M’Cheyne Bible Reading Plan
Gia đình Đa-vít
3 Đây là các con trai của Đa-vít sinh ra ở Hếp-rôn.
Con trưởng nam là Am-nôn, mẹ là A-hi-nô-am ở Ghít-rê-ên.
Con thứ hai là Đa-niên, mẹ là A-bi-ga-in ở Cạt-mên.
2 Con thứ ba là Áp-xa-lôm, mẹ là Ma-a-ca, con gái của Thanh-mai, vua Ghê-sua.
Con thứ tư là A-đô-ni-gia, mẹ là Ha-ghít.
3 Con thứ năm là Sê-pha-tia, mẹ là A-bi-tan.
Con thứ sáu là Ít-rê-am, mẹ là Éc-la. 4 Sáu người con trai nầy của Đa-vít sinh ở Hếp-rôn, nơi Đa-vít trị vì trong bảy năm rưỡi.
Đa-vít trị vì ở Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.
5 Sau đây là những người con sinh ở Giê-ru-sa-lem:
Sam-mua [a], Sô-báp, Na-than, và Sô-lô-môn, tức bốn người con của Đa-vít và Bát-sê-ba [b], con gái A-miên. 6-8 Chín người con trai khác của Đa-vít là Íp-ha, Ê-li-sua [c], Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phéc, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết. 9 Đó là các con trai của Đa-vít, ngoại trừ các con do các vợ lẽ sinh ra. Đa-vít cũng có một con gái tên Ta-ma.
Các vua Giu-đa sau đời của Đa-vít
10 Con trai của Sô-lô-môn là Rô-bô-am. Con trai Rô-bô-am là A-bi-gia. Con trai A-bi-gia là A-sa. Con trai A-sa là Giô-sa-phát. 11 Con trai Giô-sa-phát là Giê-hô-ram. Con trai Giê-hô-ram là A-cha-xia. Con trai A-cha-xia là Giô-ách. 12 Con trai Giô-ách là A-ma-xia. Con trai A-ma-xia là A-xa-ria. Con trai A-xa-ria là Giô-tham. 13 Con trai Giô-tham là A-cha. Con trai A-cha là Ê-xê-chia. Con trai Ê-xê-chia là Ma-na-xe. 14 Con trai Ma-na-xe là A-môn, và con trai A-môn là Giô-xia.
15 Sau đây là các con trai Giô-xia: Con trưởng nam là Giô-ha-nan, con thứ nhì là Giê-hô-gia-kim, con thứ ba là Xê-đê-kia, con thứ tư là Sa-lum.
16 Con của Giê-hô-gia-kim là Giê-hô-gia-kin, và con của Giê-hô-gia-kin là Xê-đê-kia [d].
Dòng dõi Đa-vít sau khi bị lưu đày sang Ba-by-lôn
17 Giê-hô-gia-kin bị bắt làm tù binh. Các con trai ông là Sê-anh-tiên,
18 Manh-ki-ram, Bê-đai-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia.
19 Các con trai của Bê-đai-gia là Xê-ru-ba-bên và Si-mê-i. Các con trai Xê-ru-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-nia cùng em gái họ là Sê-lô-mít.
20 Xê-ru-ba-bên cũng có năm con trai khác; Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-xa-đia, và Giu-sáp Hê-sết.
21 Dòng dõi của Ha-na-nia là Bê-la-tia và Giê-sai-gia [e], và các con trai của Rê-phai-a, Ác-nan, Áp-đia, và Sê-ca-nia. [f]
22 Các con trai của Sê-ca-nia là Sê-mai-gia. Các con trai của Sê-mai-gia là Hát-túc, Y-ganh, Ba-ria, Nê-a-nia, và Sa-phát. Tất cả là sáu người.
23 Nê-a-ria có ba con trai: Ê-li-ô-ê-nai, Hi-kia, và A-ri-cam.
24 Ê-li-ô-ê-nai có bảy con trai: Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Bê-lai-gia, Ác-cúp, Giô-ha-nan, Đê-lai-gia, và A-na-ni.
Các họ hàng khác của Giu-đa
4 Các con cháu khác của Giu-đa là Phê-rê, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.
2 Rê-ai-gia là con Sô-banh. Rê-ai-gia sinh Gia-hát, Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Đó là họ hàng của dân Xô-ra-thít.
