Add parallel Print Page Options

Cây Gậy của A-rôn Trổ Hoa

17 Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ mang đến mười hai cây gậy; mỗi chi tộc một cây gậy, tức mỗi tộc trưởng của mỗi chi tộc sẽ mang đến một cây gậy. Hãy viết tên của mỗi người vào cây gậy của mình, và cũng hãy viết tên của A-rôn vào cây gậy của chi tộc Lê-vi, vì mỗi chi tộc sẽ có một cây gậy. Sau đó hãy đem các gậy ấy vào trong Lều Hội Kiến, và để ở phía trước Rương Giao Ước,[a] nơi Ta gặp ngươi. Cây gậy của người nào Ta chọn sẽ đâm chồi; như thế Ta sẽ làm im tiếng lằm bằm của dân I-sơ-ra-ên, đặc biệt là tiếng của những kẻ cứ lằm bằm chống lại ngươi.”

Môi-se nói lại với dân I-sơ-ra-ên, rồi tất cả tộc trưởng của họ trao cho ông cây gậy của mình; mỗi người trao một cây gậy, tức mười hai cây gậy, theo như số chi tộc; và cây gậy của A-rôn cũng để chung với các gậy ấy. Ðoạn Môi-se đem đặt các gậy ấy trước mặt Chúa trong Lều Chứng Ước.

Ngày hôm sau, Môi-se trở vào trong Lều Chứng Ước, và kìa, cây gậy của A-rôn thuộc chi tộc Lê-vi đã đâm chồi, trổ hoa, và có những trái hạnh nhân. Môi-se mang tất cả những cây gậy ở trước mặt Chúa đến cho dân I-sơ-ra-ên; họ quan sát, rồi ai nấy lấy gậy của mình lại.

10 Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy đem cây gậy của A-rôn đặt lại phía trước Rương Giao Ước,[b] để làm dấu cảnh cáo những kẻ có ý phản loạn, hầu ngươi làm im những lời lằm bằm chống lại Ta, kẻo chúng phải chết.” 11 Môi-se làm y như vậy. Chúa truyền cho ông thế nào, ông làm y thế đó.

12 Dân I-sơ-ra-ên lại nói với Môi-se, “Nầy, chúng tôi chắc chết! Chúng tôi bị diệt mất! Tất cả chúng tôi bị diệt mất! 13 Tất cả những ai đến gần Lều của Chúa đều sẽ chết. Chẳng lẽ tất cả chúng tôi đều sẽ bị phạt chết hết sao?”

Trách Nhiệm của Các Tư Tế và Người Lê-vi

18 Chúa phán với A-rôn rằng, “Ngươi, các con ngươi, và những người trong chi tộc ngươi sẽ mang lấy trách nhiệm về những tội lỗi vi phạm trong nơi thánh. Riêng ngươi và các con ngươi sẽ mang lấy trách nhiệm về những tội lỗi của chức vụ tư tế. Ngươi hãy đem các anh em ngươi trong chi tộc Lê-vi, tức những người trong tông tộc ngươi đến, để họ cộng tác với ngươi và giúp đỡ ngươi; còn ngươi và các con ngươi phải lo phục vụ trước Lều Chứng Ước. Những người đó sẽ phục vụ theo lệnh ngươi và họ sẽ phục vụ những người trong cả doanh trại. Tuy nhiên họ không được đến gần các vật dụng của nơi thánh hay đến gần bàn thờ, kẻo họ và các ngươi sẽ chết. Họ sẽ giúp đỡ ngươi thi hành những công việc ở Lều Hội Kiến, tức mọi việc liên quan đến Lều. Không người ngoài nào được phép đến gần các ngươi. Các ngươi phải thi hành các nhiệm vụ trong nơi thánh và các nhiệm vụ ở bàn thờ, hầu cơn thịnh nộ sẽ không bao giờ giáng trên dân I-sơ-ra-ên nữa. Ấy là chính Ta đã bắt lấy những anh em người Lê-vi của ngươi ra từ giữa dân I-sơ-ra-ên. Họ đã được dâng lên Chúa, và Ta ban họ làm quà cho ngươi, để họ phục vụ những công việc nơi Lều Hội Kiến. Ngươi và các con ngươi phải cẩn thận thi hành chức vụ tư tế của các ngươi về mọi việc liên quan đến bàn thờ, và những gì phải làm phía sau bức màn. Chức vụ tư tế Ta ban cho các ngươi là một đặc ân. Người ngoài nào đến gần sẽ bị xử tử.”

Phần Dành cho Tư Tế

Chúa phán với A-rôn, “Nầy, Ta ban cho ngươi trách nhiệm về các lễ vật đã dâng hiến cho Ta, tức tất cả lễ vật đã trở nên thánh mà dân I-sơ-ra-ên đã đem dâng. Ta ban các lễ vật ấy cho ngươi và cho con cái ngươi làm phần thuộc về chức vụ của người được xức dầu, và đó là một quy luật vĩnh viễn. Ðây là phần thuộc về ngươi trích từ các của lễ cực thánh không bị thiêu trong lửa: tất cả những gì được mang đến dâng đều trở thành của thánh; các của lễ chay, các của lễ chuộc tội, hoặc các của lễ tạ lỗi đều sẽ thuộc về ngươi và các con ngươi. 10 Ngươi phải ăn những của thánh đó trong nơi cực thánh; mọi người nam của ngươi đều được ăn những của thánh đó; chúng sẽ là những vật thánh cho ngươi.

11 Ðây cũng là phần thuộc về ngươi: Ta ban cho ngươi, cho các con trai và các con gái ngươi, như một quy luật vĩnh viễn: tất cả của lễ do dân I-sơ-ra-ên mang đến và được nâng cao lên để dâng sẽ thuộc về ngươi. Ai trong nhà ngươi tinh sạch sẽ được ăn các của lễ đó. 12 Ta ban cho ngươi tất cả dầu tốt nhất, tất cả rượu ngon nhất, và lúa gạo ngon nhất, tức những của lễ đầu mùa người ta đem đến dâng lên Chúa. 13 Những hoa quả đầu mùa trong ruộng vườn của họ, mà họ mang đến dâng lên Chúa, Ta ban cho ngươi. Ai trong nhà ngươi tinh sạch sẽ được ăn những lễ vật đó. 14 Tất cả những vật gì dân I-sơ-ra-ên biệt riêng ra thánh và mang đến dâng, Ta ban cho ngươi. 15 Tất cả những con đầu lòng, dù là con của người ta hay con của súc vật, được đem dâng lên Chúa, sẽ được ban cho ngươi. Nhưng ngươi phải chuộc lại con đầu lòng của người ta, và ngươi phải chuộc lại con đầu lòng của các thú vật không thanh sạch. 16 Giá để chuộc chúng như sau: những con tuổi được một tháng trở lên, ngươi sẽ ấn định tiền chuộc cho chúng là năm mươi lăm gờ-ram[c] bạc, theo cân lượng của nơi thánh, tức hai mươi ghê-ra.[d] 17 Nhưng ngươi không được chuộc lại con bò đầu lòng, con chiên đầu lòng, và con dê đầu lòng; chúng sẽ là những con vật thánh. Ngươi sẽ rảy máu chúng trên bàn thờ, rồi thiêu mỡ chúng thành khói có mùi thơm dâng lên Chúa. 18 Nhưng thịt chúng sẽ thuộc về ngươi; chẳng hạn như cái ức đã được nâng cao lên dâng và cái đùi phải, chúng đều thuộc về ngươi. 19 Tất cả của lễ thánh dân I-sơ-ra-ên dâng lên Chúa, Ta ban cho ngươi, cho các con trai và các con gái ngươi như một quy luật vĩnh viễn. Ðó là một giao ước bằng muối trước mặt Chúa, có hiệu lực vĩnh viễn, dành cho ngươi và dòng dõi ngươi.”

20 Bấy giờ Chúa phán với A-rôn, “Khi họ vào thừa hưởng đất hứa, ngươi sẽ chẳng có phần sản nghiệp nào; ngươi sẽ không được chia phần nào với họ. Ta là phần của ngươi và là sản nghiệp của ngươi giữa dân I-sơ-ra-ên. 21 Về phần người Lê-vi, Ta ban cho họ mọi của dâng một phần mười của dân I-sơ-ra-ên, để trả công cho họ phục vụ, tức công phục dịch những công việc ở Lều Hội Kiến. 22 Từ nay dân I-sơ-ra-ên sẽ không đến gần Lều Hội Kiến nữa, bằng không họ sẽ mắc tội và phải chết; 23 nhưng người Lê-vi sẽ phục vụ những công việc ở Lều Hội Kiến và sẽ chịu trách nhiệm về những lầm lỗi mình. Ðiều đó sẽ là một quy luật vĩnh viễn trải qua mọi thế hệ của các ngươi. Như vậy họ sẽ không có phần sản nghiệp trong đất hứa giữa dân I-sơ-ra-ên, 24 vì Ta cho người Lê-vi của dâng một phần mười mà dân I-sơ-ra-ên biệt riêng ra dâng lên Chúa để họ làm sản nghiệp. Vì thế Ta bảo: họ sẽ không có phần sản nghiệp nào ở giữa dân I-sơ-ra-ên.”

Một Phần Mười của Một Phần Mười

25 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, 26 “Ngươi hãy nói với người Lê-vi rằng: Khi anh em nhận của một phần mười nơi dân I-sơ-ra-ên để làm sản nghiệp, anh em phải biệt riêng ra một phần để dâng lên Chúa, tức một phần mười của một phần mười. 27 Của lễ anh em dâng sẽ được xem như một lễ vật, tựa như lúa thóc trích dâng từ sân đập lúa, hoặc rượu mới trích dâng từ thùng rượu ở bồn ép nho. 28 Như thế anh em sẽ biệt riêng ra một của lễ để dâng lên Chúa, lấy từ tất cả của dâng một phần mười mà anh em đã nhận được từ dân I-sơ-ra-ên; anh em sẽ lấy lễ vật dâng lên Chúa đó mà trao cho Tư Tế A-rôn. 29 Trong tất cả lễ vật anh em nhận được, anh em hãy lựa ra phần tốt nhất, biệt riêng ra thánh, mà dâng lên Chúa.

30 Ngươi hãy bảo họ: Sau khi anh em đã biệt riêng ra thánh phần tốt nhất thì phần còn lại sẽ thuộc về anh em, tức người Lê-vi, giống như hoa lợi nhận được từ sân đập lúa, hoặc hoa lợi nhận được từ bồn ép nho. 31 Anh em có thể ăn các hoa lợi đó nơi nào cũng được, anh em và gia đình anh em, vì đó là thù lao cho anh em đã phục vụ ở Lều Hội Kiến. 32 Sau khi anh em đã trích dâng phần tốt nhất, anh em sẽ không lo bị mắc tội nữa. Vậy chớ phạm đến những lễ vật thánh của dân I-sơ-ra-ên, kẻo anh em phải chết.”

Con Bò Cái Lông Ðỏ

19 Chúa phán với Môi-se và A-rôn rằng, “Ðây là quy tắc trong luật pháp mà Chúa đã truyền: Hãy bảo dân I-sơ-ra-ên dẫn đến các ngươi một con bò cái lông đỏ, không tật nguyền, không tì vết, và chưa hề mang ách. Các ngươi hãy trao nó cho Tư Tế Ê-lê-a-xa, để nó được dẫn ra bên ngoài doanh trại và người ta sẽ giết nó trước mặt ông ấy. Tư Tế Ê-lê-a-xa sẽ lấy ngón tay nhúng vào máu nó, hướng về phía trước Lều Hội Kiến, và rảy bảy lần. Kế đến người ta sẽ thiêu con bò cái đó trước mặt ông. Da, thịt, máu, và phân nó đều phải bị thiêu rụi. Tư tế sẽ lấy củi bá hương, nhánh bài hương, và chỉ đỏ đậm thảy vào trong lửa đang khi người ta thiêu con bò cái đó. Kế đó tư tế sẽ giặt sạch y phục mình và tắm trong nước, rồi mới được vào doanh trại; dầu vậy tư tế sẽ còn bị ô uế cho đến chiều tối. Người phụ trách thiêu con bò cái đó cũng phải giặt sạch y phục mình, tắm trong nước, và cũng bị ô uế đến chiều tối. Sau đó một người khác, đang được tinh sạch, sẽ đến hốt tro con bò cái ấy, đem cất vào một nơi sạch sẽ bên ngoài doanh trại. Tro đó được giữ cho hội chúng I-sơ-ra-ên để dùng làm nước tẩy uế. Ðó là chất xúc tác cho nghi lễ thanh tẩy tội lỗi. 10 Người đã hốt tro con bò cái đó cũng phải giặt sạch y phục mình và bị ô uế đến chiều tối. Ðây là một quy luật vĩnh viễn cho dân I-sơ-ra-ên và cho những kiều dân cư ngụ giữa họ.

Bị Nhiễm Uế

11 Ai đụng vào xác chết của người nào sẽ bị ô uế bảy ngày. 12 Ngày thứ ba và ngày thứ bảy người ấy phải dùng nước tẩy uế thanh tẩy chính mình, rồi như thế mới được sạch. Nhưng nếu không dùng nước tẩy uế thanh tẩy chính mình trong ngày thứ ba và ngày thứ bảy, người ấy sẽ không được sạch. 13 Phàm ai đụng vào xác chết của người nào mà không thanh tẩy chính mình, người ấy làm cho Ðền Tạm của Chúa ra ô uế. Người như thế phải bị khai trừ khỏi dân I-sơ-ra-ên. Vì nước tẩy uế chưa được rảy trên mình người ấy, nên người ấy vẫn còn bị ô uế; sự ô uế vẫn ở trên người ấy.

14 Ðây là quy luật khi có một người qua đời trong lều: ai vào trong lều hoặc đang ở trong lều đều sẽ bị ô uế bảy ngày. 15 Tất cả hũ, lọ, bình đang để miệng trống trong lều, tức không đậy nắp chặt, đều trở nên ô uế.

16 Nếu ai ở ngoài đồng chạm vào xác người bị giết vì gươm, hoặc bị chết theo công lệ thường tình, hoặc chạm vào hài cốt người nào, hoặc chạm vào huyệt mả, người ấy phải bị ô uế bảy ngày.

17 Ðể thanh tẩy cho người bị ô uế, người ta phải lấy một ít tro của con bò cái đã bị thiêu để làm của lễ thanh tẩy bỏ vào một cái vò, rồi pha nước sạch vào. 18 Một người đang tinh sạch sẽ lấy một nhánh bài hương, nhúng vào trong vò nước ấy, và đem rảy trên lều, trên mọi vật trong lều, trên những người ở trong đó, trên những ai đã đụng phải hài cốt, hoặc xác người bị giết, hoặc xác người chết, hoặc huyệt mả. 19 Người tinh sạch đó sẽ rảy nước tẩy uế như thế vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy trên những người và vật đã bị ô uế; như thế đến ngày thứ bảy, những người và vật ấy mới được thanh tẩy. Những người được thanh tẩy ấy phải giặt sạch y phục mình, tắm trong nước, và đến chiều tối mới được sạch. 20 Ai đã bị ô uế mà không chịu trải qua nghi thức thanh tẩy như thế để được sạch sẽ bị khai trừ khỏi hội chúng, vì nó đã làm cho nơi thánh của Chúa ra ô uế, và vì nước thanh tẩy chưa được rảy trên người nó, cho nên nó vẫn còn bị ô uế.

21 Ðó là một quy luật vĩnh viễn cho họ. Người rảy nước cho người khác được tinh sạch cũng phải giặt sạch y phục mình; còn ai đụng vào nước để tẩy uế sẽ bị ô uế đến chiều tối. 22 Phàm những gì bị người ô uế đụng đến đều trở nên ô uế; còn ai chạm vào những gì bị người ô uế đụng đến sẽ bị ô uế đến chiều tối.”

Footnotes

  1. Dân Số 17:4 nt: trước Chứng Ước
  2. Dân Số 17:10 nt: trước Chứng Ước
  3. Dân Số 18:16 nt: 5 sê-ken
  4. Dân Số 18:16 nt: 20 ghê-ra

Gậy Của A-rôn

17 CHÚA dạy Môi-se: “Hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên, mỗi trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên đem đến một cây gậy; nghĩa là mười hai cây gậy, mỗi cây cho bộ tộc của mình. Con phải đề tên mỗi người trên cây gậy của mình, và đề tên A-rôn trên cây gậy của Lê-vi; vì phải có một cây gậy cho mỗi trưởng bộ tộc. Con đem các gậy này đặt trong Trại Hội Kiến, trước Rương Giao Ước, là nơi Ta sẽ gặp con. Gậy của người được Ta chọn sẽ trổ hoa, như vậy dân chúng sẽ không còn lý do gì để phàn nàn con nữa.”

Môi-se nói lại với người Y-sơ-ra-ên, và các trưởng bộ tộc vâng theo huấn thị, đem gậy đến. Môi-se đem để mười hai cây gậy trong Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA. Gậy của A-rôn ở giữa các gậy khác.

Ngày hôm sau, khi Môi-se trở vào Trại Hội Kiến, ông thấy cây gậy của A-rôn tượng trưng cho bộ tộc Lê-vi, đã đâm chồi, trổ hoa, và kết quả, có trái hạnh nhân đã chín. Môi-se đem các cây gậy từ trong Trại Hội Kiến ra cho mọi người xem, họ sững sờ đứng nhìn, và cuối cùng các trưởng bộ tộc lấy gậy mình về.

10 Nhưng CHÚA lại bảo Môi-se: “Đem gậy của A-rôn đặt tại trước Rương Giao Ước, dùng nhắc nhở, cảnh cáo dân chúng về vụ nổi loạn này, để họ khỏi chết vì tai vạ và không bao giờ dám phàn nàn Ta nữa.” 11 Môi-se vâng lời CHÚA.

12 Người Y-sơ-ra-ên hoảng sợ nói với Môi-se: “Này chúng tôi bị diệt, chúng tôi bị chết, chúng tôi chết mất hết thảy! 13 Phàm ai đến gần Trại Hội Kiến đều chết, thì chúng tôi chết hết sao?”

Chức Vụ Thầy Tế Lễ

18 CHÚA bảo A-rôn: “Con, các con trai cùng cả gia đình con phải chịu trách nhiệm về những tội xúc phạm Nơi Thánh. Cũng vậy, con và các con trai con phải chịu trách nhiệm về những tội liên hệ đến chức vụ thầy tế lễ. Tất cả những người trong bộ tộc Lê-vi, gia tộc của con, là người giúp việc cho con. Tuy nhiên, chỉ có con và các con trai con được thi hành chức vụ trong Nơi Thánh. Các người Lê-vi khác phải chu toàn trách nhiệm của họ đối với con và toàn thể công việc tại trại, tuy nhiên họ không được đến gần các vật dụng trong Nơi Thánh và bàn thờ, để họ lẫn con khỏi phải chết. Họ sẽ kết hiệp với con và đảm trách công việc tại Trại Hội Kiến, tất cả công việc tại trại, nhưng không một ai khác được phép đến gần các con trong khi các con phụ trách công việc tại Nơi Thánh và trước bàn thờ kẻo cơn thịnh nộ Ta nổi lên chống lại dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi đã được Ta chọn trong dân Y-sơ-ra-ên, họ đã được dâng cho CHÚA, này Ta giao họ cho con để giúp con trong công việc Trại Hội Kiến. Ta cũng ủy nhiệm cho con chức vụ thầy tế lễ, chỉ có con và các con trai con thi hành chức vụ này trước bàn thờ và bên trong bức màn. Ngoài ra, người nào đụng đến các công việc này đều phải chết.”

CHÚA nói tiếp với A-rôn: “Ngoài ra, Ta còn cho các ngươi tất cả các lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối đưa qua đưa lại trước CHÚA. Các lễ vật thánh đều thuộc về con và các con trai con. Lệ này được áp dụng đời đời. Trừ phần được đem đốt dâng lên, phần còn lại của các lễ vật ngũ cốc, lễ vật chuộc tội và lễ vật chuộc lỗi đều thuộc về con và các con trai con. 10 Đó là những vật rất thánh, chỉ được ăn tại một Nơi Thánh và chỉ nam giới mới được ăn.

11 Còn các lễ vật được dâng lên theo lối đưa qua đưa lại cũng thuộc về con, nhưng mọi người trong gia đình, nam lẫn nữ đều được phép ăn, nếu họ tinh sạch.

12 Ta ban cho con phần tốt nhất của dầu, rượu mới và thóc, tất cả các lễ vật đầu mùa người ta đem dâng lên CHÚA. 13 Ta cũng ban cho con tất cả các lễ vật đầu mùa của các thổ sản khác người ta dâng lên CHÚA. Mọi người tinh sạch trong gia đình con đều được phép ăn.

14 Vậy, tất cả mọi vật người Y-sơ-ra-ên dâng hiến cho Ta đều thuộc về con, kể cả các con trưởng nam và thú vật đầu lòng của họ. 15 Tuy nhiên, con trưởng nam và con đực đầu lòng của thú vật không sạch phải được chuộc lại. 16 Khi chúng được một tháng, giá chuộc tương đương với năm sê-ken bạc[a] theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh.

17 Nhưng con đực đầu lòng của các loài bò, cừu và dê thì không được chuộc vì chúng được biệt riêng ra thánh. Phải lấy huyết chúng rảy lên bàn thờ, lấy mỡ đem đốt, đó là một lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 18 Thịt của các sinh tế này thuộc về con, đặc biệt là cái ngực được đưa qua đưa lại và cái đùi bên phải. 19 Tóm lại, Ta cho con mọi lễ vật của người Y-sơ-ra-ên dâng theo lối đưa qua đưa lại trước CHÚA, mọi người trong gia đình con, nam lẫn nữ đều được phép ăn. Đây là luật lệ đời đời, là một giao ước bất di bất dịch[b] giữa CHÚA với con và con cháu con.”

20 CHÚA tiếp: “Tuy nhiên con sẽ không được thừa hưởng đất đai, con không có phần gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên. Chính Ta là phần của con, là sản nghiệp của con giữa họ.

21 Tất cả những phần mười mà dân Y-sơ-ra-ên dâng lên Ta, Ta ban cho người Lê-vi vì công khó họ phục dịch trong Trại Hội Kiến. 22 Từ nay về sau, người Y-sơ-ra-ên sẽ không ai vào Trại Hội Kiến để khỏi mắc tội và khỏi chết. 23 Người Lê-vi sẽ chịu trách nhiệm về công việc Trại Hội Kiến, và nếu có lỗi lầm, họ sẽ mang tội. Đây là một luật đời đời được áp dụng qua các thế hệ: người Lê-vi sẽ không thừa hưởng tài sản trong Y-sơ-ra-ên, 24 vì Ta đã cho họ một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên, là phần dân chúng đem dâng lên CHÚA, chính vì thế mà Ta phán về người Lê-vi rằng họ không được thừa hưởng gì cả trong dân Y-sơ-ra-ên.”

25 CHÚA cũng nói với Môi-se: 26 “Con bảo người Lê-vi khi nhận được một phần mười lợi tức của người Y-sơ-ra-ên mà CHÚA ban cho anh em hưởng, phải lấy một phần mười trong số phần mười đó dâng cho CHÚA. 27 Lễ vật này sẽ được coi như lễ vật đầu mùa chọn lọc, như ngũ cốc dâng từ sân đạp lúa, như rượu nho dâng từ bồn ép nho của họ vậy. 28 Vậy trong tất cả những phần mười anh em nhận được từ dân Y-sơ-ra-ên, anh em phải dành riêng một lễ vật dâng lên CHÚA, và anh em hãy giao lễ vật ấy cho thầy tế lễ A-rôn. 29 Trong tất cả những món quà anh em nhận được, anh em hãy dành riêng phần tốt nhất dâng lên CHÚA; đó là phần biệt riêng ra thánh cho CHÚA.”

30 Con hãy nói tiếp với người Lê-vi: “Một khi anh em đã dâng phần tốt nhất rồi, phần còn lại sẽ được kể như thổ sản từ sân đạp lúa và bồn ép nho. 31 Phần còn lại này anh em và gia đình được phép ăn bất kỳ nơi nào vì đó là thù lao cho công khó anh em phục dịch tại Trại Hội Kiến. 32 Nếu anh em dâng phần tốt nhất lên CHÚA, anh em sẽ không mắc tội khi ăn phần còn lại. Khi anh em dâng lên CHÚA phần tốt nhất trước khi ăn, anh em sẽ không mắc tội xúc phạm lễ vật thánh của dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và khỏi phải chết.”

Nước Tẩy Uế

19 CHÚA dạy Môi-se và A-rôn: “Đây là một điều khoản trong luật CHÚA ban hành: Người Y-sơ-ra-ên phải chọn một con bò cái tơ màu đỏ, không tì vết, chưa mang ách. Hãy đem con bò đó cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ dẫn nó ra ngoài trại, và chọc tiết trước mặt người. Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa sẽ lấy ngón tay nhúng vào huyết bò, rảy bảy lần hướng về phía Trại Hội Kiến. Thầy tế lễ sẽ trông coi việc thiêu con bò: cả da, thịt, huyết và phân. Thầy tế lễ sẽ lấy cây bách hương, cành bài hương thảo và chỉ đỏ ném vào con bò đang cháy. Sau đó, thầy tế lễ phải giặt áo, tắm rồi mới vào trại và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Người đốt con bò cũng phải giặt quần áo, tắm và bị ô uế cho đến tối hôm ấy.

Một người tinh sạch sẽ hốt tro con bò chứa vào một nơi tinh sạch bên ngoài trại. Người Y-sơ-ra-ên sẽ giữ tro này dùng làm nước tẩy uế; con bò đó là tế lễ chuộc tội. 10 Người hốt tro phải giặt áo và bị ô uế cho đến tối hôm ấy. Luật này là luật đời đời, áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên cũng như cho ngoại kiều.

11 Ai đụng vào xác người chết phải bị ô uế bảy ngày. 12 Người ấy phải dùng nước tẩy uế tẩy sạch mình vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy thì sẽ được sạch. Nếu không tẩy mình như thế, sẽ không được sạch. 13 Người nào đụng vào xác người chết mà không tẩy mình cho sạch, xúc phạm đến Trại Hội Kiến của CHÚA, phải bị trục xuất ra khỏi Y-sơ-ra-ên. Người ấy vẫn bị ô uế vì nước tẩy uế chưa được rảy trên mình.

14 Khi có người chết trong trại, phải áp dụng luật này: Người nào vào trại và người nào ở trong trại ấy đều bị ô uế bảy ngày. 15 Nếu trong trại ấy có bình không đậy nắp, sẽ bị ô uế. 16 Bên ngoài đồng trống, nếu ai đụng vào một người chết vì đâm chém, hoặc đụng vào một người chết tự nhiên, xương người chết hay mồ mả, người ấy sẽ bị ô uế bảy ngày.

17 Muốn tẩy sạch những người này, phải lấy một ít tro của con bò thiêu làm sinh tế chuộc tội bỏ vào một cái bình, rồi lấy nước[c] đổ vào. 18 Một người tinh sạch sẽ lấy cành bài hương thảo nhúng vào bình, rảy nước trên trại, trên tất cả đồ dùng trong trại, trên cả những người ở trong trại đó, và trên những người đã đụng vào xương người chết hay mồ mả, đụng vào người chết vì đâm chém hay chết tự nhiên. 19 Người tinh sạch phải rảy nước trên người ô uế ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và vào ngày thứ bảy, việc tẩy uế hoàn tất. Người bị ô uế phải giặt áo, tắm rửa thì tối hôm ấy sẽ được sạch. 20 Nhưng nếu người ô uế không lo tẩy mình, phải bị trục xuất khỏi hội chúng vì đã xúc phạm đến Nơi Thánh của CHÚA. Vì nước tẩy uế không rảy trên người ấy, người ấy không được sạch. 21 Đây là một luật áp dụng vĩnh viễn.

Người rảy nước tẩy uế phải giặt quần áo mình, và người nào đụng vào nước tẩy uế sẽ bị ô uế cho đến tối hôm ấy. 22 Bất kỳ vật gì bị người ô uế đụng vào, đều thành ô uế; và ai đụng vào vật ấy cũng bị ô uế cho đến tối hôm ấy.”

Footnotes

  1. 18:16 Nt: 1 lượng rưởi bạc
  2. 18:19 Nt: giao ước muối
  3. 19:17 Nt: nước chảy

Cây gậy của A-rôn trổ hoa

17 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy bảo dân Ít-ra-en mang mười hai cây gậy mỗi trưởng chi tộc mang một cây. Khắc tên của từng người trên mỗi cây gậy, còn trên cây gậy của Lê-vi, khắc tên A-rôn. Mỗi trưởng chi tộc phải mang đến một cây gậy. Để các cây gậy đó trong Lều Họp trước Rương Giao Ước, nơi ta gặp con. Cây gậy của ai trổ lá tức là người đó được ta chọn. Như thế ta sẽ làm dân Ít-ra-en im miệng, để không còn phàn nàn mãi về các con.”

Vậy Mô-se nói với dân Ít-ra-en. Mỗi người trong mười hai trưởng tộc trao cho ông một cây gậy mỗi chi tộc một cái gậy. A-rôn cũng có một cây trong đống gậy đó. Mô-se để các cây gậy trước mặt CHÚA trong Lều Giao Ước.

Sáng hôm sau khi Mô-se bước vào Lều thì ông thấy cây gậy của A-rôn, đại diện cho gia đình Lê-vi đã trổ lá. Cây gậy đó cũng ra nụ, hoa nở và ra trái hạnh nhân. Vậy Mô-se lấy các cây gậy trước mặt CHÚA mang ra cho dân Ít-ra-en xem. Họ nhìn và ai nấy lấy cây gậy mình lại.

10 Rồi CHÚA phán cùng Mô-se,

“Hãy đặt cây gậy của A-rôn lại trước Rương Giao Ước. Nó sẽ dùng để nhắc nhở rằng dân nầy là dân luôn luôn phản nghịch ta, rồi chúng không còn kêu ca nữa để khỏi bị chết.” 11 Vậy Mô-se vâng lời CHÚA truyền dặn mình.

12 Dân Ít-ra-en bảo Mô-se, “Chúng tôi sẽ chết! Chúng tôi sẽ bị tiêu diệt, bị tiêu diệt hết! 13 Ai đến gần Lều Thánh của CHÚA sẽ chết. Vậy liệu chúng tôi có chết hết không?”

Nhiệm vụ của các thầy tế lễ và người Lê-vi

18 CHÚA bảo A-rôn, “Con, con trai con, và gia đình con bây giờ chịu trách nhiệm về những tội lỗi liên quan đến Nơi Thánh; con và các con trai con cũng chịu trách nhiệm về những tội lỗi liên quan đến các thầy tế lễ. Hãy mang đến cùng con những người Lê-vi khác, thuộc chi tộc con, để giúp con và các con trai con phục vụ trước Lều Giao Ước. Họ ở dưới quyền con để làm tất cả các công tác cần làm trong Lều. Nhưng họ không được đến gần những vật trong Nơi Thánh hay gần bàn thờ. Nếu không cả con lẫn họ đều sẽ chết. Họ sẽ hợp sức với con lo cho Lều Họp. Họ phải làm công tác của Lều, không ai khác được đến gần con.

Con phải lo cho Nơi Thánh và bàn thờ để ta không nổi giận cùng dân Ít-ra-en nữa. Chính ta dã lựa chọn những anh em Lê-vi của các con từ giữa dân Ít-ra-en làm lễ vật mà các con dâng lên cho CHÚA để phục vụ trong Lều Họp. Nhưng chỉ có con và các con trai con được giữ chức tế lễ. Chỉ có một mình con có thể phục vụ nơi bàn thờ hay đến phía sau bức màn. Ta ban cho con đặc ân nầy để thi hành chức tế lễ. Ai khác đến gần Nơi Thánh sẽ bị xử tử.”

Rồi CHÚA bảo A-rôn, “Chính ta trao trách nhiệm cho con về các của lễ dâng lên cho ta. Tất cả các của lễ thánh mà người Ít-ra-en dâng lên cho ta, ta ban cho con và các con trai con, xem như là phần của con vĩnh viễn từ nay về sau. Phần của các con trong các của lễ thánh là phần không thiêu. Khi dân chúng mang lễ vật đến cho ta để làm của lễ chí thánh, bất kỳ là của lễ chay, của lễ chuộc tội hay của lễ đền bù, phần của con sẽ được để riêng ra cho con và các con trai con. 10 Các con phải ăn lễ vật ở một nơi thật thánh. Bất cứ đàn ông nào cũng được phép ăn nhưng các con phải xem những lễ vật đó như đồ thánh.

11 Ta cũng cho con các của lễ người Ít-ra-en dâng cho ta. Ta cho con, cho con trai con gái con các của lễ đó để làm phần vĩnh viễn của con. Ai trong gia đình con không bị ô dơ đều được phép ăn phần đó.

12 Ngoài ra ta cũng ban cho con dầu ô-liu tốt nhất cùng rượu nho mới thượng hạng và ngũ cốc. Đó là phần dân Ít-ra-en dâng cho ta, CHÚA, từ quả trái đầu tiên trong những hoa màu họ. 13 Khi họ mang đến cho CHÚA các hoa quả đầu mùa, thì những món đó thuộc về con. Ai trong gia đình con không bị ô dơ đều được phép ăn các món ấy.

14 Những gì người Ít-ra-en dâng cho CHÚA là của con.

15 Những con đầu lòng sinh ra, dù là người hay súc vật phải được dâng lên cho CHÚA. Các con đó sẽ thuộc về con. Nhưng con phải chuộc mọi con đầu lòng của người và các súc vật không sạch. 16 Khi các con đầu lòng được một tháng, con phải chuộc chúng bằng hai lượng bạc, tính theo cân Nơi Thánh.

17 Nhưng con không được chuộc con đầu lòng của bò, chiên, hay dê. Các con vật đó được coi là vật thánh. Hãy rưới huyết chúng trên bàn thờ và thiêu mỡ chúng dùng làm của lễ bằng lửa. Mùi thơm từ của lễ sẽ làm vừa lòng CHÚA. 18 Còn thịt của các con vật đó sẽ thuộc về con cũng như cái ức và cái đùi phải, đã được dâng lên, đều là của con. 19 Những gì người Ít-ra-en dâng lên như của lễ thánh thì ta, CHÚA, ban cho con, con trai, con gái con làm phần của các con vĩnh viễn. Đây là giao ước đời đời bằng muối lập trước mặt CHÚA cho con và con cái con.”

20 CHÚA cũng phán cùng A-rôn, “Con sẽ không thừa hưởng đất đai nào, cũng không làm chủ đất nào giữa vòng các người khác. Ta là tài sản của con trong vòng dân Ít-ra-en.

21 Khi dân Ít-ra-en dâng cho ta một phần mười về những gì họ làm ra, thì ta sẽ ban cho người Lê-vi phần mười đó xem như tiền công của họ trong việc phục vụ Lều Họp. 22 Nhưng các người Ít-ra-en khác không được đến gần Lều Họp, nếu không họ sẽ chết vì tội mình. 23 Chỉ có những người Lê-vi được phục vụ công tác trong Lều Họp và chịu trách nhiệm về những tội phạm liên quan đến Lều. Người Lê-vi sẽ không được hưởng đất đai nào trong vòng những người Ít-ra-en khác. 24 Nhưng khi người Ít-ra-en lấy một phần mười những gì họ làm ra [a] mà dâng cho ta thì người Lê-vi được hưởng phần ấy. Vì thế mà ta nói về người Lê-vi như sau: ‘Họ sẽ không được hưởng đất đai nào giữa vòng người Ít-ra-en.’”

25 CHÚA bảo Mô-se, 26 “Hãy nói cùng người Lê-vi như sau: Các con sẽ nhận được một phần mười về tất cả những gì dân Ít-ra-en làm ra, ta sẽ ban cho các con. Nhưng các con phải dâng lại một phần mười từ các của đó cho CHÚA. 27 Ta sẽ nhận lễ vật các con như ta nhận lễ vật từ những người khác là những người dâng ngũ cốc mới hay rượu mới. 28 Như thế các con cũng sẽ dâng của lễ cho CHÚA như những người Ít-ra-en khác. Khi các con nhận một phần mười từ dân Ít-ra-en thì các con dâng lại một phần mười những lễ vật đó cho A-rôn, thầy tế lễ, để làm phần của CHÚA. 29 Hãy chọn phần tốt nhất và thánh nhất từ những lễ vật để làm phần dâng cho CHÚA.”

30 Hãy nói với người Lê-vi: “Khi các con dâng lễ vật tốt nhất thì sẽ được nhận cũng như ta nhận ngũ cốc và rượu từ những người khác. 31 Các con và gia đình có thể ăn những đồ còn lại ở bất cứ đâu, vì đó là công của các con phục vụ trong Lều Họp. 32 Khi các con dâng lễ vật tốt nhất cho CHÚA, các con sẽ không mắc tội. Nhưng nếu các con xem các lễ vật thánh của người Ít-ra-en như những vật tầm thường khác, các con sẽ chết.”

Của lễ tẩy sạch

19 CHÚA bảo Mô-se và A-rôn rằng, “Đây là những lời giáo huấn của CHÚA truyền. Hãy bảo dân Ít-ra-en bắt một con bò cái tơ màu đỏ không tật nguyền và chưa mang ách. Giao con bò đó cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. Người sẽ mang nó ra ngoài doanh trại rồi giết nó. Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phải lấy ngón tay nhúng trong huyết nó và rảy bảy lần về phía trước của Lều Họp. Rồi người sẽ chứng kiến người ta thiêu con bò; tất cả da, thịt, huyết và phân đều phải thiêu hết. Sau đó thầy tế lễ sẽ lấy một que hương nam, một nhánh cây kinh giới, và một sợi dây đỏ liệng vào chỗ con bò đang bị thiêu. Sau khi thầy tế lễ đã tắm và giặt quần áo mình, thì người có thể trở vào doanh trại, nhưng sẽ bị ô dơ cho đến chiều tối. Ai thiêu con bò phải tắm và giặt quần áo mình trong nước; người đó sẽ bị ô dơ cho đến chiều tối.

Rồi một người tinh sạch sẽ hốt tro của con bò đem để một nơi tinh sạch bên ngoài doanh trại. Dân Ít-ra-en sẽ giữ tro đó để dùng trong nước tẩy uế, trong dịp lễ tẩy sạch.

10 Người hốt tro con bò phải giặt quần áo mình và bị ô dơ cho đến chiều tối.

Đây là một qui tắc vĩnh viễn cho dân Ít-ra-en và các người ngoại quốc sống chung với các con. 11 Ai đụng đến xác người chết sẽ bị ô dơ trong bảy ngày. 12 Người đó phải tắm bằng nước tẩy uế sau ngày thứ ba và thứ bảy [b]; rồi sẽ được tinh sạch lại. Nhưng nếu người đó không tắm vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy thì sẽ không được tinh sạch. 13 Nếu ai đụng đến xác người chết, bị ô dơ mà đi vào Lều Thánh của CHÚA thì làm cho Lều bị ô dơ; người đó phải bị loại khỏi dân Ít-ra-en. Nếu nước tẩy uế không rưới trên người đó, thì người vẫn bị ô dơ và sẽ mãi mãi bị ô dơ.

14 Sau đây là huấn thị về việc người chết trong lều: Ai ở trong lều ấy, hoặc ai đi vào lều ấy, sẽ bi ô dơ trong bảy ngày. 15 Những chai, lọ hay nồi niêu không đậy nắp sẽ bị ô dơ. 16 Nếu ai đụng đến người bị chết vì gươm hay chết tự nhiên ở ngoài lều, hay đụng đến xương người hoặc mồ mả, thì người đó sẽ bị ô dơ trong bảy ngày.

17 Nên ngươi phải dùng tro nơi của lễ thiêu để làm cho người đó tinh sạch lại. Hãy đổ nước tro [c] vào trong bình. 18 Rồi một người tinh sạch sẽ lấy một nhánh cây kinh giới nhúng trong nước đó và rảy lên Lều cùng mọi vật dụng trong đó. Người cũng phải rảy lên tất cả những người có mặt ở đó cũng như trên người nào đã đụng vào xương, vào xác người bị giết, xác chết, hay mồ mả.

19 Người tinh sạch ấy phải rưới nước nầy lên người ô dơ vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy. Đến ngày thứ bảy thì người sẽ được tinh sạch. Người phải giặt quần áo, tắm trong nước và đến chiều tối người sẽ được tinh sạch.

20 Người nào bị ô dơ mà không làm cho mình tinh sạch sẽ bị loại khỏi cộng đồng. Vì họ không được rưới bằng nước tẩy uế nên vẫn bị ô dơ, người có thể làm cho Lều Thánh của CHÚA bị ô dơ. 21 Đây là qui tắc vĩnh viễn. Người rưới nước tẩy uế cũng phải giặt quần áo mình, và ai đụng đến nước đó cũng sẽ bị ô dơ cho đến chiều tối. 22 Vật gì người bị ô dơ đụng đến sẽ bị ô dơ, và ai đụng đến vật đó cũng sẽ bị ô dơ cho đến chiều tối.”

Footnotes

  1. Dân Số 18:24 những gì họ làm ra Bao gồm của cải và gia súc.
  2. Dân Số 19:12 sau ngày thứ ba và thứ bảy Không phải ngày thứ ba và thứ bảy trong tuần. Đây là ngày tính theo thứ tự.
  3. Dân Số 19:17 nước tro Nguyên văn, “nước sự sống” nghĩa là “nước đang chảy.”

Chúa Hóa Bánh cho Năm Ngàn Người Ăn

(Mat 14:13-21; Lu 9:10-17; Gg 6:1-14)

30 Các sứ đồ tụ về quanh Ðức Chúa Jesus và tường trình với Ngài mọi điều họ đã làm và đã dạy. 31 Ngài nói với họ, “Chính các ngươi hãy lánh vào một nơi vắng vẻ để nghỉ một lúc.” Vì có rất nhiều người tới lui đến nỗi họ không có thì giờ để ăn. 32 Vậy họ xuống thuyền và chèo đến một nơi hoang vắng. 33 Nhưng khi dân chúng thấy họ chèo thuyền đi và đoán biết nơi nào họ sẽ đến, nhiều người từ các thành đã chạy bộ đến đó trước họ.

34 Vì thế vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy một đoàn dân rất đông đang đợi sẵn. Ngài động lòng thương xót họ, vì họ như đàn chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Khi ấy trời đã khá xế chiều, các môn đồ đến thưa với Ngài, “Nơi đây thật hoang vắng, và trời cũng đã quá xế chiều, 36 xin Thầy cho họ giải tán để họ có thể vào các thôn xóm và làng mạc quanh đây mua thức ăn cho họ.”

37 Ngài trả lời họ, “Chính các ngươi phải cho họ ăn.”

Họ đáp, “Chúng con phải đi và mua hai trăm đơ-na-ri[a] tiền bánh cho họ ăn sao?

38 Ngài hỏi họ, “Các ngươi có bao nhiêu bánh? Hãy đi và xem thử coi.”

Khi biết được rồi họ nói, “Thưa có năm cái bánh và hai con cá.”

39 Ngài truyền cho họ bảo mọi người ngồi xuống thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Vậy họ ngồi xuống thành những nhóm một trăm người hoặc năm mươi người. 41 Ðoạn Ngài cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ bánh ra, và trao cho các môn đồ để họ phát cho dân. Ngài cũng phát hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Họ gom lại được mười hai giỏ đầy bánh vụn và cá dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn đàn ông.

Chúa Ði Bộ Trên Mặt Nước

(Mat 14:22-33; Gg 6:15-21)

45 Liền sau đó Ngài bảo các môn đồ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, tức về hướng Thành Bết-sai-đa, trong khi Ngài ở lại để giải tán đám đông. 46 Sau khi tiễn chào họ, Ngài lên núi để cầu nguyện. 47 Tối đến thuyền đã ra giữa biển, còn Ngài đang ở trên đất một mình. 48 Ngài thấy các môn đồ chèo chống vất vả vì phải đương đầu với gió ngược; khoảng canh tư đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến với họ, và dường như Ngài muốn qua mặt họ. 49 Khi thấy Ngài đi bộ trên mặt biển, họ tưởng là ma, nên la thét lên, 50 vì tất cả họ đều thấy Ngài và cực kỳ sợ hãi. Nhưng ngay lập tức Ngài bảo họ, “Hãy yên lòng, Ta đây, đừng sợ.”

51 Ngài bước lên thuyền với họ, và gió yên biển lặng. Các môn đồ vô cùng kinh ngạc; 52 số là họ vẫn chưa hiểu nổi phép lạ hóa bánh ra nhiều vừa rồi, vì lòng họ vẫn còn cứng cỏi.

Chúa Chữa Bịnh ở Ghê-nê-sa-rết

(Mat 14:34-36)

53 Khi họ đã qua bên kia biển, họ cho thuyền cập vào bờ ở Ghê-nê-sa-rết và thả neo tại đó. 54 Vừa khi họ ra khỏi thuyền, dân địa phương liền nhận ra Ngài. 55 Họ chạy đi báo tin khắp miền đó, và người ta bắt đầu khiêng những người bịnh nằm trên cáng đến với Ngài. Hễ họ nghe Ngài ở đâu, họ khiêng các bịnh nhân đến đó. 56 Bất cứ Ngài vào các làng mạc, thị trấn, hay thôn xóm nào, người ta đem những người đau yếu bịnh tật đến chợ ở nơi đó và xin Ngài cho họ được chạm vào viền áo Ngài. Tất cả ai chạm đến Ngài đều được chữa lành.

Read full chapter

Footnotes

  1. Mác 6:37 Một đơ-na-ri là tiền lương của một công nhân làm một ngày

Chúa Hóa Bánh Cho Năm Ngàn Người Ăn(A)

30 Các sứ đồ nhóm họp cùng Đức Giê-su và tường trình cho Ngài mọi điều họ đã thực hiện và dạy. 31 Ngài bảo họ rằng: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi một chút.” Vì kẻ đi người lại đông đúc, đến nỗi họ không có thì giờ ăn uống.

32 Ngài và các môn đệ lên thuyền đi đến một nơi thanh vắng. 33 Nhiều người thấy vậy và nhận biết chỗ đó nên từ các thành thị kéo nhau chạy bộ tới trước. 34 Vừa ra khỏi thuyền, Ngài thấy đoàn dân đông đúc thì động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn. Ngài bắt đầu dạy họ nhiều điều.

35 Trời đã xế chiều, các môn đệ đến thưa với Ngài rằng: “Đây là nơi vắng vẻ và đã gần tối, 36 xin Thầy cho dân chúng về để họ vào các làng xóm quanh đây mua gì để ăn.”

37 Nhưng Ngài đáp: “Chính các con hãy cho họ ăn.” Môn đệ thưa: “Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng đê-na-ri[a] bánh cho họ ăn sao?”

38 Ngài bảo: “Các con đi xem thử ở đây có bao nhiêu bánh?” Khi đã xem xét xong, họ thưa: “Có năm cái bánh và hai con cá.”

39 Ngài truyền cho các môn đệ bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống từng nhóm, nhóm thì một trăm, nhóm thì năm mươi. 41 Đức Giê-su cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi bẻ bánh đưa cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng, Ngài cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn no nê. 43 Bánh và cá còn thừa đựng đầy mười hai giỏ. 44 Trong số người ăn có khoảng năm ngàn người đàn ông.

Chúa Đi Trên Mặt Biển(B)

45 Đức Giê-su liền truyền cho các môn đệ lên thuyền, qua phía thành Bết-sai-đa trước, rồi Ngài giải tán dân chúng. 46 Khi họ đã ra về, Ngài lên núi cầu nguyện.

47 Tối đến, thuyền ra giữa biển, còn một mình Ngài trên bờ. 48 Ngài thấy các môn đệ chèo chống vất vả vì gió ngược. Khoảng bốn giờ sáng đêm ấy Ngài đi bộ trên mặt biển đến cùng họ và định vượt qua họ. 49 Các môn đệ thấy Ngài đi trên mặt biển thì tưởng là ma nên kêu la thất thanh, 50 vì ai nấy đều trông thấy và hoảng sợ.

Nhưng Ngài liền bảo họ: “Hãy yên tâm, Ta đây, đừng sợ!” 51 Ngài vừa bước lên thuyền với họ thì gió lặng yên. Mọi người đều kinh ngạc, 52 vì họ vẫn không hiểu phép lạ hóa bánh và lòng họ còn cứng cỏi.

Chúa Chữa Bệnh Tại Ghê-nê-sa-rết(C)

53 Qua bờ bên kia, Đức Giê-su và các môn đệ cặp bến Ghê-nê-sa-rết. 54 Vừa ra khỏi thuyền, dân chúng đã nhận biết Ngài. 55 Họ chạy ngược xuôi khắp vùng, hễ nghe Ngài ở đâu thì khiêng những người bệnh nằm trên cáng đến đó. 56 Bất cứ nơi nào Ngài đến, dù làng mạc, thành phố hay thôn quê, người ta đều đem người bệnh lại các khu họp chợ và nài xin Ngài cho họ chỉ sờ vào gấu áo Ngài. Bao nhiêu người sờ đến Ngài, đều được lành cả.

Read full chapter

Footnotes

  1. 6:37 Trị giá khoảng một năm lương của một nhân công

Thết đãi hơn năm ngàn người(A)

30 Các môn đệ nhóm lại quanh Chúa Giê-xu và thuật lại cho Ngài nghe những gì họ làm và dạy. 31 Dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi Chúa Giê-xu và các môn đệ không có thì giờ để ăn. Chúa Giê-xu bảo các môn đệ, “Thôi chúng ta hãy đi tìm chỗ nào vắng vẻ để nghỉ ngơi.”

32 Nên họ xuống thuyền đi đến chỗ vắng, xa quần chúng. 33 Nhưng nhiều người trông thấy thì biết, vì thế dân chúng từ đủ các tỉnh liền chạy bộ đến chỗ Ngài sắp tới và đến trước Chúa Giê-xu cùng các môn đệ. 34 Vừa tới nơi, Ngài thấy dân chúng đang đợi. Ngài cảm thương họ vì họ như chiên không có người chăn nên Chúa Giê-xu dạy dỗ họ nhiều điều.

35 Xế chiều các môn đệ đến thưa với Ngài, “Chỗ nầy vắng vẻ mà trời đã xế chiều rồi. 36 Xin thầy cho họ về để họ đi vào vùng quê và làng mạc quanh đây mua thức ăn.”

37 Nhưng Chúa Giê-xu đáp, “Các con phải cho họ ăn.”

Các môn đệ thưa, “Chúng con phải dùng nguyên một năm lương mới đủ tiền mua thức ăn cho chừng nầy người!”

38 Chúa Giê-xu hỏi họ, “Các con có bao nhiêu ổ bánh? Đi xem thử đi.”

Sau khi đã kiểm điểm họ trình, “Dạ có năm ổ bánh và hai con cá.”

39 Chúa Giê-xu bảo các môn đệ cho dân chúng ngồi từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ liền ngồi từng nhóm năm chục, nhóm một trăm. 41 Chúa Giê-xu cầm năm ổ bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời tạ ơn Thượng Đế. Ngài bẻ bánh ra đưa cho các môn đệ phân phát cho dân chúng. Rồi Ngài cũng phát cá nữa. 42 Tất cả mọi người đều ăn uống no nê. 43 Các môn đệ gom được đầy mười hai giỏ bánh và cá thừa. 44 Trong số người ăn có hơn năm ngàn người đàn ông.

Chúa Giê-xu đi trên mặt nước(B)

45 Chúa Giê-xu liền bảo các môn đệ xuống thuyền, qua thành Bết-sai-đa ở bờ bên kia trước Ngài. Còn Ngài thì ở lại để giải tán dân chúng. 46 Sau khi họ về rồi, Chúa Giê-xu lên núi cầu nguyện.

47 Đêm xuống, thuyền đã đến giữa hồ rồi mà Chúa Giê-xu vẫn còn ở một mình trên bờ. 48 Ngài thấy các môn đệ chèo chống rất cực nhọc vì gặp gió ngược. Vào khoảng ba đến sáu giờ sáng, Chúa Giê-xu đi trên mặt nước đến với họ và Ngài định đi qua mặt thuyền. 49 Khi các môn đệ thấy Ngài đi trên mặt nước, thì tưởng thấy ma, nên la lên. 50 Người nào cũng nhìn thấy, nên sợ hoảng. Nhưng Chúa Giê-xu lập tức trấn an họ, “Đừng sợ, ta đây mà.” 51 Lúc Ngài bước vào thuyền với họ thì gió lặng. Các môn đệ vô cùng kinh ngạc. 52 Họ không hiểu ý nghĩa phép lạ về năm ổ bánh vì trí họ còn tối tăm.

Chúa Giê-xu chữa bệnh cho nhiều người(C)

53 Sau khi băng qua hồ thì họ đến bờ Ghê-nê-xa-rét rồi buộc thuyền tại đó. 54 Chúa Giê-xu vừa bước ra khỏi thuyền thì dân chúng nhận ra Ngài. 55 Quần chúng khắp nơi đổ xô đến, hễ nghe Ngài đi đâu là người ta khiêng những người bệnh nằm trên cáng đến đó. 56 Bất cứ chỗ nào Ngài đi, từ làng mạc, thành thị hay vùng quê, dân chúng cũng đều đưa những người bệnh đến đó, vào trong phố chợ. Họ nài nỉ xin được rờ ven áo Ngài. Hễ ai rờ đều được lành cả.

Read full chapter