Add parallel Print Page Options

Con cái Chúa phải vâng phục các nhà cầm quyền

13 Anh chị em phải vâng phục chính quyền, vì chẳng ai có thể cầm quyền nếu Thượng Đế không cho phép. Các nhà cầm quyền đều do Thượng Đế thiết lập. Cho nên ai chống chính quyền tức là chống Thượng Đế. Người ấy sẽ rước lấy trừng phạt. Ai làm đúng thì không có gì phải sợ chính quyền; ai làm sai mới sợ thôi. Anh chị em muốn khỏi sợ nhà cầm quyền không? Hãy làm điều phải thì anh chị em sẽ được khen ngợi. Các quan quyền là đầy tớ Thượng Đế, để phục vụ anh chị em. Nhưng nếu anh chị em làm quấy thì hãy thận trọng vì họ có quyền trừng phạt. Họ là đầy tớ Thượng Đế để trừng phạt người làm quấy. Cho nên các anh chị em phải vâng phục chính quyền, không phải để khỏi bị phạt mà là vì anh chị em biết làm điều phải.

Read full chapter

Thái Ðộ Ðối Với Nhà Cầm Quyền

13 Mỗi người hãy phục tùng nhà cầm quyền, vì chẳng có quyền lực nào không đến từ Ðức Chúa Trời, và những nhà cầm quyền hiện có đều do Ðức Chúa Trời chỉ định. Như vậy ai chống lại nhà cầm quyền là chống lại những gì Ðức Chúa Trời đã chỉ định. Những người chống đối như thế sẽ chuốc lấy án phạt cho mình, vì nhà chức trách không phải là nỗi sợ hãi cho người làm điều tốt, nhưng cho kẻ làm điều xấu. Bạn muốn không sợ nhà cầm quyền chăng? Hãy làm điều tốt, thì bạn sẽ được khen ngợi. Vì nhà cầm quyền là tôi tớ của Ðức Chúa Trời để làm điều tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn làm điều xấu, bạn có cớ để sợ, vì họ mang gươm không phải vô cớ đâu; vì nhà cầm quyền là tôi tớ của Ðức Chúa Trời để thi hành án phạt đối với những kẻ làm điều xấu. Vì vậy chúng ta cần phải phục tùng họ, không phải chỉ vì sợ bị phạt, nhưng cũng vì cớ lương tâm nữa.

Read full chapter

Pho tượng vàng và lò lửa hực

Vua Nê-bu-cát-nết-xa đúc một tượng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước và dựng trong đồng bằng Đu-ra, thuộc vùng Ba-by-lôn. Rồi vua gọi các lãnh tụ: các tổng đốc, phụ tá tổng đốc, sĩ quan chỉ huy quân đội, các cố vấn hoàng gia, các thủ quỹ ngân khố, thẩm phán, quan cai trị, và tất cả các viên chức trong nước. Vua muốn họ đến tham dự lễ đặc biệt cung hiến pho tượng mà vua đã dựng nên. Tất cả mọi người đều đến dự buổi lễ đặc biệt đó và đứng trước mặt pho tượng vua Nê-bu-cát-nết-xa đã dựng. Rồi viên chức truyền lệnh của vua dõng dạc tuyên bố, “Hỡi các dân, các quốc gia, các thứ tiếng, các ngươi phải làm như sau: Khi các ngươi nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục [a], đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác thì phải quì xuống bái lạy tượng vàng mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã dựng lên. Ai không cúi xuống bái lạy sẽ lập tức bị ném vào lò lửa hừng.”

Bấy giờ các dân, các quốc gia, các người nói đủ mọi thứ tiếng có mặt ở đó. Khi nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục, đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác, tất cả đều cúi xuống bái lạy tượng vàng mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã dựng.

Tuy nhiên có mấy người Ba-by-lôn đến cùng vua và tố cáo mấy người Giu-đa. Họ tâu cùng vua Nê-bu-cát-nết-xa, “Tâu vua, chúc vua vạn tuế! 10 Thưa vua, ngài đã ra lệnh rằng khi nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục, đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác thì mọi người phải cúi xuống bái lạy tượng vàng. 11 Ai bất tuân sẽ bị ném vào lò lửa hừng. 12 Thưa vua, có mấy người Giu-đa mà vua tiến cử làm quan cai trị vùng Ba-by-lôn không thèm đến xỉa đến lệnh vua. Bọn đó là Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Chúng không thờ các thần của vua cũng không bái lạy tượng vàng vua đã dựng.”

13 Vua Nê-bu-cát-nết-xa nổi lôi đình và cho triệu Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô đến. Khi họ bị điệu đến trước mặt vua, 14 thì Nê-bu-cát-nết-xa liền hỏi, “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, có đúng là các anh không phục vụ các thần của ta và không chịu bái lạy tượng vàng ta đã dựng không? 15 Lát nữa đây các anh lại sẽ nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục, đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác. Lúc ấy nếu các anh chịu cúi lạy tượng ta dựng thì tốt, bằng không các anh sẽ bị ném ngay vào lò lửa hừng. Rồi xem thử thần nào sẽ cứu các anh khỏi tay ta nhé?”