3-4 Hu-rơ là con trưởng nam của Ca-lép và vợ là Ép-ra-tha. Hu-rơ là người sáng lập [g] thị trấn Bết-lê-hem. Ba con trai ông là Ê-tam, Phê-nu-ên, và Ê-xe.
Các con trai của Ê-tam là Ghít-rê-ên, Ích-ma, và Ích-bát. Họ có một em gái tên Ha-xê-lên-bô-ni. Phê-nu-ên sinh Ghê-đo, còn Ê-xe sinh Hu-sa.
5 Thê-cô-a sinh A-sua. A-sua có hai vợ tên Hê-la và Na-a-ra. 6 Các con trai của A-sua và Na-a-ra là A-hu-xam, Hê-phe, Tê-me-ni, và Ha-a-hát-ta-ri. Đó là dòng dõi của Na-a-ra. 7 Các con trai của Hê-la là Xê-rết, Xô-ha, Ết-nan, 8 và Cốt. Cốt sinh A-núp, Ha-xô-bê-ba, và gia tộc A-ha-hên. A-ha-hên là con trai Ha-rum.
9 Có một người tên Gia-be được tôn trọng hơn các anh em khác. Mẹ ông đặt tên ông là Gia-be [h] vì bà bảo, “Tôi bị đau đớn quá mức khi sinh ra nó.” 10 Gia-be cầu nguyện cùng Thượng Đế của Ít-ra-en, “Xin ban phước cho tôi, ban cho tôi thêm đất. Xin ở cùng tôi, đừng để ai hại tôi; như thế tôi mới không bị đau đớn nữa.” Thượng Đế nghe lời Gia-be cầu xin.
11 Kê-lúp, anh Su-la, sinh Mê-hia. Mê-hia sinh Ếch-tôn. 12 Ếch-tôn sinh Bết-Ra-pha, Ba-sê-a, và Tê-hin-na. Tê-hin-na là tổ phụ của thị trấn Na-hách [i]. Các người đó gốc Rê-ca.
13 Các con trai của Kê-na là Ốt-ni-ên và Sê-rai-gia. Các con trai của Ốt-ni-ên là Ha-tha và Mê-ô-nô-thai. 14 Mê-ô-nô-thai sinh Óp-ra. Sê-rai-gia sinh Giô-áp.
Giô-áp là tổ tiên của các dân sống trong Thung lũng Thợ Khéo [j], sở dĩ mang tên nầy vì những người sống ở đó đều là các thợ khéo.
15 Ca-lép là con trai của Giê-phu-nê. Các con trai của Ca-lép là Y-ru, Ê-la, và Na-am. Con trai Ê-la là Kê-nát.
16 Các con trai của Giê-ha-lê-lên là Xíp, Xíp-ha, Ti-ra, và A-xa-rên.
17-18 Các con trai của Ê-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Mê-rết lấy Bi-thia, con gái của vua Ai-cập. Các con của Mê-rết và Bi-thia là Mi-ri-am, Sam-mai, và Ích-ba. Ích-ba sinh Ết-tê-moa. Mê-rết cũng có một người vợ gốc Giu-đa. Bà sinh ra Giê-rết, Hê-be, và Giê-cu-thiên. Giê-rết sinh Ghê-đo. Hê-be sinh Xô-cô. Còn Giê-cu-thiên sinh Xa-noa.
19 Vợ của Hô-đia là em gái Na-ham [k]. Các con trai của vợ Hô-đia là Ết-tê-moa, và cha của Kê-i-la. Kê-i-la xuất thân từ dân Gạt-mít, còn Ết-tê-moa xuất thân từ dân Ma-a-ca-thít. 20 Các con trai của Si-môn là Am-nôn, Rin-na, Bên-Ha-nan, và Ti-lôn. Các con trai của Ích-si là Xô-hết và Bên-Xô-hết.
21-22 Sê-la là con Giu-đa. Các con trai Sê-la là Ê-rơ, La-a-đa, Giô-kim, những người từ Cô-xê-ba, Giô-ách, và Xa-ráp. Ê-rơ sinh Lê-ca. Lê-a-đa sinh Ma-rê-sa và họ hàng của những thợ dệt vải ở Bết-Ách-bia. Giô-ách và Xa-ráp cai trị Mô-áp và Gia-su-bi Lê-hem [l]. Những bút tích của gia đình nầy rất xưa. 23 Các con trai của Sê-la làm thợ gốm. Họ sống ở Nê-ta-im và Ghê-đa-ra và làm việc cho vua.
