Revised Common Lectionary (Semicontinuous)
105 Lời Ngài là ngọn đèn cho chân con,
Là ánh sáng cho đường lối con.
106 Con đã hứa nguyện và con sẽ giữ lời hứa nguyện ấy;
Con sẽ vâng giữ các mạng lịnh công chính của Ngài.
107 Con đã bị khốn đốn nặng nề;
Chúa ôi, xin phục hồi sinh lực cho con, theo như lời Ngài.
108 Chúa ôi, xin đoái nhậm của lễ cảm tạ của miệng con,
Xin dạy dỗ con các mạng lịnh Ngài.
109 Mạng sống con thường như chỉ mành treo chuông,[a]
Dầu vậy con vẫn không quên luật pháp Ngài.
110 Kẻ ác đã gài bẫy để hại con,
Nhưng con không rời khỏi giới luật Ngài.
111 Chứng ngôn Ngài là di sản con sẽ thừa hưởng mãi mãi,
Vì chứng ngôn ấy là niềm vui của lòng con.
112 Con quyết tâm thi hành luật lệ Ngài mãi mãi,
Cho đến tận cùng.
Giô-si-a Cải Cách
(2 Sử 34:3-7, 29-33; 35:1-26)
23 Bấy giờ vua cho mời tất cả các vị trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến gặp ông. 2 Vua đi lên Ðền Thờ Chúa; đi theo vua có mọi người Giu-đa, toàn dân Giê-ru-sa-lem, các tư tế, các vị tiên tri, và mọi người, cả nhỏ lẫn lớn. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong Sách Giao Ước đã tìm được trong Ðền Thờ Chúa. 3 Vua đứng bên cây trụ và lập một giao ước trước mặt Chúa, quyết tâm bước theo Chúa, gìn giữ các điều răn, quy tắc, và luật lệ của Ngài cách hết lòng và hết linh hồn mình. Vua cam kết sẽ thực hiện những điều khoản của giao ước đã ghi trong sách ấy. Toàn dân đồng tuyên thệ sẽ thực hiện giao ước ấy.
4 Vua ra lịnh cho Thượng Tế Hinh-ki-a, những vị tư tế bậc nhì, và những người canh cửa Ðền Thờ phải đem ra khỏi Ðền Thờ tất cả những vật dụng đã làm cho Thần Ba-anh, cho Nữ Thần A-sê-ra, và cho tất cả các thần linh trên không trung. Ông đốt tất cả những thứ đó trong một cánh đồng ở Thung Lũng Kít-rôn, bên ngoài Thành Giê-ru-sa-lem, rồi cho đem tro của chúng đến Bê-tên.
5 Ông cách chức và đuổi tất cả các tư tế lo việc thờ lạy thần tượng mà các tiên vương của Giu-đa đã phong chức để dâng hương trên các tế đàn ở những nơi cao trong các thành của Giu-đa hoặc ở chung quanh Giê-ru-sa-lem. Ông cũng cách chức và đuổi đi tất cả các tư tế lo việc cúng tế Thần Ba-anh, cúng tế mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, và các thiên binh trên trời.
6 Ông cất khỏi Ðền Thờ Chúa trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông đem nó ra ngoài Thành Giê-ru-sa-lem, đến Khe Kít-rôn, đốt nó tại Khe Kít-rôn, nghiền nát nó thành bụi, rồi ném bụi nó trên mồ mả của thường dân.
7 Ông cũng phá hủy tất cả nhà cửa của bọn đàn ông làm điếm trong Ðền Thờ Chúa, nơi các phụ nữ dệt vải cho Nữ Thần A-sê-ra.
8 Ông trục xuất tất cả các tư tế ra khỏi các thành ở Giu-đa, rồi làm ra ô uế tất cả các tế đàn ở những nơi cao, nơi các tư tế ấy đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e Sê-ba. Ông phá hủy tất cả các tế đàn ở những nơi cao bên ngoài cổng thành, gần bên cổng Giô-suê quan thị trưởng. Các tế đàn ấy ở bên trái cổng thành.
