Revised Common Lectionary (Semicontinuous)
Đức Chúa Trời Là Vị Vua Thánh
99 CHÚA cai trị,
Muôn dân hãy run sợ;
Ngài ngự trên các Chê-ru-bim,[a]
Trái đất rung chuyển.
2 CHÚA tại Si-ôn thật vĩ đại;
Ngài được tôn cao trên tất cả mọi dân tộc.
3 Nguyện chúng nó ca tụng danh vĩ đại và đáng sợ của Ngài;
Ngài là thánh.
4 Vị vua thật quyền năng,[b] Ngài yêu chuộng công bình,
Thiết lập sự bình đẳng;
Ngài thi hành công bình
Và công chính trong Gia-cốp.
5 Hãy tôn cao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;
Hãy thờ phượng dưới bệ chân Ngài.
Ngài là thánh.
6 Môi-se và A-rôn là các thầy trong số những thầy tế lễ của Ngài;
Sa-mu-ên là một người trong số những người cầu khẩn danh Ngài;
Họ cầu khẩn CHÚA
Và Ngài đáp lời họ.
7 Từ trong cột mây Ngài phán với họ;
Ngài ban cho họ luật lệ cùng quy luật và họ gìn giữ chúng.
8 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi,
Chính Ngài đã đáp lời họ.
Ngài là Đức Chúa Trời tha thứ cho họ,
Nhưng Ngài cũng báo trả những hành vi sai trái của họ.
9 Hãy tôn cao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;
Hãy thờ phượng tại núi thánh Ngài
Vì CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta là thánh.
Môi-se Thanh Tra Đền Tạm
32 Như vậy việc thiết lập Đền Tạm và Trại Hội Kiến được hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên làm xong mọi việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. 33 Họ đem Đền Tạm đến cho Môi-se: lều, các đồ phụ tùng, móc, vách ván, thanh xà ngang, trụ và đế trụ, 34 mái che bằng da cừu nhuộm đỏ, mái che bằng da dê và các bức màn, 35 Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, 36 bàn với các đồ phụ tùng và bánh thánh, 37 cây đèn bằng vàng ròng, các đèn gắn lên cây đèn theo thứ tự hẳn hoi, tất cả đồ phụ tùng và dầu thắp, 38 bàn thờ bằng vàng, dầu xức, hương thơm và bức màn che cửa Đền, 39 bàn thờ bằng đồng với rá đồng, đòn khiêng và tất cả các đồ phụ tùng, bồn nước và chân bồn, 40 các bức màn che quanh hành lang với các trụ và đế trụ, bức màn che cửa vào hành lang, dây thừng và cọc cắm trại cho hành lang cùng với tất cả các đồ phụ tùng dùng trong Đền Tạm tức Trại Hội Kiến; 41 các bộ áo lễ tinh xảo may dệt cho các thầy tế lễ mặc khi thi hành chức vụ tại Nơi Thánh, kể cả các bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ thi hành chức vụ thầy tế lễ.
42 Dân Y-sơ-ra-ên làm tất cả các công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. 43 Môi-se thanh tra và thấy họ làm đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền nên ông chúc phước cho họ.
Giăng Báp-tít Qua Đời(A)
14 Lúc ấy, Hê-rốt vua chư hầu,[a] nghe báo cáo về Đức Giê-su, 2 thì bảo quần thần rằng: “Đây là Giăng Báp-tít sống lại, nên mới làm nổi những việc quyền năng này!”[b]
3 Vì Vua Hê-rốt đã bắt trói Giăng và bỏ tù về việc Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp là em vua, 4 bởi Giăng nói với vua: “Bệ hạ lấy nàng là không phải phép!” 5 Dù muốn giết Giăng, nhưng vua sợ dân chúng, vì họ xem Giăng là tiên tri của Chúa.
6 Nhân sinh nhật Vua Hê-rốt, con gái của Hê-rô-đia trình diễn vũ khúc giữa bữa tiệc làm Hê-rốt say mê,[c] 7 nên vua thề hứa cho cô gái bất cứ điều gì nàng xin. 8 Được mẹ xúi bảo, nàng tâu: “Xin cho con cái đầu của Giăng Báp-tít để trên mâm!” 9 Vua buồn, nhưng đã lỡ thề giữa nhiều quan khách dự tiệc, 10 nên vua sai người chém đầu Giăng trong ngục. 11 Họ đặt đầu người trên một cái mâm, đem đến đưa cho cô gái, rồi nàng mang đến cho mẹ. 12 Các môn đệ của Giăng đến lãnh[d] xác người đem an táng và đi báo tin cho Đức Giê-su.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)