Chronological
Người Hát Cho CHÚA Về Những Việc Của Cút, Người Bên-gia-min
7 Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi, tôi ẩn náu nơi Ngài.
Xin cứu tôi khỏi mọi kẻ săn đuổi tôi và giải cứu tôi.
2 Kẻo như sư tử,
Chúng cắn xé tôi.[a]
3 Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi,
Nếu tôi đã làm điều ấy, nếu tay tôi đã làm điều ác.
4 Nếu tôi đã lấy ác trả cho bạn tôi,
Và cướp của kẻ thù tôi vô cớ.
5 Thì hãy để kẻ thù săn đuổi và bắt lấy tôi,
Giày đạp mạng sống tôi dưới đất,
Và chôn vùi vinh dự tôi nơi bụi cát.
6 Lạy CHÚA, trong cơn giận xin hãy đứng dậy,
Xin đứng lên nghịch cùng cơn giận của kẻ thù tôi.
Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin thức dậy và truyền sự đoán xét.
7 Hỡi hội các dân, hãy tụ họp quanh Ngài.
Từ nơi cao, xin Ngài sẽ trở lại trên chúng.
8 CHÚA đoán xét các dân.
Lạy CHÚA, xin xét xử tôi theo sự công chính tôi,
Và theo sự liêm chính trong lòng tôi.
9 Nguyện sự gian ác của kẻ dữ chấm dứt,
Nhưng Ngài vững lập người công chính.
Lạy Đức Chúa Trời công chính, Ngài là Đấng dò xét lòng dạ con người.
10 Đức Chúa Trời là thuẫn của tôi.
Ngài cứu rỗi người có lòng ngay thẳng.
11 Đức Chúa Trời là Đấng phán xét ngay thẳng.
Nhưng Đức Chúa Trời cũng đe dọa mỗi ngày.
12 Nếu một người không ăn năn,
Thì Ngài sẽ mài gươm,
Giương cung sẵn sàng.
13 Ngài chuẩn bị sẵn vũ khí chết người cho hắn.
Ngài châm các mũi tên lửa cháy phừng.
14 Kìa, nó thai nghén điều dữ,
Cưu mang điều ác và sinh ra gian dối.
15 Nó đào hố rồi khoét cho sâu.
Nhưng lại té xuống hố mà nó đã đào.
16 Điều ác nó làm lại đổ trên đầu nó.
Bạo lực của nó cũng giáng xuống đầu nó.
17 Tôi sẽ cảm tạ CHÚA vì đức công chính Ngài.
Tôi sẽ ca ngợi danh CHÚA, là Đấng Chí Cao.
Thánh Thi Đa-vít
27 CHÚA là ánh sáng và sự cứu rỗi của tôi,
Tôi sẽ sợ ai?
CHÚA là thành lũy của mạng sống tôi,
Tôi sẽ khiếp đảm ai?
2 Khi những kẻ ác xông đến
Định ăn thịt tôi,
Những kẻ đàn áp và thù nghịch tấn công tôi,
Chúng nó sẽ vấp ngã và té nhào.
3 Dù một đạo quân bao vây tôi,
Lòng tôi sẽ không sợ.
Dù chiến tranh nổi dậy chống tôi,
Tôi vẫn vững lòng.
4 Tôi đã xin CHÚA một điều,
Là điều tôi sẽ tìm kiếm.
Ấy là tôi đuợc ở trong nhà CHÚA
Đến suốt đời,
Để chiêm ngưỡng sự tốt đẹp của CHÚA
Và cầu hỏi trong đền thờ Ngài.
5 Vì trong ngày hoạn nạn,
Ngài sẽ giấu tôi trong lều Ngài,
Ngài sẽ che giấu tôi trong nơi kín đáo của trại Ngài.
Ngài đặt tôi lên trên vầng đá.
6 Bây giờ, đầu tôi sẽ ngước cao
Lên trên những kẻ thù vây quanh tôi.
Tôi sẽ dâng tế lễ trong trại Ngài, là tế lễ bằng lời reo hò vui vẻ.
Tôi sẽ hát và ca ngợi CHÚA.
7 Lạy CHÚA, xin nghe tiếng tôi kêu cầu,
Xin thương xót tôi và đáp lời tôi.
8 Lòng tôi thưa với Ngài: Hãy tìm kiếm mặt Ngài.[a]
Lạy CHÚA, tôi tìm kiếm mặt Ngài.
9 Xin đừng lánh mặt khỏi tôi!
Trong khi giận, xin chớ xua đuổi tôi tớ Ngài,
Ngài vẫn giúp đỡ tôi.
Xin đừng xua đuổi, cũng chớ ruồng bỏ tôi!
Lạy Đức Chúa Trời là Đấng cứu rỗi tôi.
10 Dù cha mẹ bỏ tôi,
Nhưng CHÚA sẽ tiếp nhận tôi.
11 Lạy CHÚA, xin dạy tôi đường lối Ngài.
Xin dẫn tôi trên con đường bằng phẳng
Vì những kẻ rình rập tôi.
12 Xin chớ bỏ mặc tôi cho ý đồ[b] của kẻ thù tôi,
Vì những lời chứng dối và những kẻ ngăm đe
Hung bạo đã nổi lên chống tôi.
13 Tôi tin chắc rằng[c]
Tôi sẽ thấy phúc lành của CHÚA
Trên đất người sống.
14 Hãy trông cậy nơi CHÚA,
Hãy vững lòng và can đảm lên.
Phải, hãy trông cậy nơi CHÚA.
Thánh Thi Đa-vít Cho Nhạc Trưởng
31 Lạy CHÚA, tôi ẩn náu nơi Ngài.
Xin chớ để tôi bị hổ thẹn muôn đời,[a]
Xin giải cứu tôi bằng sự công chính của Ngài.
2 Xin Ngài hãy nghiêng tai nghe tôi,
Xin mau mau giải cứu tôi.
Xin Ngài hãy làm vầng đá trú ẩn cho tôi,
Làm thành lũy kiên cố để giải cứu tôi.
3 Thật chính Ngài là vầng đá và thành lũy của tôi,
Vì danh Ngài xin dẫn đường và hướng dẫn tôi.
4 Xin gỡ tôi khỏi bẫy lưới chúng giăng,
Vì Ngài là nơi trú ẩn cho tôi.
5 Tôi giao phó linh hồn tôi trong tay Ngài,
Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chân thật, Ngài đã cứu chuộc tôi.
6 Tôi[b] ghét những kẻ thờ thần tượng hư không,
Nhưng tôi tin cậy nơi CHÚA.
7 Tôi sẽ hân hoan vui mừng trong tình yêu thương Ngài.
Vì Ngài đã thấy nỗi khốn khổ của tôi,
Biết niềm đau đớn của linh hồn tôi.
8 Ngài không trao tôi vào tay kẻ thù,
Ngài đặt chân tôi trong nơi rộng rãi.
9 Lạy CHÚA, xin thương xót tôi vì tôi đang đau khổ.
Mắt tôi mòn mỏi vì sầu khổ,
Linh hồn và thân thể tôi cũng vậy.
10 Vì cuộc đời tôi tiêu hao trong buồn thảm,
Năm tháng tôi trong tiếng thở than,
Sức lực tôi suy giảm đi vì tội lỗi tôi,[c]
Và xương cốt tôi hao mòn.
11 Đối với tất cả kẻ thù, tôi là một sự khinh bỉ.
Những người lân cận lại càng khinh bỉ tôi hơn.[d]
Đối với những người quen biết, tôi là vật đáng sợ.
Những kẻ thấy tôi ngoài đường đều tránh mặt.
12 Tôi bị người ta loại ra khỏi tâm trí[e] như một người chết.
Tôi giống như một cái bình bể nát.
13 Vì tôi nghe nhiều người thì thào bàn tán,[f]
Bốn phía đều kinh hoàng.
Trong khi chúng bàn nhau nghịch tôi,
Chúng mưu toan để lấy mạng sống tôi.
14 Nhưng lạy CHÚA, tôi tin cậy nơi Ngài.
Tôi nói: chính Ngài là Đức Chúa Trời tôi.
15 Cuộc đời[g] tôi ở trong tay Ngài.
Xin giải cứu tôi khỏi tay những kẻ thù nghịch
Và kẻ bắt bớ tôi.
16 Xin soi sáng mặt Ngài trên tôi tớ Ngài.
Vì tình yêu thương Ngài, xin cứu rỗi tôi.
17 Lạy CHÚA, xin chớ để tôi bị hổ thẹn,
Vì tôi đã kêu cầu Ngài.
Xin để những kẻ ác bị hổ thẹn,
Nguyện chúng nó câm miệng đi xuống Âm Phủ.[h]
18 Nguyện môi miệng dối trá phải câm đi.
Là miệng hay nói những lời xấc xược, kiêu căng
Và khinh bỉ chống người công chính.
19 Lớn lao thay là phúc lành,
Ngài dành cho những người kính sợ Ngài,
Và thi ân cho những kẻ trú ẩn nơi Ngài
Trước mặt con cái loài người.
20 Trong nơi kín đáo trước mặt Ngài,
Ngài che giấu họ thoát khỏi mưu kế loài người.
Trong trại Ngài, Ngài bảo vệ họ
Thoát khỏi miệng lưỡi tấn công.
21 Chúc tụng CHÚA,
Vì trong thành kiên cố của Ngài,
Ngài đã bày tỏ tình yêu thương Ngài cho tôi một cách diệu kỳ.
22 Còn tôi, trong cơn hoảng hốt, tôi nói rằng:
“Tôi đã bị truất khỏi trước mặt Ngài,
Nhưng Ngài nghe tiếng kêu cầu của tôi
Khi tôi cầu cứu Ngài.”
23 Hỡi tất cả các thánh của Ngài, hãy yêu mến CHÚA.
CHÚA gìn giữ những người trung tín.
Nhưng báo trả nặng nề những kẻ hành động kiêu căng.
24 Hỡi tất cả những người trông cậy nơi CHÚA,
Hãy vững lòng, mạnh mẽ.
Thánh Thi Đa-vít, Khi Người Giả Điên Trước Mặt A-bi-mê-léc Nên Người Đuổi Ông Đi Và Đa-vít Ra Đi
34 Tôi luôn luôn cảm tạ CHÚA,
Miệng tôi hằng ca ngợi Ngài.
2 Linh hồn tôi hãnh diện trong CHÚA,
Những kẻ khốn cùng sẽ nghe và vui mừng.
3 Hãy cùng tôi tán dương CHÚA,
Hãy cùng nhau ca ngợi danh Ngài.
4 Tôi đã cầu khẩn CHÚA và Ngài đáp lời tôi,
Ngài cũng giải cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ.
5 Những người ngưỡng trông Ngài được chiếu sáng,
Và mặt họ chẳng hề hổ thẹn.
6 Kẻ khốn cùng này kêu cầu, CHÚA nghe lời người,
Và giải cứu người khỏi mọi điều khốn khổ.
7 Thiên sứ CHÚA đóng trại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài
Và giải cứu họ.
8 Hãy nếm và xem CHÚA tốt lành dường bao!
Phước cho người nào trú ẩn nơi Ngài.
9 Hỡi các thánh, hãy kính sợ CHÚA.
Vì người nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì.
10 Sư tử tơ còn thiếu thốn đói khát,
Nhưng những người cầu khẩn CHÚA không thiếu một điều tốt lành nào.
11 Hỡi các con, hãy đến nghe ta,
Ta sẽ dạy các con sự kính sợ CHÚA.
12 Ai là người khao khát sống,
Thích được trường thọ[a] để thấy phước lành.
13 Hãy giữ lưỡi mình khỏi lời độc ác,
Và môi mình khỏi lời gian dối.
14 Hãy lánh điều dữ và làm điều lành,
Hãy tìm kiếm và theo đuổi hòa bình.
15 Mắt CHÚA chăm nom người công chính,
Tai Ngài nghe tiếng kêu cầu của họ.
16 Mặt CHÚA nghịch cùng kẻ làm ác,
Để chặt bỏ kỷ niệm chúng khỏi mặt đất.
17 Người công chính kêu cứu, CHÚA đã nghe,
Và giải cứu họ khỏi mọi điều khốn khổ.
18 CHÚA ở gần những người có tấm lòng đau thương,
Và cứu những người có tâm linh thống hối.
19 Người công chính gặp nhiều hoạn nạn,
Nhưng CHÚA giải cứu người thoát cả.
20 Ngài gìn giữ tất cả xương cốt người,
Không một cái nào bị gãy.
21 Sự dữ sẽ giết kẻ ác,
Và những kẻ ghét người công chính sẽ bị định tội.
22 CHÚA cứu chuộc linh hồn tôi tớ Ngài,
Và tất cả những ai trú ẩn nơi Ngài sẽ không bị định tội.
Thánh Thi Đa-vít Để Dạy Dỗ Khi Đô-e, Người Ê-đôm Báo Cho Sau-lơ Biết Đa-vít Đã Vào Nhà A-bi-mê-léc
52 Hỡi người mạnh bạo,[a]
Tại sao ngươi khoe khoang về điều ác?
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời tồn tại mãi mãi.
2 Ngươi mưu toan hủy diệt,
Lưỡi ngươi như dao cạo bén
Nói[b] điều lừa dối.
3 Ngươi chuộng điều ác hơn điều thiện,
Thích gian dối hơn lời ngay thẳng. Sê-la
4 Hỡi lưỡi lừa dối,
Ngươi thích tất cả những lời độc hại.[c]
5 Cho nên,[d] Đức Chúa Trời sẽ phá hủy ngươi hoàn toàn.[e]
Ngài sẽ bắt ngươi,[f] kéo ngươi ra khỏi trại
Và nhổ ngươi khỏi đất người sống. Sê-la
6 Nhưng những người công chính sẽ thấy và sợ.
Họ sẽ cười ngươi rằng:
7 Kìa, là người không cậy Đức Chúa Trời
Làm thành lũy mình,
Nhưng tin cậy nơi sự giàu có dư dật của mình,
Trở nên mạnh mẽ[g] trong sự gian ác mình.[h]
8 Nhưng tôi thì giống như cây ô-liu
Xanh tươi trong nhà Đức Chúa Trời.
Tôi hằng tin cậy nơi tình yêu thương của Đức Chúa Trời
Đến đời đời.
9 Tôi ca ngợi Ngài đời đời vì những điều Ngài đã làm.[i]
Tôi sẽ trông cậy nơi danh Ngài trước mặt những người trung tín của Ngài[j]
Vì danh ấy là tốt lành.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)