Các con cái của Xi-mê-ôn
24 Các con trai của Xi-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra, và Sa-un. 25 Con trai của Sa-un là Sa-lum. Con trai của Sa-lum là Míp-xam. Con trai Míp-xam là Mích-ma.
26 Con trai của Mích-ma là Ham-mu-ên. Con trai của Ham-mu-ên là Xa-cua. Con trai Xa-cua là Si-mê-i. 27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái, nhưng anh em ông không có con cho nên gia tộc họ không đông bằng gia tộc Giu-đa.
28 Các con của Si-mê-i sống ở Bê-e-sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa-Su-anh, 29 Binh-ha, Ê-xem, Tô-lát, 30 Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiếc-lác, 31 Bết-Mác-ca-bốt, Ha-xa Xu-xim, Bết-Bi-ri, và Sa-a-ra-im. Họ sống trong các thành đó cho đến khi Đa-vít lên ngôi vua. 32 Năm làng gần các thành nầy là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san. 33 Ngoài ra cũng có các làng khác chạy dài đến Ba-a-lát. Đó là nơi họ ở. Họ cũng chép gia phổ của gia đình mình.
34-38 Những người trong danh sách sau đây là trưởng họ hàng: Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa con A-ma-xia, Giô-ên, Giê-hu con Giô-si-bia (Giô-si-bia là con của Sê-rai-gia, cháu A-xi-ên), Ê-li-ô-ê-nai, Gia-a-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sai-gia, A-đi-ên, Giê-xi-miên, Bê-nai-gia, và Xi-xa. Xi-xa là con Síp-hi, cháu A-lôn. A-lôn là con Giê-đai-gia, cháu Sim-ri. Sim-ri là con Sê-mai-gia.
Các gia đình nầy rất đông con. 39 Họ đi ra ngoài thành Ghê-đo về phía đông thung lũng để tìm đồng cỏ cho gia súc mình. 40 Họ tìm được nhiều đồng cỏ tốt, đất rộng, khoảng khoát và yên tĩnh. Các con cháu của Cham trước kia sống ở đó. 41 Những người trong danh sách trên đây đến định cư ở Ghê-đo trong khi Ê-xê-chia làm vua Giu-đa. Họ đánh dân Ha-mít, phá lều trại của chúng, và đánh dân Mê-u-nít đang sống ở đó, hoàn toàn tiêu diệt dân đó. Cho nên ngày nay không còn dân Mê-u-nít nữa. Rồi họ vào chiếm nơi ấy vì có nhiều đồng cỏ cho bầy chiên.
42 Bê-la-tia, Nê-ra-ria, Rê-phai-gia, và U-xi-ên, các con trai của Y-si, hướng dẫn năm trăm người Xi-mê-ôn đánh các dân sống trong vùng núi Ê-đôm. 43 Họ giết những người A-ma-léc còn sống sót. Từ đó đến nay người Xi-mê-ôn vẫn sống ở Ê-đôm.
Giao ước cũ
9 Giao ước cũ có những qui tắc thờ phụng và nơi thờ phụng do tay người dựng nên. 2 Lều Thánh có hai phần riêng biệt. Phần đầu tiên của Lều gọi là Nơi Thánh. Trong đó có cái đèn và cái bàn chưng bánh được Thượng Đế thánh hóa. 3 Sau bức màn thứ nhì là một phòng gọi là Nơi Chí Thánh. 4 Trong đó có bàn thờ bằng vàng để đốt hương và Rương Giao ước bọc vàng, bên trong hộp đựng giao ước cũ. Bên trong hộp có một cái bình đựng bánh ma-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn và hai bảng đá của giao ước cũ. 5 Phía trên hộp là các thiên sứ [a] phô bày sự vinh hiển của Thượng Đế và các cánh che nắp hộp. Các thiên sứ ngồi trên nắp thương xót [b]. Nhưng bây giờ chúng ta không thể mô tả tỉ mỉ những vật ấy.
6 Khi mọi vật trong Lều được sắp xếp sẵn sàng như thế rồi thì mỗi ngày các thầy tế lễ đi vào gian phòng đầu tiên để thờ phụng. 7 Nhưng chỉ có một mình thầy tế lễ tối cao mới được vào gian phòng thứ nhì, mỗi năm một lần thôi. Thầy tế lễ tối cao không thể vào phòng ấy mà không mang huyết theo dâng cho Thượng Đế để chuộc tội mình và chuộc tội vô tình của dân chúng. 8 Thánh Linh dùng điều nầy để cho thấy rằng khi hệ thống Lều Thánh cũ vẫn đang được dùng thì đường vào Nơi Chí Thánh [c] chưa mở ra. 9 Đây là ví dụ về thời hiện tại. Hình ảnh ấy cho thấy rằng các của lễ và sinh tế không thể khiến lương tâm kẻ thờ phụng toàn thiện được. 10 Các của lễ và sinh tế chỉ liên quan đến thực phẩm, thức uống và nghi thức tẩy sạch. Đó là những qui luật cho thân thể phải tuân theo cho đến khi Thượng Đế chỉ cách thức mới.
Giao Ước Mới
11 Khi Chúa Cứu Thế Giê-xu đến làm thầy tế lễ tối cao mang những điều tốt đẹp chúng ta hiện đang hưởng, thì Ngài đi vào một lều lớn hơn và hoàn toàn hơn, không do tay người làm ra và cũng không thuộc về trần gian nầy. 12 Chúa Cứu Thế đi vào Nơi Chí Thánh một lần đủ cả. Ngài không mang theo huyết của dê hoặc bò con. Sinh tế của Ngài mang vào là chính huyết mình, nhờ huyết ấy Ngài giải thoát chúng ta đời đời khỏi tội lỗi. 13 Nếu huyết của dê, bò đực và tro của bò cái rắc lên những người không tinh sạch còn làm cho thân thể họ được sạch, 14 huống chi huyết của Chúa Cứu Thế còn hữu hiệu đến mức nào nữa. Ngài dâng chính mình qua Thần linh [d] đời đời để làm một sinh tế toàn vẹn cho Thượng Đế. Huyết Ngài tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những hành vi dẫn đến cái chết để chúng ta có thể thờ kính và phục vụ Thượng Đế hằng sống.
15 Do đó, Chúa Cứu Thế mang đến cho dân chúng một Giao Ước Mới từ Thượng Đế. Những ai được Thượng Đế kêu gọi thì bây giờ có thể hưởng được phúc lành đời đời mà Ngài đã hứa. Họ nhận được những phúc lành ấy là vì Chúa Cứu Thế chịu chết để ai sống dưới giao ước cũ đều được giải thoát khỏi tội.
16 Khi có tờ di chúc thì phải chứng tỏ rằng người viết di chúc đó đã qua đời. 17 Di chúc ấy chẳng có giá trị gì khi người đó còn sống; nó chỉ có hiệu lực sau khi người ấy qua đời. 18 Vì thế giao ước đầu tiên không thể bắt đầu nếu không có huyết để chứng tỏ đã có một cái chết. 19 Trước hết, Mô-se dạy dân sự mọi mệnh lệnh mà luật pháp dặn bảo. Sau đó ông lấy huyết của bò con và dê trộn với nước, rồi lấy len đỏ và nhánh kinh giới rưới lên sách luật và trên dân chúng. 20 Ông nói, “Đây là huyết để bắt đầu Giao ước mà Thượng Đế truyền cho các ngươi phải vâng giữ.” [e] 21 Cũng thế, Mô-se rưới huyết lên Lều Thánh và trên mọi vật dùng trong việc thờ phụng. 22 Luật pháp qui định rằng mọi việc phải được tẩy sạch nhờ huyết vì nếu không đổ huyết thì không thể được tha tội.
Sự chết Chúa Giê-xu xóa sạch tội lỗi
23 Cho nên những gì tượng trưng cho các việc thật trên trời phải được tẩy sạch qua của lễ bằng thú vật; nhưng những việc thật trên trời cần những sinh tế tốt hơn thú vật. 24 Chúa Cứu Thế Giê-xu không phải đi vào Nơi Chí Thánh do tay người làm ra, một nơi tiêu biểu cho Nơi Chí Thánh thật. Ngài đi vào chính thiên đàng và hiện nay đang ở trước mặt Thượng Đế để cầu khẩn cho chúng ta. 25 Thầy tế lễ tối cao mỗi năm đi vào Nơi Chí Thánh một lần mang theo huyết mà không phải huyết mình. Nhưng Chúa Cứu Thế Giê-xu không cần phải hi sinh mạng Ngài nhiều lần. 26 Nếu không thì kể từ khi tạo thiên lập địa, Ngài đã phải chịu khổ nhiều lần. Nhưng Ngài chỉ đến một lần đủ cả vào thời kỳ cuối cùng nầy để xóa tội lỗi đi bằng cách hi sinh chính mình. 27 Vì đã định cho mọi người phải chết một lần rồi chịu xét xử, 28 cho nên Chúa Cứu Thế Giê-xu dâng mình Ngài làm sinh tế một lần đủ cả để xóa tội lỗi của nhiều người. Ngài sẽ trở lại lần thứ hai, không phải để hi sinh vì tội lỗi nữa, mà là đem sự cứu rỗi đến cho những kẻ chờ đợi Ngài.
Lời cảnh cáo Ít-ra-en
3 Hỡi dân Ít-ra-en hãy nghe lời CHÚA phán nghịch cùng các ngươi, nghịch lại cùng toàn thể gia đình Ngài đã mang ra khỏi Ai-cập.
2 “Ta đã chọn một mình ngươi
từ các gia đình trên đất,
cho nên ta sẽ trừng phạt ngươi vì tội lỗi ngươi.”
Nguyên nhân sự trừng phạt dân Ít-ra-en
3 Hai người không thể đi chung nhau được
nếu không đồng ý với nhau.
4 Sư tử trong rừng không gầm thét
trừ khi nó bắt được mồi;
nó không gầm gừ trong hang
nếu nó không bắt được gì.
5 Chim không sa vào bẫy
nếu không có mồi nhử nó;
bẫy cũng không sập
nếu không có gì để bắt.
6 Khi kèn thổi báo động trong thành,
dân chúng run sợ.
Khi tai họa đến cùng một thành nào,
là do CHÚA khiến.
7 Trước khi CHÚA làm điều gì,
Ngài cũng cho các tôi tớ Ngài,
là các nhà tiên tri biết chương trình của Ngài.
8 Sư tử đã gầm thét! Ai mà không sợ?
CHÚA đã phán, Ai mà không nói tiên tri?
9 Hãy loan báo điều nầy
cho các toà nhà kiên cố của Ách-đốt [a],
cho các dinh thự vững chắc của Ai-cập:
“Hãy đến núi Xa-ma-ri,
nơi ngươi sẽ thấy cảnh hỗn loạn,
và cảnh người ta hại nhau.”
10 “Dân chúng không biết làm điều phải,”
CHÚA phán vậy.
“Những toà nhà kiên cố của chúng
đầy dẫy của cướp đoạt của kẻ khác.”
11 Nên CHÚA phán như sau:
“Một kẻ thù sẽ chiếm đất
và kéo sập đồn lũy ngươi;
nó sẽ cướp của báu từ các toà nhà kiên cố ngươi.”
12 CHÚA phán như sau:
“Người chăn chiên chỉ giật lại được khỏi hàm sư tử
hai cái xương chân và một mảnh lỗ tai của chiên mình.
Cũng vậy, chỉ có một số rất ít dân Ít-ra-en
ở Xa-ma-ri được giải cứu,
tức những người hiện ngồi trên giường
và trên ghế dài.”
13 CHÚA là Thượng-Đế, Đấng Toàn Năng phán, “Hãy lắng nghe và làm nhân chứng nghịch cùng gia đình Gia-cốp.”
14 “Khi ta trừng phạt tội lỗi Ít-ra-en,
ta cũng sẽ tiêu hủy bàn thờ ở Bê-tên [b].
Các góc bàn thờ sẽ bị cắt xén,
Chúng sẽ rơi xuống đất.
15 Ta sẽ phá sập nhà nghỉ mùa đông,
cùng nhà nghỉ mùa hè.
Các nhà cửa trang hoàng bằng ngà voi
sẽ bị tiêu hủy,
và các nhà cửa rộng lớn sẽ không còn,”
CHÚA phán vậy.
Ca ngợi Thượng Đế vì Ngài giúp đỡ kẻ yếu thế
146 Hãy ca ngợi Chúa!
Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi Ngài.
2 Tôi sẽ ca ngợi Ngài trọn đời tôi;
Hễ tôi còn sống bao lâu tôi sẽ ca ngợi Chúa bấy lâu.
3 Chớ nên tin cậy vua chúa hay loài người,
là những kẻ không thể cứu ngươi.
4 Khi con người chết, họ bị chôn trong đất.
Bao nhiêu dự định họ đều tan theo mây khói.
5 Phúc cho những kẻ được Thượng Đế của Gia-cốp giúp đỡ.
Họ đặt hi vọng đặt trong Chúa là Thượng Đế của mình.
6 Ngài tạo nên trời, đất,
biển và mọi vật trong đó.
Ngài giữ lòng thành tín đến đời đời.
7 Ngài xử công bằng cho kẻ bị ức hiếp.
Ban thức ăn cho kẻ đói khổ.
Chúa giải phóng người bị tù.
8 Khiến kẻ mù được sáng mắt.
Chúa nâng đỡ kẻ gặp khó khăn.
Ngài yêu mến người làm điều phải.
9 Chúa bảo vệ các ngoại kiều.
Ngài bênh vực trẻ mồ côi và người góa bụa,
Nhưng Ngài cản đường kẻ ác.
10 Chúa sẽ làm vua cho đến đời đời,
Hỡi Giê-ru-sa-lem, Thượng Đế ngươi còn đời đời.
Ngợi ca Chúa!
Ca ngợi Chúa là Đấng giúp đỡ dân Ngài
147 Hãy ca ngợi Chúa!
Hãy nên ca tụng Thượng Đế chúng ta vì đó là điều tốt lành.
Ngài đáng được chúng ta ca ngợi.
2 Chúa xây dựng lại Giê-ru-sa-lem,
Ngài mang các tù nhân Ít-ra-en trở về.
3 Ngài hàn gắn lại những tấm lòng tan vỡ,
băng bó các vết thương họ.
4 Ngài đếm các ngôi sao và đặt từng tên cho chúng.
5 Chúa chúng ta vô cùng vĩ đại và quyền năng.
Sự thông hiểu Ngài thật vô hạn.
6 Ngài bênh vực người khiêm nhường,
nhưng xô kẻ ác té xuống đất.
7 Hãy ca ngợi Chúa;
khảy đờn cầm mà chúc tụng Ngài.
8 Ngài phủ mây đầy bầu trời,
sai mưa tưới đất
và khiến cỏ mọc phủ các đồi núi.
9 Ngài ban thức ăn cho súc vật và các chim non kêu ríu rít.
10 Ngài không quan tâm đến sức mạnh của ngựa
hay sức lực của con người.
11 Ngài hài lòng với người kính sợ Ngài,
với những người tin cậy nơi tình yêu Ngài.
12 Hỡi Giê-ru-sa-lem,
hãy ca ngợi Chúa;
Hỡi Giê-ru-sa-lem,
hãy ca ngợi Thượng Đế ngươi.
13 Ngài củng cố các cửa thành ngươi,
ban phước cho các con cái sống trong thành ngươi.
14 Ngài ban hòa bình cho xứ ngươi
và cho ngươi đầy dẫy ngũ cốc tốt nhất.
15 Ngài ra lệnh cho đất,
nó liền vâng lời Ngài.
16 Ngài trải tuyết ra như lông chiên
và rải sương tuyết ra như tro.
17 Ngài rắc mưa đá xuống như sỏi.
Không ai chịu nổi luồng gió lạnh của Ngài.
18 Rồi Ngài ra lệnh, tuyết giá liền tan.
Ngài sai luồng gió đến, nước liền chảy.
19 Ngài ban mệnh lệnh cho Gia-cốp,
và luật lệ cùng mệnh lệnh Ngài cho Ít-ra-en.
20 Không có quốc gia nào khác được ân huệ đó.
Họ không biết luật lệ Ngài.
Hãy ca ngợi Chúa!
© 2010 Bible League International