Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Ê-sai 34-36

Chúa Sẽ Ðoán Phạt Các Nước

34 Hỡi các nước, hãy đến gần và nghe;
Hỡi các dân, hãy chú ý!
Hỡi trái đất và mọi loài sống trên đất,
Hỡi thế gian và mọi vật ra từ thế gian,
Tất cả hãy lắng nghe;
Vì cơn giận của Chúa đang nghịch lại mọi quốc gia;
Cơn thịnh nộ của Ngài nghịch lại mọi đạo quân của họ.
Ngài muốn diệt hẳn họ,
Ngài phó họ cho sự tàn sát.
Xác người bị giết của họ sẽ bị ném ra ngoài;
Mùi hôi thối của chúng sẽ bay lên nồng nặc.
Máu người sẽ chảy lênh láng trên các núi.
Toàn thể đạo binh trên không gian sẽ tan rã;
Các tầng trời sẽ bị cuốn lại như một cuộn sách;
Tất cả các đạo binh của họ sẽ ngã xuống,
Như lá nho rơi rụng,
Như lá vả lìa cành.

Chúa Sẽ Ðoán Phạt Ê-đôm

Khi lưỡi gươm Ta đã say máu trên không gian,
Này, nó sẽ giáng xuống trên Ê-đôm,
Tức giáng xuống trên dân Ta đã định phải bị đoán phạt.
Gươm của Chúa dính đầy máu,
Mỡ bao kín lưỡi gươm,
Nào máu chiên, máu dê,
Nào mỡ bọc trái cật của các chiên đực,
Chúa có cuộc tế lễ ở Bốt-ra,
Một cuộc tàn sát lớn trong xứ Ê-đôm.
Các bò rừng sẽ ngã xuống với chúng;
Các bò tơ và các bò đực mạnh cũng vậy;
Ðất của chúng thấm đầy máu;
Bụi của chúng lẫn lộn với mỡ khắp nơi.

Chúa sẽ có một ngày báo thù,
Một năm báo trả để minh oan cho duyên cớ của Si-ôn.
Các sông suối của Ê-đôm sẽ biến thành hắc ín;
Bụi đất của nó sẽ hóa thành lưu huỳnh;
Ðất cát của nó sẽ trở nên hắc ín âm ỉ cháy,
10 Cả ngày lẫn đêm nó cháy mãi không ngừng;
Khói đen của nó cứ bay lên không dứt;
Từ thế hệ này qua thế hệ khác nó nằm đó trong cảnh đổ nát hoang tàn;
Muôn đời sẽ không ai muốn đi ngang qua đó.
11 Diều hâu và nhím sẽ chiếm lấy xứ đó;
Cú và quạ sẽ ở tại đó;
Trên xứ đó Ngài sẽ giăng một sợi dây của sự hỗn mang,
Một dây dọi của sự trống không.
12 Các nhà quý tộc của nó sẽ không còn gì để gọi là một vương quốc;
Tất cả người quyền quý của nó đều sẽ như không.

13 Gai góc sẽ mọc lên trong các lâu đài cung điện;
Gai dại và bụi gai sẽ mọc trên các thành lũy xưa kia.
Nó sẽ trở nên nơi ở của chó rừng,
Một sân chơi của đà điểu.
14 Ở đó mèo rừng sẽ đụng độ với chó sói;
Dê rừng sẽ cất tiếng gọi nhau;
Các thú vật sống về đêm sẽ nghỉ ngơi tại đó;
Chúng sẽ tìm được một nơi nghỉ ngơi thích hợp cho mình.
15 Chim cú sẽ làm tổ và đẻ trứng ở đó;
Chúng sẽ ấp trứng của chúng và ấp ủ đàn con dưới cánh;
Nơi đó diều hâu sẽ tụ lại với nhau;
Con nào cũng có đôi có cặp.