Giữ Lễ Vượt Qua
21 Vua truyền cho toàn dân, “Hãy tổ chức Lễ Vượt Qua để nhớ ơn Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, như đã ghi trong Sách Giao Ước.” 22 Từ thời các thủ lãnh xét xử trên I-sơ-ra-ên hay trong thời các vua I-sơ-ra-ên hay trong thời các vua Giu-đa người ta chưa hề thấy một Lễ Vượt Qua nào được tổ chức trọng thể như vậy. 23 Vào năm thứ mười tám của triều đại Giô-si-a, Lễ Vượt Qua ấy đã được tổ chức trọng thể để nhớ ơn Chúa tại Giê-ru-sa-lem.
24 Ngoài ra Giô-si-a cũng diệt trừ những đồng bóng, những thầy bói, những gia thần của mỗi nhà, những hình tượng, và mọi điều gớm ghiếc đã thấy trong xứ Giu-đa và tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm như vậy để thực hiện đúng theo những lời đã viết trong sách luật pháp mà Tư Tế Hinh-ki-a đã tìm được trong Ðền Thờ Chúa. 25 Trước ông không có vua nào hướng về Chúa một cách hết lòng, hết linh hồn, và hết sức vâng theo mọi điều trong Luật Pháp của Môi-se như ông. Sau ông cũng chẳng có vua nào được như vậy.
Bửu Vật trong Bình Ðất
4 Vì vậy nhờ ơn thương xót của Ðức Chúa Trời, chúng tôi được giao cho chức vụ này, nên chúng tôi chẳng ngã lòng. 2 Ngược lại chúng tôi khước từ mọi đường lối ám muội và đáng xấu hổ. Chúng tôi không sử dụng những phương thức xảo quyệt hoặc giả mạo lời của Ðức Chúa Trời, nhưng cứ thẳng thắn trình bày chân lý và để lương tâm mọi người nhận định về chúng tôi trước mặt Ðức Chúa Trời. 3 Nếu Tin Mừng chúng tôi rao giảng bị che khuất ấy là bị che khuất đối với những kẻ đang chết mất, 4 vì thần của đời này đã làm mù tâm trí những kẻ không tin để họ không trông thấy ánh sáng của Tin Mừng đang tỏa rạng vinh quang của Ðấng Christ, là hình ảnh của Ðức Chúa Trời. 5 Vì chúng tôi chẳng giảng về chính mình nhưng giảng về Ðức Chúa Jesus Christ là Chúa, và vì cớ Ðức Chúa Jesus, chúng tôi là đầy tớ của anh chị em, 6 vì Ðức Chúa Trời là Ðấng đã phán,
“Ánh sáng hãy chiếu ra từ cõi tối tăm,”
đã chiếu sáng lòng chúng tôi, ban cho chúng tôi ánh sáng của trí tuệ để nhận biết vinh hiển của Ðức Chúa Trời đang rạng ngời trên gương mặt Ðức Chúa Jesus Christ.
7 Chúng tôi đựng bửu vật này trong những bình bằng đất để bày tỏ rằng quyền năng diệu kỳ là của Ðức Chúa Trời, chứ không phải của chúng tôi. 8 Chúng tôi bị áp lực đủ mọi mặt nhưng không bị nghiền nát, bị bối rối nhưng không hề tuyệt vọng, 9 bị bách hại nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. 10 Chúng tôi luôn mang sự chết của Ðức Chúa Jesus trong thân thể mình, để sự sống của Ðức Chúa Jesus cũng được thể hiện trong thân thể chúng tôi. 11 Dù chúng tôi đang sống, nhưng vì cớ Ðức Chúa Jesus lúc nào chúng tôi cũng sẵn sàng chết, để sự sống của Ðức Chúa Jesus được thể hiện trong thân thể sẽ chết của chúng tôi. 12 Thế thì sự chết đang hành động trong chúng tôi, nhưng sự sống đang hành động trong anh chị em.
Copyright © 2011 by Bau Dang