16 Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô thưa với vua rằng, “Thưa vua Nê-bu-cát-nết-xa, chúng tôi không cần phải tự bênh vực mình trước mặt vua. 17 Nếu vua ném chúng tôi vào lò lửa thì Thượng Đế mà chúng tôi phục vụ sẽ có thể giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa hừng. Ngài cũng sẽ cứu chúng tôi khỏi quyền lực của vua. 18 Mà dù cho Thượng Đế không giải cứu chúng tôi đi nữa thì chúng tôi muốn vua biết rằng: Chúng tôi sẽ không phục vụ các thần của vua hay bái lạy tượng vàng vua đã dựng.”

19 Vua Nê-bu-cát-nết-xa nổi trận lôi đình và đổi thái độ đối với Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Vua ra lệnh đốt lò lửa nóng gấp bảy lần hơn bình thường. 20 Rồi vua ra lệnh các binh sĩ lực lưỡng nhất của mình trói Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô lại và ném họ vào lò lửa hừng.

21 Vậy Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô bị trói và bị quăng vào lò lửa hừng trong khi vẫn còn mặc áo, quần, khăn vành và các y phục khác. 22 Lệnh vua nghiêm nhặt và lò lửa nóng đến nỗi sức nóng thiêu cháy các binh sĩ lực lưỡng đã ném Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô vào lò. 23 Bị trói chặt, Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, rơi vào lò lửa hừng.

24 Nhưng vua Nê-bu-cát-nết-xa vô cùng ngạc nhiên đến nỗi vua vùng đứng lên. Vua hỏi mấy cố vấn, “Có phải chúng ta trói ba người ném vào lửa không?”

Họ thưa, “Dạ phải.”

25 Nhà vua bảo, “Xem kìa! Ta thấy bốn người đang đi trong lửa. Họ không bị trói cũng không bị phỏng. Người thứ tư giống như con trai của các thần.”

26 Vua Nê-bu-cát-nết-xa liền tiến đến miệng lò kêu lớn, “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô ơi, hãy bước ra! Tôi tớ của Thượng Đế Chí Cao, hãy đến đây!”

Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô liền từ đám lửa đi ra. 27 Khi họ bước ra thì các thống đốc, các phụ tá, các viên sĩ quan chỉ huy quân đội, các cố vấn hoàng gia vây quanh họ và thấy rằng lửa không làm gì hại đến thân thể họ. Tóc họ không bị sém, áo quần không bị cháy, và họ cũng chẳng có mùi khói nữa!

28 Vua Nê-bu-cát-nết-xa tuyên bố, “Đáng ca ngợi Thượng Đế của Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Ngài đã sai thiên sứ giải cứu tôi tớ Ngài khỏi ngọn lửa! Ba người nầy tin cậy Thượng Đế mình, dám cãi lệnh ta. Họ chẳng thà chịu chết hơn phục vụ hay bái lạy thần nào khác ngoài Thượng Đế của mình. 29 Cho nên ta ra lệnh nầy: Bất cứ ai thuộc dân tộc hay ngôn ngữ nào nói phạm đến Thượng Đế của Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô sẽ bị phanh thây, và nhà nó sẽ biến thành đống gạch vụn. Không có thần nào có thể giải cứu như thế nầy được.” 30 Rồi vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô trong vùng Ba-by-lôn.

Footnotes

  1. Ða-ni-ên 3:5 đờn thập lục Một nhạc cụ có lẽ có 6 hoặc 7 dây tương tự như đờn cầm. Tên loại nhạc cụ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ được vay mượn từ thứ tiếng khác, có lẽ là tiếng Hi-lạp.

Pho Tượng Bằng Vàng

Vua Nê-bu-cát-nê-xa cho làm một pho tượng bằng vàng, cao ba mươi mét và rộng ba mét.[a] Ông dựng pho tượng ấy lên trong đồng bằng Ðu-ra, trong tỉnh Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nê-xa truyền triệu tập các thống đốc, các tỉnh trưởng, các tổng trấn, các mưu sĩ, các tổng giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các chánh án, và tất cả các quan chức trong các tỉnh đến để dự lễ khánh thành pho tượng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên.

Vậy các thống đốc, các tỉnh trưởng, các tổng trấn, các mưu sĩ, các tổng giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các chánh án, và tất cả các quan chức trong các tỉnh đều tề tựu đông đủ để tham dự lễ khánh thành pho tượng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên, và họ đều đứng trước pho tượng Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên. Bấy giờ vị quan điều khiển buổi lễ hô to, “Ðây là lịnh truyền cho các ngươi phải làm, hỡi tất cả các dân, các nước, và các ngữ tộc: Hễ khi nào các ngươi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, tiếng trống, và mọi thứ nhạc khí khác cùng trỗi lên, các ngươi phải sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên. Kẻ nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng sẽ lập tức bị quăng vào giữa lò lửa hừng.”

Vì thế khi mọi người nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, cùng với mọi thứ nhạc khí khác trỗi lên, mọi dân, mọi nước, và mọi ngữ tộc có mặt lúc đó đều sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên.

Khi ấy có mấy chiêm tinh gia người Canh-đê bước đến tố cáo những người Giu-đa. Họ tâu với Vua Nê-bu-cát-nê-xa, “Tâu hoàng thượng, chúc hoàng thượng sống vạn tuế. 10 Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã ban một sắc lịnh rằng bất cứ người nào khi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, tiếng trống, và mọi thứ nhạc khí khác cùng trỗi lên thì phải sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng. 11 Còn kẻ nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng ấy sẽ lập tức bị quăng vào giữa lò lửa hừng. 12 Thế nhưng có mấy người Giu-đa hoàng thượng đã lập lên làm quan điều hành công việc trong tỉnh Ba-by-lôn là Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, tâu hoàng thượng, mấy người ấy chẳng coi lịnh của hoàng thượng ra gì. Họ chẳng phục vụ các thần của hoàng thượng hay thờ lạy pho tượng vàng hoàng thượng đã dựng lên.”

13 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa đùng đùng nổi giận. Ông truyền đem Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô đến ngay. Vậy họ dẫn những người ấy đến trước mặt vua. 14 Nê-bu-cát-nê-xa hỏi họ, “Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, có thật là các ngươi không phục vụ các thần của ta, hay không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng lên chăng? 15 Bây giờ các ngươi khá sẵn sàng, hễ khi các ngươi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, tiếng trống, và mọi thứ nhạc khí khác cùng trỗi lên, nếu các ngươi sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng ta đã làm thì tốt. Nhưng nếu các ngươi không thờ lạy, các ngươi sẽ lập tức bị quăng vào giữa lò lửa hừng. Rồi để xem thần nào có thể cứu các ngươi khỏi tay ta chăng?”

16 Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô trả lời với vua, “Tâu Vua Nê-bu-cát-nê-xa, về việc nầy chúng thần không cần phải binh vực cho chúng thần trước mặt hoàng thượng đâu. 17 Nếu hoàng thượng nhất định quăng chúng thần vào giữa lò lửa hừng thì Ðức Chúa Trời chúng thần thờ phượng sẽ giải cứu chúng thần khỏi lò lửa ấy, và Ngài sẽ giải cứu chúng thần khỏi tay hoàng thượng, tâu hoàng thượng. 18 Nhưng nếu Ngài không giải cứu chúng thần, thì tâu hoàng thượng, chúng thần xin hoàng thượng biết rằng chúng thần sẽ không phục vụ các thần của hoàng thượng hay thờ lạy pho tượng vàng mà hoàng thượng đã dựng lên đâu.”

Lò Lửa Hừng

19 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa cực kỳ tức giận. Da mặt ông đổi màu nghịch lại Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô. Ông truyền lịnh đốt lò lửa nóng gấp bảy lần mức bình thường. 20 đoạn ông truyền cho các dũng sĩ lực lưỡng nhất trong quân đội của ông trói Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô lại, rồi ném họ vào lò lửa đang cháy hừng hực. 21 Vậy những người ấy bị trói lại và bị quăng vào giữa lò lửa hực. Họ vẫn còn mặc áo choàng, quần dài, khăn trùm đầu, và quần áo lót bên trong. 22 Số là lịnh vua truyền quá cấp bách, và lò lửa lại nóng gấp nhiều lần hơn mức bình thường, nên các dũng sĩ có nhiệm vụ quăng Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô vào lò lửa đã bị ngọn lửa quá nóng làm chết. 23 Còn ba người đó, Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, tay chân bị trói chặt, đã rơi vào giữa lò lửa hực.

24 Bấy giờ Vua Nê-bu-cát-nê-xa lấy làm cực kỳ kinh ngạc và bật đứng dậy. Ông hỏi các mưu sĩ của ông, “Chẳng phải chúng ta đã trói ba người và quăng vào lò lửa hay sao?”

Họ đáp với ông, “Tâu hoàng thượng, đúng vậy.”

25 Ông nói, “Hãy nhìn kìa! Ta thấy bốn người không bị trói đang đi giữa lò lửa, và họ chẳng bị hại gì; và hình dáng của người thứ tư giống như Con của Ðức Chúa Trời.[b]

26 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa đến gần miệng lò lửa đang cháy hừng hực và kêu lớn, “Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, các đầy tớ của Ðức Chúa Trời Tối Cao, hãy đi ra, và hãy đến đây.” Vậy Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô bước ra khỏi lò lửa. 27 Khi ấy các thống đốc, các tỉnh trưởng, các tổng trấn, và các mưu sĩ của vua tụ lại quanh ba người ấy; họ thấy lửa không làm hại gì đến thân thể ba người ấy. Không sợi tóc nào trên đầu họ bị cháy sém, quần áo họ không bị một chút hư hại gì, và mùi lửa cũng không ngửi thấy trên người họ.

28 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa nói, “Nguyện sự chúc tụng thuộc về Ðức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, Ðấng đã sai thiên sứ của Ngài đến giải cứu các đầy tớ Ngài, những người tin cậy Ngài. Họ đã bất tuân lịnh vua, và thà chịu chết hơn là thờ phượng bất cứ thần nào khác ngoại trừ Ðức Chúa Trời của họ. 29 Vì thế ta truyền lịnh rằng bất cứ dân nào, nước nào, hay ngữ tộc nào nói điều gì xúc phạm đến Ðức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô sẽ bị phân thây ra từng mảnh, và nhà của chúng sẽ bị biến thành một đống tro, vì không thần nào khác có thể giải cứu được như thế nầy.” 30 Sau đó vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn.

Footnotes

  1. Ða-ni-ên 3:1 nt: cao 60 ammiyin và rộng 6 ammiyin (tiếng A-ram)
  2. Ða-ni-ên 3:25 ctd: một con trai của các vị thần

Đa-niên trong hang sư tử

Vua Đa-ri-út nghĩ nên chọn một trăm hai mươi thống đốc để cai trị toàn vương quốc mình. Vua chọn ba quan để giám sát các thống đốc, và Đa-niên là một trong ba quan đó. Nhiệm vụ của quan giám sát là để cho các thống đốc không lường gạt nhà vua. Đa-niên chứng tỏ mình có thể làm hơn các quan giám sát và thống đốc cho nên vua dự định đề cử Đa-niên cai quản cả xứ. Vì thế các quan giám sát và thống đốc kia tìm cách tố cáo Đa-niên trong công vụ nhưng họ không tìm được khuyết điểm hay lý do gì để tố cáo ông vì Đa-niên rất đáng tin, không lười biếng hay bất lương. Sau cùng họ bảo nhau, “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được lý do gì để tố cáo Đa-niên ngoại trừ lý do liên quan đến luật lệ của Thượng Đế nó.”

Nên các quan giám sát và thống đốc họp nhau đi đến yết kiến vua và tâu: “Chúc vua Đa-ri-út vạn tuế! Các quan giám sát, phụ tá thống đốc, các thống đốc, cố vấn vua, và sĩ quan chỉ huy quân đội đều đồng ý rằng vua nên ra một luật mới cho mọi người tuân theo: Trong vòng ba mươi ngày tới đây không ai được phép cầu nguyện cùng thần nào khác ngoài vua. Ai vi phạm sẽ bị ném vào hang sư tử. Bây giờ xin vua ra luật đó và ký vào để không thể thay đổi được vì là luật của người Mê-đi và Ba-tư, không thể hủy bỏ.” Thế là vua Đa-ri-út ký đạo luật ấy.

10 Sau khi Đa-niên biết rằng luật mới đã ký, ông vẫn lên lầu nhà mình cầu nguyện, các cửa sổ lầu mở về hướng Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày ba lần Đa-niên quì gối xuống cầu nguyện và cảm tạ Thượng Đế như vẫn làm từ trước.

11 Bọn đó thấy Đa-niên cầu nguyện xin Thượng Đế giúp đỡ. 12 Chúng liền đến trình với vua về luật mới mà vua ban hành. Chúng tâu, “Thưa vua, có phải vua ban hành luật qui định rằng không ai được phép cầu nguyện với thần hay người nào khác ngoài vua không? Có phải luật đó nói rằng trong ba mươi ngày sắp đến ai bất tuân sẽ bị ném vào hang sư tử không?”

Vua đáp, “Đúng, đó là luật của người Mê-đi và Ba-tư không thể hủy bỏ được.”

13 Bọn chúng liền tâu với vua, “Thưa vua, Đa-niên, một trong những tù binh Giu-đa, không thèm đếm xỉa đến vua hay luật vua đã ký. Nó vẫn cứ cầu nguyện cùng Thượng Đế mỗi ngày ba lần.” 14 Khi nghe vậy vua rất lấy làm bực dọc. Vua muốn cứu Đa-niên nên cố gắng cho đến chiều tối tìm mọi cách cứu ông.

15 Bọn chúng họp lại cùng đi gặp vua. Chúng bảo, “Xin vua nhớ cho rằng luật của người Mê-đi và Ba-tư qui định rằng một khi luật hay mệnh lệnh vua ban ra thì không thể thay đổi được.”

16 Nên vua Đa-ri-út buộc lòng ra lệnh bắt Đa-niên ném vào hang sư tử. Vua bảo Đa-niên, “Nguyện Thượng Đế mà ngươi hằng phục vụ giải cứu ngươi!” 17 Người ta lấy một tảng đá lớn chận miệng hang. Rồi vua đóng ấn và ấn của các sĩ quan hoàng gia trên tảng đá để không ai có thể dời tảng đá mà mang Đa-niên ra. 18 Sau đó vua Đa-ri-út trở về cung. Đêm đó vua không ăn cũng không cho ban nhạc đến giải trí. Vua cũng không ngủ được.

19 Sáng hôm sau vua Đa-ri-út dậy sớm vội vàng đi đến hang sư tử. 20 Khi đến gần hang, vua rất lo ngại. Vua kêu lớn cùng Đa-niên, “Đa-niên, tôi tớ của Thượng Đế hằng sống ơi! Thượng Đế mà ngươi luôn luôn thờ phụng có giải cứu ngươi khỏi sư tử không?”

21 Đa-niên đáp, “Vua vạn tuế! 22 Thượng Đế tôi đã sai thiên sứ Ngài bịt mồm sư tử cho nên chúng nó không làm hại tôi vì Ngài biết tôi vô tội. Thưa vua, tôi không có làm gì thiệt hại cho vua.”

23 Vua Đa-ri-út vô cùng mừng rỡ và ra lệnh cho các tôi tớ đưa Đa-niên ra khỏi hang. Họ mang ông ra khỏi hang và nhận thấy ông không bị thương tích gì vì Đa-niên tin cậy Thượng Đế mình.

24 Rồi vua liền truyền lệnh ném những kẻ đã tố cáo Đa-niên vào hang sư tử. Bọn đó, vợ con chúng đều bị ném vào hang. Trước khi chúng rơi đến đáy hang thì sư tử vồ lấy xé nát xương chúng.

25 Rồi Đa-ri-út viết một văn thư gởi các dân tộc, các quốc gia, các người nói mọi thứ ngôn ngữ trên thế giới:

“Ta chúc bình an và thịnh vượng cho các ngươi.

26 Ta nay ban hành một luật mới cho các dân sống trong vương quốc ta. Tất cả các ngươi phải kính sợ Thượng Đế của Đa-niên.

Thượng Đế của Đa-niên là Thượng Đế hằng sống;
    Ngài sống mãi mãi.
Nước Ngài không bao giờ bị tiêu diệt,
    quyền cai trị của Ngài không bao giờ chấm dứt.
27 Ngài giải cứu mọi dân và làm nhiều phép lạ
    lớn lao trên trời và dưới đất.
Ngài là Đấng giải cứu Đa-niên
    khỏi mãnh lực sư tử.”

28 Đa-niên được trọng vọng suốt triều đại Đa-ri-út và Xi-ru của Ba-tư.

Âm Mưu Hại Ða-ni-ên

Ða-ri-út lấy làm hài lòng bổ nhiệm một trăm hai mươi thống đốc cai trị trên cả vương quốc của ông. Các thống đốc ấy ở dưới quyền của ba quan đại thần, và Ða-ni-ên là một trong ba vị đó. Các thống đốc phải chịu trách nhiệm với ba quan đại thần đó để vua không bị thiệt hại gì. Lúc ấy Ða-ni-ên nổi bật hơn hai vị đại thần kia và các vị thống đốc, vì thần trí phi phàm ở trong ông; do đó vua có ý muốn lập ông làm tể tướng để trị vì trên cả vương quốc. Vì thế các đại thần và các thống đốc tìm mọi cớ để bắt lỗi Ða-ni-ên về công việc triều chính, nhưng họ chẳng tìm được một lý cớ nào, vì ông là một người trung thành, không tham nhũng, và không có lỗi lầm gì. Cuối cùng những người ấy nói với nhau, “Chúng ta không thể tìm ra lỗi lầm nào của ông Ða-ni-ên nầy hầu tố cáo ông ấy cả, trừ phi chúng ta đi tìm những sơ hở của ông ấy trong việc giữ luật Ðức Chúa Trời của ông ấy.”

Vậy các quan đại thần và các thống đốc hẹn nhau cùng đến ra mắt vua, và họ tâu với vua, “Tâu Vua Ða-ri-út! Kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế! Tất cả các đại thần, các triều thần, các thống đốc, các mưu sĩ, và các tổng trấn đã đồng ý xin hoàng thượng ban hành một sắc lịnh và lập nó thành một sắc luật bất di bất dịch rằng: Trong vòng ba mươi ngày, hễ ai cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào khác hơn hoàng thượng, tâu hoàng thượng, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử. Tâu hoàng thượng, bây giờ xin hoàng thượng lập nó thành một sắc luật và ký tên vào văn bản, để nó không bị thay đổi theo như luật của người Mê-đi và người Ba-tư, và nó không bị thu hồi.” Thế là Vua Ða-ri-út ký tên vào văn bản của sắc luật ấy.