16 Hãy tìm trong sách của Chúa và đọc xem:
Không một con nào trong các con này sẽ mất;
Không con nào là không có cặp có đôi;
Vì miệng Ngài[a] đã truyền ra như vậy;
Thần của Ngài đã tụ họp chúng về.
17 Ngài đã bốc thăm định phần cho chúng;
Tay Ngài đã dùng dây đo chia phần cho chúng;
Chúng sẽ ở tại đó muôn đời;
Chúng sẽ ngụ tại đó từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Phước Hạnh của Người Ðược Cứu

35 Miền hoang dã và vùng đất khô cằn sẽ vui mừng;
Sa mạc sẽ mừng rỡ và trổ hoa như hoa hồng nở rộ.
Nó sẽ trổ hoa đầy dẫy khắp nơi;
Nó sẽ hân hoan vui mừng ca hát.
Vinh hiển của Li-băng,
Hùng vĩ của Cạt-mên,
Và rực rỡ của Sa-rôn đều được ban cho nó.
Người ta sẽ thấy vinh hiển của Chúa,
Tức sự huy hoàng của Ðức Chúa Trời chúng ta.
Hãy làm cho những cánh tay yếu đuối được mạnh mẽ,
Những đầu gối run rẩy được vững vàng.
Hãy nói với những người có lòng sợ hãi,
“Hãy mạnh mẽ lên, đừng sợ!
Này, Ðức Chúa Trời của anh chị em sẽ đến để báo thù bằng sự báo trả của Ðức Chúa Trời;
Ngài sẽ đến và cứu anh chị em.”

Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra,
Tai người điếc sẽ nghe rõ,
Bấy giờ người què sẽ nhảy như nai rừng,
Lưỡi người câm sẽ ca hát.
Vì nước đã phun lên trong đồng hoang khô hạn;
Sa mạc bây giờ đầy những suối nước trào tuôn.
Miền đất khô cằn biến thành ao hồ ngập nước;
Vùng đất khô khan đầy các suối nước tuôn dòng;
Nơi ngày trước những chó rừng nằm ngủ,
Giờ cỏ xanh, lau, sậy mọc um tùm.

Rồi ở đó người ta sẽ xây một đại lộ làm con đường di chuyển,
Và đặt tên là Ðường Thánh;
Những kẻ ô uế sẽ không được đi trên đường ấy,
Ðường ấy chỉ dành cho những người thuộc về Chúa[b] mà thôi.
Những lữ khách điên rồ sẽ không được lang thang trên đường ấy.
Sư tử sẽ không đón đường ai trên đường ấy;
Các thú dữ sẽ không đi trên đường ấy;
Chẳng ai thấy chúng lảng vảng ở đó;
Nhưng chỉ những người được cứu chuộc đi trên đường ấy.
10 Những người được Chúa cứu chuộc sẽ trở về;
Họ sẽ tiến về Si-ôn với tiếng hát vui mừng;
Niềm vui đời đời sẽ rạng ngời trên gương mặt họ,
Họ sẽ vui mừng và hớn hở,
Sầu thảm và than thở sẽ trốn mất.

Sên-na-chê-ríp Ðe Dọa Giê-ru-sa-lem

(2 Vua 18:13-27; 2 Sử 32:1-19)

36 Trong năm thứ mười bốn của triều đại Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri kéo quân đến tấn công và chiếm lấy các thành kiên cố của Giu-đa. Vua A-sy-ri sai Ráp-sa-kê dẫn một đạo quân đông đảo từ La-ki kéo đến Giê-ru-sa-lem vây đánh Ê-xê-chia. Ráp-sa-kê đứng ở đầu kênh dẫn nước của Thượng Hồ, chỗ con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện. Ê-li-a-kim con của Hinh-kia quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan ký lục, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố đi ra tiếp hắn.

Bấy giờ Ráp-sa-kê nói với họ, “Hãy về nói với Ê-xê-chia rằng, Ðại đế, vua A-sy-ri, nói thế này: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? Ta nói cho ngươi biết, ngươi tưởng chỉ dùng những lời nói suông mà có thể thay thế mưu lược và sức mạnh trong chiến tranh sao? Bây giờ ngươi tin cậy vào ai mà dám phản nghịch ta? Hãy xem, ngươi tin cậy vào Ai-cập, một cây sậy đã gãy; ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm lủng tay. Pha-ra-ôn vua Ai-cập và tất cả những ai tin cậy vào hắn đều như vậy. Nhưng nếu ngươi nói với ta rằng, ‘Chúng tôi tin cậy vào Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi.’ Nhưng đó chẳng phải là Ðấng mà những chỗ tế tự Ngài trên nơi cao và những bàn thờ Ngài đã bị Ê-xê-chia dẹp bỏ, rồi hắn bảo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi hãy đến thờ phượng Ngài trước bàn thờ này’ hay sao?

