xuất Hành 21:32 nt: 30 sê-ken bạc
  6. Xuất Hành 22:8 ctd: Ðức Chúa Trời (tương tự ở câu 9)
  7. Xuất Hành 23:15 Tháng A-bíp là tháng giêng theo niên lịch Do-thái, khoảng giữa tháng ba và tháng tư dương lịch.
  8. Xuất Hành 23:17 nt: Adonai Yahweh
  9. Xuất Hành 23:28 ctd: ôn dịch, (trong Hebrew không rõ nghĩa)
  10. Xuất Hành 23:31 ctd: Biển Sậy
  11. Xuất Hành 25:5 Một thứ gỗ qúy ở vùng đó thời bấy giờ
  12. Xuất Hành 25:10 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit, cao 1,5 cubit. Một cubit dài khoảng nửa mét
  13. Xuất Hành 25:17 nt: kapporeth, có hai nghĩa: che đậy và chuộc tội
  14. Xuất Hành 25:17 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit
  15. Xuất Hành 25:19 Hebrew: cherub (số ít), cherubim (số nhiều)
  16. Xuất Hành 25:23 nt: dài 2 cubits, rộng 1 cubit, cao 1,5 cubit
  17. Xuất Hành 25:29 ctd: dùng vào việc dâng rượu
  18. Xuất Hành 25:39 nt: một ta-lâng
  19. Xuất Hành 26:2 nt: dài 28 cubits, rộng 4 cubits. Mỗi cubit dài khoảng nửa thước tây
  20. Xuất Hành 26:8 nt: dài 30 cubits, rộng 4 cubits
  21. Xuất Hành 26:13 nt: một cubit
  22. Xuất Hành 26:13 nt: một cubit
  23. Xuất Hành 26:14 Nguyên liệu làm tấm bạt thứ hai nầy trong Hebrew trong rõ nghĩa; có thể là da dê, cũng có thể là da cá heo.
  24. Xuất Hành 26:16 nt: dài 10 cubits và rộng một cubit rưỡi
  25. Xuất Hành 26:24 ctd: Hai tấm ván góc ghép lại với nhau thì để hở ra bên dưới, nhưng trên đầu phải đâu lại với nhau ở khoen thứ nhất
  26. Xuất Hành 27:1 nt: dọc 5 cubits, ngang 5 cubits, cao 3 cubits
  27. Xuất Hành 27:8 nt: Chúng
  28. Xuất Hành 27:9 nt: Ngươi hãy làm sân Ðền Tạm
  29. Xuất Hành 27:9 nt: 100 cubits
  30. Xuất Hành 27:11 nt: 100 cubits
  31. Xuất Hành 27:12 nt: 50 cubits
  32. Xuất Hành 27:13 nt: 50 cubits
  33. Xuất Hành 27:14 nt: 15 cubits
  34. Xuất Hành 27:15 nt: 15 cubits
  35. Xuất Hành 27:16 nt: 20 cubits
  36. Xuất Hành 27:18 nt: 100 cubits, 50 cubits, 5 cubits
  37. Xuất Hành 27:21 tức trong Ðền Tạm hay Lều Tạm
  38. Xuất Hành 27:21 Trong nguyên tác chỉ ghi “Giao Ước.” Chữ “Rương” được hiểu ngầm.
  39. Xuất Hành 29:28 nt: của lễ nâng cao lên để dâng
  40. Xuất Hành 29:40 nt: 1/10 thùng (ê-pha = 22 lít)
  41. Xuất Hành 29:40 nt: 1/4 hin (hin = 4 lít)
  42. Xuất Hành 29:40 nt: 1/4 hin (hin = 4 lít)
  43. Xuất Hành 29:40 Rượu tế đem đổ ra trước mặt Chúa chứ không uống
  44. Xuất Hành 29:45 ctd: Ðức Chúa Trời
  45. Xuất Hành 30:2 nt: ngang 1 cubit, dọc 1 cubit, cao 2 cubits
  46. Xuất Hành 30:13 nt: sê-ken (một sê-ken = 11,5 grams). Chúng ta không biết số tiền ấy tương đương với bao nhiêu ngày nay
  47. Xuất Hành 30:13 nt: gerah (một gerah ước chừng 0.6 gram)
  48. Xuất Hành 30:23 nt: 500 sê-ken
  49. Xuất Hành 30:23 nt: 250 sê-ken
  50. Xuất Hành 30:24 nt: 1 hin
  51. Xuất Hành 30:32 ctd: như dầu thường
  52. Xuất Hành 30:36 Trong nguyên tác chỉ ghi “Giao Ước.” Chữ “Rương” được hiểu ngầm.
  53. Xuất Hành 31:18 nt: Ngài
  54. Xuất Hành 32:1 nt: Elohim
  55. Xuất Hành 32:8 nt: Elohim
  56. Xuất Hành 32:23 nt: Elohim
  57. Xuất Hành 34:6 ctd: thành tín
  58. Xuất Hành 34:14 ctd: Ðức Chúa Trời
  59. Xuất Hành 34:18 nt: tháng A-bíp
  60. Xuất Hành 34:22 cuối năm nông nghiệp, vào mùa thu mỗi năm
  61. Xuất Hành 34:23 nt: Adonai Yahweh
  62. Xuất Hành 34:23 nt: Elohim
  63. Xuất Hành 34:28 ctd: Ông (chỉ về Môi-se)