M’Cheyne Bible Reading Plan
Gia phổ từ A-đam đến Áp-ra-ham
1 A-đam sinh Sết. Sết sinh Ê-nốt. Ê-nốt sinh Kê-nan. 2 Kê-nan sinh Ma-ha-la-lên. Ma-ha-la-lên sinh Giê-rết. Giê-rết sinh Ê-nóc. 3 Ê-nóc sinh Mê-tu-sê-la. Mê-tu-sê-la sinh La-méc, La-méc sinh Nô-ê. [a]
Dòng dõi Gia-phết
4 Các con trai của Nô-ê là Sem, Cham, và Gia-phết.
5 Các con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-séc, và Ti-ra.
6 Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ríp-hát [b], và Tô-ga-ma.
7 Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Tạt-sít, Kít-tim, và Rô-đa-nim.
Dòng dõi Cham
8 Các con trai của Cham là Cút [c], Mi-ra-im [d], Phút, và Ca-na-an.
9 Các con trai của Cút là Xê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma, và Sáp-tê-ca.
Các con trai của Ra-a-ma là Sê-ba và Đê-đan.
10 Cút sinh Nim-rốt là tay dũng sĩ trên đất.
11 Mi-ra-im sinh dân Lu-đít, A-na-mít, Lê-ha-bít, và Nép-tu-hít, 12 Phát-ru-sít, Cát-su-hít và Cáp-tô-rít. Dân Phi-li-tin xuất thân từ dân Cát-xu-hít.
13 Con trai đầu của Ca-na-an là Xi-đôn. Ông cũng sinh ra người Hi-tít, 14 người Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-ga-sít, 15 Hi-vít, Ác-kít, Xi-nít, 16 Ác-va-đít, Xê-ma-rít, và Ha-ma-thít.
Dòng dõi Sem
17 Các con trai của Sem là Ê-lam, A-sua, Á-phác-xác, Lút, và A-ram. Các con trai của A-ram là [e] U-xơ, Hun, Ghê-the, và Mê-séc [f].
18 Ác-phác-xác sinh Sê-la, Sê-la sinh Ê-be.
19 Ê-be có hai con trai. Một người tên Phê-léc [g] vì trong đời ông dân cư trên đất bị chia ra thành nhiều ngôn ngữ. Em của Phê-léc là Giốc-tan. 20 Giốc-tan sinh Anh-mô-đát, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-ra, 21 Ha-đô-ram, U-xanh, Điếc-la, 22 Ê-banh [h], A-bi-ma-ên, Sê-ba, 23 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả những người đó là con của Giốc-tan.
24 Gia phổ gồm Sem, Ác-phác-xác, Sê-la, 25 Ê-be, Phê-léc, Rêu, 26 Xê-rúc, Na-ho, Thê-ra, 27 và Áp-ram gọi là Áp-ra-ham.
Gia đình Áp-ra-ham
28 Các con trai của Áp-ra-ham là Y-sác và Ích-ma-ên. 29 Sau đây là các con trai của Y-sác và Ích-ma-ên. Con trưởng nam của Ích-ma-ên là Nê-bai-giốt. Các con trai khác là Kê-đa, Át-bê-ên, Míp-sam, 30 Mích-ma, Đu-ma, Ma-xa, Ha-đát, Thê-ma, 31 Giê-tu, Na-phích, và Kê-đê-ma. Đó là các con của Ích-ma-ên.
32 Kê-tu-ra, vợ sau của Áp-ra-ham, sinh Xim-ran, Giốc-san, Mê-đan, Mi-đi-an, Ích-bát, và Su-a.
Các con trai của Giốc-san là Sê-ba và Đê-đan.
33 Các con trai của Mi-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa, và Ên-đa-a.
Tất cả đều là dòng dõi của Kê-tu-ra.
Dòng dõi Y-sác
34 Áp-ra-ham sinh Y-sác. Hai con trai của Y-sác là Ê-sau và Ít-ra-en.
35 Các con trai của Ê-sau là Ê-li-pha, Rêu-ên, Giê-úc, Gia-am, và Co-ra.
36 Các con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phô [i], Ga-tam, Kê-nát, Tim-na, và A-ma-léc.
37 Các con trai của Rêu-ên là Na-hát, Xê-rơ, Sam-ma, và Mích-xa.
Người Ê-đôm xuất thân từ Sê-ia
38 Các con trai của Sê-ia là Lô-tan, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ê-xe, và Đi-san.
39 Các con trai của Lô-tan là Hô-ri và Hô-mam [j], và em gái ông là Tim-na.
40 Các con trai của Sô-banh là Anh-van, Ma-ha-hát, Ê-banh, Xê-phô, và Ô-nam. Các con trai của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na.
41 Con trai của A-na là Đi-sôn. Các con trai của Đi-sôn là Hem-đan, Ếch-ban, Ít-ran, và Kê-ran.
42 Các con trai của Ê-xe là Binh-hanh, Xa-a-van, và A-can. Các con trai của Đi-san là U-xơ và A-ran.
Các vua Ê-đôm
43 Sau đây là tên các vua cai trị Ê-đôm trước khi dân Ít-ra-en có vua.
Bê-la, con Bê-ô là vua Ê-đôm, và thành của ông gọi là Đinh-ha-ba.
44 Khi Bê-la qua đời, Giô-báp, con Xê-ra lên nối ngôi. Ông ta gốc ở Bốt-ra.
45 Khi Giô-báp qua đời thì Hu-sam lên làm vua. Ông gốc xứ của dân Thê-man.
46 Khi Hu-sam qua đời thì Ha-đát, con trai Bê-đát lên ngôi vua. Thành của ông gọi là A-vít. Ha-đát đánh bại dân Mi-đi-an trong xứ Mô-áp.
47 Khi Ha-đát qua đời thì Sam-la lên ngôi. Ông gốc ở Mát-rê-ca.
48 Khi Sam-la qua đời thì Sa-un lên ngôi vua. Ông gốc ở Rê-hô-bốt gần sông Ơ-phơ-rát.
49 Khi Sa-un qua đời thì Ba-anh Ha-nan, con Ác-bo, lên ngôi vua.
50 Khi Ba-anh Ha-nan qua đời thì Ha-đát lên ngôi vua, đóng đô tại Bao [k]. Vợ Ha-đát tên Mê-hê-ta-bên, con gái Ma-trết, Ma-trết là con gái của Mê-xa-háp. 51 Rồi Ha-đát qua đời.
Các trưởng gia tộc của Ê-đôm là Thim-na, Anh-va, Giê-thết, 52 Ô-hô-li-ba-ma, Ê-la, Phi-nôn, 53 Kê-nát, Thê-man, Míp-xa, 54 Mác-đi-ên, và Y-ram. Đó là các lãnh tụ của Ê-đôm.
Con cái của Ít-ra-en
2 Các con trai của Ít-ra-en là Ru-bên, Xi-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-xa-ca, Xê-bu-lôn, 2 Đan, Giô-xép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát, và A-xe.
Con cái của Giu-đa
3 Các con trai Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la. Mẹ của họ là một người đàn bà Ca-na-an, con của Bát-sua [l]. Ê-rơ, con trưởng nam của Giu-đa làm điều ác cho nên bị CHÚA giết đi. 4 Ta-ma, dâu của Giu-đa sinh Phê-rê và Xê-ra [m]. Giu-đa là cha hai người nầy cho nên Giu-đa có tất cả năm con trai.
5 Các con trai của Phê-rê là Hết-rôn và Ha-mun.
6 Xê-ra có năm con trai: Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn, và Đạc-đa [n].
7 A-ca [o] là con trai của Cát-mi. A-ca là người gây rối cho Ít-ra-en vì ông đã lấy những vật mà CHÚA dặn phải tiêu diệt.
8 Con trai Ê-than là A-xa-ria.
9 Các con trai của Hết-rôn là Giê-ra-mê-ên, Ram, và Ca-lép [p].
Dòng dõi Ram
10 Ram là cha của Am-mi-na-đáp. Am-mi-na-đáp sinh Na-sôn. Na-sôn là lãnh tụ của dân Giu-đa [q]. 11 Na-sôn sinh Sanh-môn, Sanh-môn sinh Bô-ô. 12 Bô-ô sinh Ô-bết, Ô-bết sinh Gie-xê. 13 Con trưởng nam của Gie-xê là Ê-li-áp. Con thứ hai là A-bi-na-đáp, con thứ ba là Si-mê-ra, 14 con thứ tư là Nê-tha-nên, con thứ năm là Rát-đai, 15 con thứ sáu là Ô-xem, và con thứ bảy là Đa-vít. 16 Chị em của họ là Xê-ru-gia và A-bi-ga-in. Các con trai của Xê-ru-gia là A-bi-sai, Giô-áp, và A-sa-ên. 17 A-bi-ga-in là mẹ của A-ma-sa, cha ông là Gie-thê, người Ích-ma-ên.
Dòng dõi Ca-lép
18 Ca-lép, con trai Hết-rôn sinh con qua vợ mình là A-xu-ba. A-xu-ba là con gái của Giê-ri-ốt [r]. Các con trai của Ca-lép và A-xu-ba là Gie-sê, Sô-báp, và Ác-đôn. 19 Khi A-xu-ba qua đời, Ca-lép lấy Ép-rát. Hai người sinh ra một con trai đặt tên Hu-rơ, 20 Hu-rơ sinh U-ri, U-ri sinh Bê-xa-lên.
21 Về sau khi Hết-rôn đã được sáu mươi tuổi thì lấy con gái Ma-kia, tức là cha của Ghi-lê-át. Hết-rôn ăn nằm với con gái Ma-kia và sinh ra một con trai tên Sê-gúp. 22 Sê-gúp sinh Giai-rơ. Giai-rơ kiểm soát hai mươi ba thành phố trong miền Ghi-lê-át. 23 Nhưng Ghê-sua và A-ram chiếm được thành Giai-rơ, Kê-nát cùng các thị trấn quanh đó, tất cả là sáu mươi thị trấn. Tất cả những người đó là con cháu Ma-kia, cha Ghi-lê-át.
24 Sau khi Hết-rôn qua đời ở Ca-lép Ép-ra-tha thì A-bi-gia, vợ ông, sinh ra A-sua. A-sua sinh Tê-cô-a.
Dòng dõi Giê-ra-mê-ên
25 Con trưởng nam của Hết-rôn là Giê-ra-mê-ên. Các con trai của Giê-ra-mê-ên là Ram, Bu-na, Ô-rên, Ô-xem, và A-hi-gia. Ram là con trưởng nam của Giê-ra-mê-ên. 26 Giê-ra-mê-ên lấy một người vợ nữa tên A-ta-ra. Nàng sinh ra Ô-nam.
27 Ram, con trưởng nam của Giê-ra-mê-ên có con trai. Tên chúng nó là Ma-át, Gia-min, và Ê-ke.
28 Các con trai của Ô-nam là Sam-mai và Gia-đa. Các con trai của Sam-mai là Na-đáp và A-bi-sua.
29 Vợ của A-bi-sua tên A-bi-hai. Các con trai họ tên A-ban và Mô-lít.
30 Các con trai của Na-đáp là Sê-lết và Áp-ba-im. Sê-lết qua đời không con.
31 Các con trai của Áp-ba-im là Y-si, Y-si sinh Sê-san. Sê-san sinh A-lai.
32 Gia-đa là anh của Sam-mai. Các con trai của Gia-đa là Giê-the và Giô-na-than. Giê-the qua đời không con.
33 Các con trai của Giô-na-than là Phê-lết và Xa-xa. Đó là dòng dõi của Giê-ra-mê-ên.
34 Sê-san không có con trai, chỉ có con gái. Ông có một tên nô lệ người Ai-cập tên Gia-ha. 35 Sê-san gả con gái mình cho người nô lệ đó. Nàng sinh là một con trai tên Át-tai.
36 Át-tai sinh Na-than. Na-than sinh Xa-bát. 37 Xa-bát sinh Ép-lanh. Ép-lanh sinh Ô-bết. 38 Ô-bết sinh Giê-hu. Giê-hu sinh A-xa-ria. 39 A-xa-ria sinh Hê-le. Hê-le sinh Ê-lê-a-sa. 40 Ê-lê-a-sa sinh Xít-mai. Xít-mai sinh Sa-lum. 41 Sa-lum sinh Giê-ca-mia, và Giê-ca-mia sinh Ê-li-sa-ma.
Gia đình Ca-lép
42 Ca-lép là em Giê-ra-mê-ên. Con trưởng nam của Ca-lép là Mê-sa. Mê-sa sinh Xíp, và Ma-rê-sa con ông, sinh Hếp-rôn.
43 Các con trai của Hếp-rôn là Co-ra, Táp-bu-a, Rê-kem, và Sê-ma. 44 Sê-ma sinh Ra-ham. Ra-ham sinh Giọt-kê-am. Rê-cam sinh Sam-mai. 45 Sam-mai sinh Ma-ôn. Ma-ôn sinh Bết-Xu-rơ.
46 Ép-pha, vợ lẽ của Ca-lép sinh Ha-ran, Mô-xa, và Ga-xê. Ha-ran sinh Ga-xe.
47 Các con trai của Gia-đai là Rê-gem, Giô-tham, Ghê-san, Phê-lết, Ép-pha, và Sa-a-áp.
48 Ca-lép cũng có một vợ lẽ nữa tên Ma-a-ca. Ma-a-ca là mẹ của Sê-be, Tiệt-ha-na, 49 Sa-a-áp, và Sê-va. Sa-a-áp sinh Mách-man-na. Sê-va sinh Mạc-bê-na và Ghi-bê-a. Con gái của Ca-lép là Ạc-xa.
50 Sau đây là dòng dõi Ca-lép: Hu-rơ con Ca-lép là con trưởng nam của mẹ ông tên Ép-ra-tha. Các con trai của Hu-rơ là Sô-banh, Sanh-ma, và Ha-rếp. Sô-banh sinh Ki-ri-át Giê-a-rim [s]. Sanh-ma sinh Bết-lê-hem. Ha-rếp sinh Bết-Ga-đe.
51-52 Sô-banh sinh Ki-ri-át Giê-a-rim. Dòng dõi của Sô-banh là Ha-rô-e, phân nửa dân Ma-ha-na-thít, 53 và họ hàng Ki-ri-át Giê-a-rim: dân Ít-rít, Phu-thít, Su-ma-thít, và Mít-ra ít. Dân Xô-ra-thít và dân Ết-tao-lít xuất thân từ dân Mít-ra-ít.
54 Dòng dõi của Sanh-ma là Bết-lê-hem, dân Nê-tô-pha-thít, A-trốt Bết Giô-áp, phân nửa dân Ma-ha-na-thít, và dân Xô-rít. 55 Dòng dõi ông gồm các họ hàng sống ở Gia-be là những người viết và sao lại các văn kiện quan trọng. Họ được gọi là dân Ti-ra-thít, Si-mê-a-thít, và Su-ca-thít và xuất thân từ họ hàng Kê-nít là những họ hàng đến từ Ha-mát. Ông cũng là tổ tiên của những dân sống ở Rê-cáp.
Chúa Giê-xu là thầy tế lễ tối cao của chúng ta
8 Đây là điểm chúng ta đang nói: Chúng ta có một thầy tế lễ tối cao đang ngồi bên phải [a] ngôi của Thượng Đế trên thiên đàng. 2 Thầy tế lễ tối cao của chúng ta phục vụ Nơi Chí Thánh [b], chỗ thờ phụng thật sự [c], không phải do loài người lập mà do Thượng Đế lập ra.
3 Thầy tế lễ nào cũng được chỉ định dâng của lễ và hi sinh cho Thượng Đế, nên thầy tế lễ tối cao của chúng ta cũng phải dâng món gì cho Ngài. 4 Nếu thầy tế lễ tối cao của chúng ta vẫn đang sống trên đất thì không phải là thầy tế lễ nữa, vì đã có các thầy tế lễ khác trên đất đang tuân theo luật pháp mà dâng của lễ cho Thượng Đế rồi. 5 Nhiệm vụ tế lễ chỉ là tượng trưng và hình bóng của những việc trên thiên đàng. Vì thế Thượng Đế căn dặn Mô-se rất kỹ khi ông chuẩn bị dựng Lều Thánh: “Hãy thận trọng làm y theo như sơ đồ ta chỉ cho ngươi trên núi.” [d] 6 Nhưng nhiệm vụ tế lễ giao cho Chúa Giê-xu lớn hơn nhiệm vụ của các thầy tế lễ kia rất nhiều. Cũng thế, giao ước mới mà Chúa Giê-xu mang từ Thượng Đế xuống cho dân Ngài lớn hơn giao ước cũ. Giao ước mới dựa trên lời hứa về những điều tốt đẹp hơn.
7 Nếu giao ước đầu tiên không có khuyết điểm gì thì không cần phải thay thế bằng giao ước thứ nhì. 8 Nhưng Thượng Đế thấy dân sự Ngài sơ xuất nên Ngài phán:
“Chúa phán, thời kỳ đến
khi ta lập một giao ước mới
với dân Ít-ra-en và dân Giu-đa.
9 Không giống như giao ước
ta lập với tổ tiên họ
khi ta dắt họ ra khỏi Ai-cập.
Nhưng vì họ không tôn trọng giao ước ấy,
nên ta quay mặt khỏi họ,
Chúa phán vậy.
10 Chúa phán,
Đây là giao ước ta sẽ lập
với dân Ít-ra-en lúc bấy giờ,
Ta sẽ đặt luật lệ ta trong trí họ,
ghi những lời ấy vào lòng họ.
Ta sẽ làm Thượng Đế của họ,
còn họ sẽ làm dân ta.
11 Không ai còn cần dạy
xóm giềng hay thân quyến mình
học biết về Chúa nữa,
vì mọi người đều sẽ biết ta,
từ người thấp kém nhất
cho đến người cao trọng nhất.
12 Ta sẽ tha thứ họ
về những điều ác họ làm,
Ta sẽ không nhớ đến tội lỗi họ nữa.” (A)
13 Thượng Đế gọi giao ước nầy là mới cho nên Ngài biến giao ước đầu tiên thành cũ. Cái gì đã cũ và vô dụng thì sẽ biến mất.
Trừng phạt dân Mô-áp
2 CHÚA phán:
“Vì Mô-áp phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
Nó thiêu xương cốt của vua Ê-đôm thành vôi.
2 Cho nên ta sẽ sai lửa xuống trên Mô-áp,
thiêu đốt các toà nhà kiên cố của thành Kê-ri-ốt [a].
Dân Mô-áp sẽ chết,
giữa những tiếng reo hò trong chiến trận và tiếng kèn thổi vang.
3 Ta sẽ kết liễu cuộc đời của các vua [b] Mô-áp,
và sẽ giết tất cả các lãnh tụ thành phố
cùng với nó,” CHÚA phán vậy.
Trừng phạt dân Giu-đa
4 CHÚA phán:
“Vì Giu-đa phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
Chúng ném bỏ lời dạy của CHÚA,
không thèm giữ mệnh lệnh Ngài;
chúng đi theo các thần giả
mà tổ tiên chúng đã theo.
5 Cho nên ta sẽ sai lửa xuống trên Giu-đa,
thiêu đốt các toà nhà kiên cố của Giê-ru-sa-lem.”
Trừng phạt dân Ít-ra-en
6 CHÚA phán như sau:
“Vì Ít-ra-en phạm nhiều tội,
nên ta sẽ trừng phạt chúng.
Vì bạc mà chúng bán dân vô tội;
chúng bán kẻ nghèo để lấy tiền mua đôi dép.
7 Chúng chà đạp kẻ nghèo như dẫm lên đất,
chúng không đối xử công bằng
với kẻ cùng khổ.
Cả cha và con ăn nằm
cùng một người đàn bà,
làm nhơ nhuốc danh thánh ta.
8 Trong khi chúng thờ lạy nơi bàn thờ,
chúng nằm trên áo quần cướp giật từ kẻ nghèo.
Chúng cho người nghèo vay tiền,
rồi lấy áo quần của họ để cầm thế [c].
Chúng bắt họ nộp tiền phạt rồi dùng nó mua rượu để say sưa
trong đền thờ của thần chúng.
9 Nhưng chính ta là Đấng
đã hủy diệt người A-mô-rít [d] trước mặt chúng,
là những kẻ cao như cây hương nam,
và mạnh như cây sồi.
Nhưng ta sẽ diệt trái ở trên và rễ ở dưới [e].
Ta tuyệt diệt chúng.
10 Chính ta là Đấng mang các ngươi
ra khỏi xứ Ai-cập
và dẫn dắt các ngươi suốt bốn mươi năm
trong sa mạc để cấp cho các ngươi
đất của dân A-mô-rít.
11 Ta đã biến một số con cái các ngươi
làm nhà tiên tri,
một số trai tráng trong các ngươi
làm người Na-xi-rê.
Hỡi dân Ít-ra-en, có phải đúng vậy không?
CHÚA phán vậy.
12 Nhưng các ngươi bắt người Na-xi-rê uống rượu
và bảo các nhà tiên tri đừng nói tiên tri nữa.
13 Bây giờ ta sẽ làm cho các ngươi mắc kẹt
như xe chở đầy ngũ cốc lún bùn.
14 Không ai thoát, kể cả kẻ chạy nhanh nhất cũng vậy.
Người mạnh cũng chưa đủ mạnh;
Các chiến sĩ cũng không thể tự cứu.
15 Các chiến sĩ mang cung tên
cũng không đứng dậy nổi để chiến đấu,
kẻ chạy nhanh nhất cũng không thoát được;
các lính cỡi ngựa cũng không thoát chết.
16 Lúc đó dù cho chiến sĩ gan dạ nhất
cũng chạy trốn, quăng lại áo giáp,”
CHÚA phán vậy.
Ca ngợi Thượng Đế là vua
Thi thiên ca ngợi của Đa-vít.
145 Lạy Chúa là vua,
tôi ca ngợi sự cao cả của Ngài;
Tôi sẽ ca ngợi Ngài mãi mãi.
2 Hằng ngày tôi sẽ ca ngợi Ngài.
Tôi sẽ ca ngợi Ngài đời đời kiếp kiếp.
3 Chúa là Đấng cao cả đáng được tán tụng;
không ai dò được sự cao cả của Ngài.
4 Cha mẹ thuật lại cho con cái điều Ngài đã làm.
Họ sẽ thuật lại những kỳ công của Ngài,
5 sự oai nghi lạ lùng và vinh hiển Ngài.
Tôi sẽ suy nghĩ về những phép lạ Ngài.
6 Họ sẽ thuật lại những việc diệu kỳ Ngài đã làm,
còn tôi sẽ thuật lại sự cao cả của Ngài.
7 Họ sẽ nhớ lại sự nhân từ lớn lao của Ngài,
và ca tụng sự công chính Ngài.
8 Chúa thật nhân từ, giàu lòng từ ái.
Ngài chậm giận và đầy lòng yêu thương.
9 Chúa nhân từ đối với mọi người;
Ngài luôn thương xót những vật Ngài tạo nên.
10 Lạy Chúa, mọi vật Ngài làm nên sẽ ca ngợi Ngài;
những ai thuộc về Ngài sẽ chúc tụng Ngài.
11 Họ sẽ thuật lại sự vinh hiển của nước Ngài,
và kể lại quyền năng Ngài.
12 Mọi người sẽ biết những việc lớn lao Ngài làm
cùng quyền năng và sự oai nghi của nước Ngài.
13 Nước Ngài sẽ còn đời đời,
Ngài sẽ mãi mãi cai trị.
Chúa sẽ luôn luôn giữ lời hứa Ngài;
Ngài thành tín đối với những vật Ngài tạo nên.
14 Chúa giúp những ai đang bị thất thế
và chăm sóc những kẻ đang lâm cảnh khó khăn.
15 Mọi sinh vật đều trông đợi Chúa ban thức ăn.
Ngài cho chúng đồ ăn đúng giờ.
16 Chúa xòe tay ra, thoả mãn muôn vật.
17 Mọi điều Chúa làm đều đúng.
Ngài thành tín đối với những vật Ngài tạo nên.
18 Chúa ở gần những kẻ cầu xin Ngài,
tức những ai thật lòng tìm kiếm Ngài.
19 Ngài ban cho những kẻ tôn kính Ngài
điều họ ao ước.
Ngài nghe tiếng họ khi họ kêu cứu và giải cứu họ.
20 Chúa bảo vệ những ai yêu mến Ngài,
nhưng Ngài tiêu diệt kẻ ác.
21 Tôi sẽ ca ngợi Chúa.
Tất cả mọi người hãy ca ngợi danh thánh của Ngài
cho đến đời đời.
© 2010 Bible League International