Vậy bây giờ ta muốn ngươi đánh cuộc với chủ ta, vua A-sy-ri: Ta sẽ cho ngươi hai ngàn con ngựa, nếu ngươi tìm đủ số kỵ binh để cỡi chúng. Thế thì làm sao ngươi có thể đương đầu nổi một tiểu tướng trong số các tôi tớ của chủ ta, cho dù ngươi cậy vào Ai-cập để nhờ các xe chiến mã và các kỵ binh của chúng đi nữa? 10 Há chẳng phải Chúa đã sai ta đến xứ này để hủy diệt nó sao? Chúa đã bảo ta, ‘Hãy đi lên tiến đánh xứ này và hủy diệt nó.’”

11 Bấy giờ Ê-li-a-kim, Sép-na, và Giô-a nói với Ráp-sa-kê, “Xin ngài vui lòng nói với các tôi tớ ngài bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa trong tầm tai của dân chúng đang ở trên tường thành.”

12 Nhưng Ráp-sa-kê đáp, “Há chẳng phải chủ ta sai ta đến chỉ để nói với chủ các ngươi và với các ngươi những lời này thôi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, những người sẽ ăn phân và uống nước tiểu với các ngươi sao?”

13 Ðoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn tiếng trong tiếng Giu-đa, “Hãy nghe những lời của đại đế, vua A-sy-ri. 14 Ðức vua ta phán, ‘Ðừng để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì hắn sẽ không thể giải cứu các ngươi đâu.’ 15 Cũng đừng để Ê-xê-chia khiến các ngươi tin cậy vào Chúa, mà rằng, ‘Chúa chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta. Thành này sẽ không bị rơi vào tay vua A-sy-ri.’ 16 Các ngươi đừng nghe theo Ê-xê-chia, vì vua A-sy-ri nói thế này, ‘Hãy đầu hàng ta và ra đây đầu phục ta, thì ai nấy trong các ngươi sẽ được ăn trái nho của mình, ai nấy sẽ được ăn trái vả của mình, và ai nấy sẽ được uống nước của giếng mình, 17 cho đến khi ta đem các ngươi đến một xứ giống như xứ sở các ngươi, một xứ đầy lúa gạo và rượu mới, một xứ đầy cơm bánh và vườn nho.’ 18 Chớ để Ê-xê-chia thuyết phục các ngươi rằng, ‘Chúa sẽ cứu chúng ta.’ Trong các thần của các dân, đã có thần nào giải cứu họ khỏi tay vua A-sy-ri chăng? 19 Các thần của Ha-mát và Ạt-bát đâu rồi? Các thần của Sê-phạt-va-im đâu rồi? Các thần ấy há có giải cứu Sa-ma-ri thoát khỏi tay ta chăng? 20 Há có thần nào trong tất cả các thần của các nước đã giải cứu được đất nước họ khỏi tay ta chăng? Thế thì Chúa của các ngươi há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta được sao?”

21 Nhưng họ đều im lặng và không đáp lại hắn lấy một lời, vì nhà vua đã truyền lịnh, “Ðừng trả lời hắn.”

22 Ðoạn Ê-li-a-kim con của Hinh-kia quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan ký lục, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố xé rách áo mình, rồi đến gặp Vua Ê-xê-chia, thuật lại mọi lời Ráp-sa-kê đã nói.

Cô-lô-se 2

Vì tôi muốn anh chị em biết tôi đang chiến đấu cam go cho anh chị em, cho anh chị em ở Lao-đi-xê, và cho tất cả những anh chị em chưa hề biết mặt tôi như thể nào, để lòng họ được khích lệ và gắn bó với nhau trong tình thương, hầu họ có được tất cả sự phong phú do hiểu biết một cách quả quyết, để nhận biết huyền nhiệm của Ðức Chúa Trời, là Ðấng Christ; trong Ngài, tất cả các kho tàng của khôn ngoan và tri thức được chôn giấu. Tôi nói điều nầy để không ai có thể lừa dối anh chị em bằng những luận điệu hấp dẫn. Vì tuy tôi xa cách trong thân xác, nhưng tôi vẫn hiện diện với anh chị em trong tinh thần, và tôi thật vui mừng khi thấy anh chị em có kỷ cương, và đức tin của anh chị em thật vững vàng trong Ðấng Christ.