Ða-ni-ên Bị Quăng Vào Hang Sư Tử

10 Lúc đó sau khi Ða-ni-ên biết văn bản của sắc luật đã được vua ký, ông về nhà, lên phòng trên lầu, nơi có các cửa sổ mở hướng về Giê-ru-sa-lem, mỗi ngày ba lần, ông quỳ xuống, cầu nguyện, và ca ngợi Ðức Chúa Trời của ông, như ông vẫn thường làm từ trước đến giờ. 11 Bấy giờ những người ấy kéo nhau đến nhà ông. Họ thấy Ða-ni-ên đang cầu nguyện và kêu xin trước mặt Ðức Chúa Trời của ông. 12 Thế là họ vào chầu vua và tâu với vua về sắc luật vua đã ban hành, “Tâu hoàng thượng, chẳng phải hoàng thượng đã ban hành một sắc luật rằng trong vòng ba mươi ngày không ai được cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào khác hơn hoàng thượng, bằng không, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử sao?”

Vua đáp, “Sắc luật ấy đã ban hành, và theo luật của người Mê-đi và người Ba-tư, sắc luật ấy không thể bị thu hồi.”

13 Bấy giờ họ tâu với vua, “Ða-ni-ên, một trong những kẻ bị lưu đày của dân Giu-đa, đã chẳng coi hoàng thượng ra gì, tâu hoàng thượng. Ông ấy cũng chẳng coi sắc lịnh của hoàng thượng đã ký ra gì, vì ngày nào ông ấy cũng cầu nguyện ba lần.”

14 Khi vua nghe những lời ấy, ông rất đau buồn, và ông vận dụng tâm trí để tìm cách cứu Ða-ni-ên. Ông vật vã suy nghĩ mãi cho đến khi mặt trời lặn để tìm cách cứu Ða-ni-ên. 15 Bấy giờ những người đó họp lại với nhau và đến nói với vua, “Tâu hoàng thượng, chắc hẳn hoàng thượng biết rằng theo luật của người Mê-đi và người Ba-tư, mỗi khi sắc lịnh hay sắc luật đã được nhà vua ban hành thì nó không thể thay đổi được.”

16 Vậy vua ban lịnh. Họ liền đem Ða-ni-ên và quăng ông vào hang sư tử. Vua cất tiếng và nói với Ða-ni-ên, “Cầu xin Ðức Chúa Trời, Ðấng ngươi hằng thờ phượng, giải cứu ngươi.” 17 Sau đó người ta mang một tảng đá lớn đến chận miệng hang. Vua đóng ấn tín của ông trên đó, và các đại thần cũng đóng ấn dấu của họ trên đó, để xác nhận rằng vụ Ða-ni-ên không còn gì thay đổi nữa. 18 Sau đó vua trở về cung điện mình. Tối hôm đó ông không thiết ăn uống gì cả, ông cũng không muốn đem ban nhạc đến giải khuây, và suốt đêm đó ông không ngủ được.

Ða-ni-ên Ðược Cứu Khỏi Hang Sư Tử

19 Sáng hôm sau vua thức dậy thật sớm và vội vàng đi đến hang sư tử. 20 Khi đến gần hang, ông cất tiếng gọi Ða-ni-ên với giọng rất bi thương. Vua cất tiếng và nói với Ða-ni-ên, “Hỡi Ða-ni-ên tôi tớ của Ðức Chúa Trời hằng sống, Ðức Chúa Trời, Ðấng ngươi hằng thờ phượng, có thể giải cứu ngươi khỏi các sư tử chăng?”

21 Bấy giờ Ða-ni-ên trả lời với vua, “Tâu hoàng thượng, kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế! 22 Ðức Chúa Trời của hạ thần đã sai thiên sứ của Ngài bịt mồm các sư tử; vì thế chúng không làm gì hại đến hạ thần, vì Ngài thấy hạ thần vô tội trước mặt Ngài, và hạ thần cũng chẳng làm điều gì sai trước mặt hoàng thượng, tâu hoàng thượng.”

23 Bấy giờ vua rất đỗi vui mừng và truyền lịnh đem Ða-ni-ên lên khỏi hang. Vậy Ða-ni-ên được đem lên khỏi hang sư tử. Người ta thấy ông không bị hại một chút gì, vì ông đã tin cậy Ðức Chúa Trời của ông. 24 Kế đó vua truyền lịnh đem những kẻ đã tố cáo Ða-ni-ên đến. Người ta quăng chúng cùng với vợ con chúng vào hang sư tử. Trước khi chúng rơi tới đáy hang, các sư tử đã nhảy lên vồ lấy chúng và xé thây chúng ra từng mảnh.

25 Sau đó Vua Ða-ri-út viết, “Gởi đến các dân, các nước, và các ngữ tộc sống trên khắp đất. Cầu mong các ngươi được bình an thịnh vượng bội phần. 26 Ta ban hành chiếu chỉ nầy để truyền cho mọi người trong vương quốc phải run rẩy và kính sợ trước mặt Ðức Chúa Trời của Ða-ni-ên, vì Ngài là Ðức Chúa Trời hằng sống và tồn tại đời đời. Vương quốc Ngài sẽ không bao giờ bị diệt mất, và quyền bính Ngài sẽ không bao giờ tận cùng. 27 Ngài giải thoát và giải cứu. Ngài làm các dấu kỳ và các phép lạ trên trời và dưới đất. Ngài đã giải thoát Ða-ni-ên khỏi các nanh vuốt của sư tử.”

28 Vậy Ða-ni-ên được thịnh vượng trong triều đại của Ða-ri-út và trong triều đại của Sy-ru người Ba-tư.

29 Phia-rơ và các sứ đồ khác đáp, “Chúng tôi phải vâng lời Thượng Đế chứ không thể vâng lời nhà cầm quyền loài người!

Read full chapter

29 Bấy giờ Phi-rơ và các sứ đồ trả lời và nói, “Chúng tôi phải vâng lời Ðức Chúa Trời hơn vâng lời người ta.

Read full chapter

Con cái Chúa phải vâng phục các nhà cầm quyền

13 Anh chị em phải vâng phục chính quyền, vì chẳng ai có thể cầm quyền nếu Thượng Đế không cho phép. Các nhà cầm quyền đều do Thượng Đế thiết lập. Cho nên ai chống chính quyền tức là chống Thượng Đế. Người ấy sẽ rước lấy trừng phạt. Ai làm đúng thì không có gì phải sợ chính quyền; ai làm sai mới sợ thôi. Anh chị em muốn khỏi sợ nhà cầm quyền không? Hãy làm điều phải thì anh chị em sẽ được khen ngợi. Các quan quyền là đầy tớ Thượng Đế, để phục vụ anh chị em. Nhưng nếu anh chị em làm quấy thì hãy thận trọng vì họ có quyền trừng phạt. Họ là đầy tớ Thượng Đế để trừng phạt người làm quấy. Cho nên các anh chị em phải vâng phục chính quyền, không phải để khỏi bị phạt mà là vì anh chị em biết làm điều phải.

Read full chapter

Thái Ðộ Ðối Với Nhà Cầm Quyền

13 Mỗi người hãy phục tùng nhà cầm quyền, vì chẳng có quyền lực nào không đến từ Ðức Chúa Trời, và những nhà cầm quyền hiện có đều do Ðức Chúa Trời chỉ định. Như vậy ai chống lại nhà cầm quyền là chống lại những gì Ðức Chúa Trời đã chỉ định. Những người chống đối như thế sẽ chuốc lấy án phạt cho mình, vì nhà chức trách không phải là nỗi sợ hãi cho người làm điều tốt, nhưng cho kẻ làm điều xấu. Bạn muốn không sợ nhà cầm quyền chăng? Hãy làm điều tốt, thì bạn sẽ được khen ngợi. Vì nhà cầm quyền là tôi tớ của Ðức Chúa Trời để làm điều tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn làm điều xấu, bạn có cớ để sợ, vì họ mang gươm không phải vô cớ đâu; vì nhà cầm quyền là tôi tớ của Ðức Chúa Trời để thi hành án phạt đối với những kẻ làm điều xấu. Vì vậy chúng ta cần phải phục tùng họ, không phải chỉ vì sợ bị phạt, nhưng cũng vì cớ lương tâm nữa.

Read full chapter

Vì thế mà anh chị em đóng thuế. Các nhà cầm quyền phục vụ Thượng Đế khi họ thi hành nhiệm vụ. Mắc nợ ai thì trả cho người ấy. Thiếu thuế ai thì trả cho người đó. Hãy trọng người đáng trọng, kính người đáng kính.

Read full chapter

Vì cớ đó bạn phải đóng thuế, bởi nhà cầm quyền là tôi tớ của Ðức Chúa Trời, và họ cần dùng trọn thì giờ để thi hành nhiệm vụ.

Hãy trả cho mọi người những gì mình nợ: đóng thuế cho người mình phải đóng thuế, nộp sưu cho người mình phải nộp sưu, sợ người đáng sợ, kính người đáng kính.

Read full chapter

22 Xin thầy cho chúng tôi biết, chúng ta có nên đóng thuế cho Xê-xa hay không?”

23 Nhưng Chúa Giê-xu biết âm mưu họ muốn gài bẫy Ngài, nên hỏi, 24 “Đưa ta xem một đồng tiền. Hình và danh hiệu trên đồng nầy là của ai?”

Họ đáp, “Của Xê-xa.”

25 Chúa Giê-xu bảo, “Thế thì cái gì của Xê-xa hãy trả lại cho Xê-xa, còn cái gì của Thượng Đế, thì hãy trả lại cho Thượng Đế.”

Read full chapter

22 Chúng ta có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?”

23 Nhưng Ngài nhìn thấy rõ lòng xảo quyệt của họ nên nói với họ, 24 “Hãy cho Ta xem một đồng tiền. [a] Hình ảnh và danh hiệu này của ai?”

Họ đáp, “Của Sê-sa.”

25 Ngài phán, “Hãy trả cho Sê-sa những gì của Sê-sa, và hãy trả cho Ðức Chúa Trời những gì của Ðức Chúa Trời.”

Read full chapter

Footnotes

  1. Lu-ca 20:24 nt: một đơ-na-ri

12 Hãy tôn kính cha mẹ ngươi để ngươi được sống lâu trong xứ mà CHÚA là Thượng Đế sẽ ban cho ngươi.

Read full chapter

12 Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất mà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, ban cho ngươi.

Read full chapter

32 Hãy kính trọng người già cả; hãy đứng dậy trước mặt họ. Cũng hãy tôn trọng Thượng Đế [a] ngươi. Ta là Chúa ngươi.

Read full chapter

Footnotes

  1. Lê-vi 19:32 Thượng Đế Hay “lãnh tụ.”

32 Trước mặt người cao niên, ngươi hãy đứng dậy, và hãy tôn kính người già cả. Ngươi hãy kính sợ Ðức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Chúa.

Read full chapter

17 Các trưởng lão khéo léo hướng dẫn hội thánh phải nhận tưởng thưởng gấp đôi [a], nhất là những người có công giảng dạy.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Ti-mô-thê 5:17 tưởng thưởng gấp đôi Hay “hưởng lương gấp đôi.”

Cách Ðối Xử với Các Trưởng Lão Lãnh Ðạo Hội Thánh

17 Những vị trưởng lão điều hành công việc hội thánh cách tốt đẹp thì đáng được kính trọng gấp đôi, đặc biệt là những người làm việc vất vả trong chức vụ rao giảng và dạy đạo,

Read full chapter

15 Thượng Đế sẽ làm điều ấy theo đúng thời điểm. Ngài là Đấng đáng chúc tụng, Lãnh tụ duy nhất, Vua các vua, Chúa các chúa. 16 Là Đấng sống mãi mãi, Ngài ở nơi ánh sáng rực rỡ, không ai đến gần được. Chưa ai từng thấy Ngài. Nguyền vinh dự và quyền năng thuộc về Ngài đời đời. A-men.

Read full chapter

15 Ðó là điều Ðấng Chủ Tể phước hạnh và duy nhất, Vua của các vua, Chúa của các chúa, sẽ bày tỏ vào đúng thời điểm của Ngài; 16 duy chỉ Ngài là Ðấng Trường Sinh Bất Tử, ngự giữa ánh sáng không thể đến gần, Ðấng chưa hề có ai thấy hoặc có thể thấy. Nguyện sự tôn kính và quyền năng thuộc về Ngài đời đời. A-men.

Read full chapter

Hãy vâng phục các nhà cầm quyền

13 Vì danh Chúa, mọi người hãy vâng lời các nhà cầm quyền [a] trên thế gian: vua chúa là người có thẩm quyền tối cao, 14 và các quan quyền được vua sai đến để trừng phạt kẻ làm quấy và khen ngợi người làm phải. 15 Ý muốn của Thượng Đế là khi anh chị em làm phải thì anh chị em bịt miệng những kẻ ngu dại để họ khỏi nói những điều ngu xuẩn về anh chị em. 16 Hãy sống như người tự do nhưng đừng lạm dụng tự do ấy để làm ác. Hãy sống như những tôi tớ của Thượng Đế. 17 Hãy tôn trọng mọi người: Yêu anh chị em, kính Thượng Đế, trọng vua.

Read full chapter

Footnotes

  1. I Phi-rơ 2:13 mọi người … cầm quyền Nguyên văn, “mỗi định chế con người,” có nghĩa là nhà cầm quyền, tổng đốc, tổng thống, hay các nhà lãnh đạo khác của chính phủ.

Khuyên Thuận Phục Chính Quyền

13 Vì cớ Chúa xin anh chị em hãy thuận phục mọi thể chế do loài người lập ra, hoặc đối với vua như người có thẩm quyền cao, 14 hoặc đối với các tổng trấn như những người được vua sai phái để phạt những kẻ làm điều ác và thưởng những người làm điều thiện. 15 Vì ý muốn của Ðức Chúa Trời là qua những việc thiện, anh chị em sẽ làm im miệng những kẻ dại khờ thiếu hiểu biết. 16 Hãy sống như những người tự do, nhưng chớ lấy sự tự do làm bình phong che đậy những việc ác, nhưng hãy làm như các nô lệ của Ðức Chúa Trời. 17 Hãy tôn trọng mọi người. Hãy thương mến nhau trong tình anh chị em. Hãy kính sợ Ðức Chúa Trời. Hãy tôn trọng vua.

Read full chapter