Ðời Sống Sung Mãn trong Chúa

Vậy anh chị em đã tiếp nhận Ðức Chúa Jesus Christ làm Chúa thể nào, hãy bước đi trong Ngài thể ấy. Hãy đâm rễ, xây dựng lên trong Ngài, và vững lập trong đức tin, như anh chị em đã được dạy dỗ; anh chị em cũng hãy dồi dào trong sự tạ ơn.

Ðừng để ai trói buộc anh chị em bằng những triết lý mơ hồ và những lời giả dối rỗng tuếch dựa trên truyền thống của loài người và trên những nguyên tắc sống cơ bản của đời nầy, thay vì dựa trên Ðấng Christ. Vì trong Ngài toàn thể thần tính của Ðức Chúa Trời hiện diện trọn vẹn trong thân xác loài người, 10 và anh chị em được trở nên trọn vẹn trong Ngài, Ðấng làm đầu mọi quyền lực và quyền hành. 11 Trong Ngài anh chị em đã được cắt bì với phép cắt bì không bằng tay loài người, nhưng bằng phép cắt bì do Ðấng Christ thực hiện, để cắt bỏ bản ngã xác thịt. 12 Một khi đã được chôn với Ngài trong phép báp-têm, anh chị em cũng đã được sống lại với Ngài bởi đức tin vào quyền năng của Ðức Chúa Trời, Ðấng đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết. 13 Khi anh chị em còn chết trong tội lỗi mình và trong tình trạng không được cắt bì trên thân xác, Ðức Chúa Trời đã làm cho anh chị em được sống lại với Ðấng Christ, khi Ngài tha thứ tất cả tội lỗi chúng ta, 14 xóa bỏ hồ sơ tội trạng mà Luật Pháp đòi hỏi phải hình phạt chúng ta, và hủy bỏ nó bằng cách đóng đinh nó vào thập tự giá. 15 Ngài đã vô hiệu hóa tất cả các quyền lực và quyền hành, và Ngài đã phô bày chúng ra trước công chúng, chiến thắng chúng bằng thập tự giá.

16 Vì thế đừng để ai xét đoán anh chị em về những vấn đề liên quan đến thức ăn, thức uống, giữ các kỳ lễ, mừng trăng mới, hay giữ ngày Sa-bát. 17 Chúng chỉ là hình bóng của những gì sẽ đến, mà thực chất đã ở trong Ðấng Christ. 18 Ðừng để ai làm mất phần thưởng của anh chị em, nại cớ rằng lúc nào cũng phải tỏ ra vẻ đạo mạo khiêm nhường và thờ kính các thiên sứ; họ mải mê nói về những dị tượng họ trông thấy, rồi với tâm trí xác thịt, họ tự thổi phồng họ lên một cách vô lối. 19 Họ đã mất liên lạc với Ðầu, là Ðấng cả thân thể được nuôi dưỡng và kết chặt với nhau bằng những khớp xương và gân thịt, phát triển đúng theo sự tăng trưởng của Ðức Chúa Trời.

Cảnh Cáo về Các Giáo Sư Giả

20 Nếu anh chị em đã chết với Ðấng Christ về các nguyên tắc sống cơ bản của đời nầy, thì tại sao anh chị em lại sống như thể còn thuộc về đời nầy vậy? Tại sao anh chị em còn chấp hành các quy tắc như, 21 “Chớ đụng, chớ nếm, chớ cầm”? 22 Tất cả các quy tắc ấy đều sụp đổ khi đem ra áp dụng, vì chúng đặt nền tảng trên mệnh lệnh và sự dạy dỗ của loài người. 23 Các quy tắc ấy có vẻ như khôn ngoan khi đề cao việc khắc khổ tu thân, hạ mình, và đày đọa thân xác, nhưng chẳng có giá trị gì trong việc kiềm chế dục vọng của xác thịt.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang