Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Giê-rê-mi 12-14

Giê-rê-mi Than Thở với CHÚA

12 Lạy Chúa, Ngài lúc nào cũng đúng mỗi khi con trình duyên cớ của con trước mặt Ngài,
Dầu vậy xin cho con thưa với Ngài nỗi ray rứt của con:
Tại sao kẻ gian ác lại luôn được thịnh vượng?
Tại sao bọn tráo trở được hạnh phúc bình an?
Ngài trồng chúng xuống và chúng đã đâm rễ mạnh;
Chúng lớn lên và ra trái đầy cành;
Nghe miệng chúng nói, tưởng chúng gần Ngài tha thiết,
Nhưng lòng chúng xa không biết đến ngần nào.
Còn Ngài, Chúa ôi, Ngài biết rõ lòng con;
Ngài đã thấy con và thử con;
Ngài biết rõ lòng con luôn tin cậy Ngài.
Xin lôi cổ chúng ra như chiên bị đem đi làm thịt,
Xin tách chúng ra để chờ ngày giết thịt.
Ðất sẽ than khóc cho đến bao lâu nữa?
Cỏ trong đồng sẽ khô héo đến bao giờ?
Vì sự gian ác của những kẻ sống trong xứ mà thú vật và chim trời đều bị tuyệt giống;
Thế mà chúng còn nói,
“Ngài sẽ không thấy được tương lai chúng ta ra thế nào đâu.”

ChúaÐáp Lời Giê-rê-mi

“Nếu ngươi chạy đua với người chạy bộ mà còn đuối sức,
Làm sao ngươi chạy đua với ngựa được?
Nếu ngươi vấp ngã trong xứ đang hòa bình an lạc,
Làm sao ngươi đối phó được với những bụi gai rậm rạp ở bờ sông Giô-đanh?
Ngay cả anh chị em ngươi và những người bà con trong dòng họ ngươi mà còn tráo trở hại ngươi;
Sau lưng ngươi họ đã nói xấu ngươi với nhiều người.
Ðừng tin họ dù ngoài miệng họ nói ngọt thế nào cũng mặc.

Ta đã bỏ nhà Ta, Ta đã rời khỏi cơ nghiệp Ta,
Ta đã phó người lòng Ta yêu dấu vào tay quân thù của nàng.
Ðối với Ta, cơ nghiệp Ta như sư tử dữ trong rừng;
Nó rống lên chống lại Ta,
Vì thế Ta ghét nó.
Cơ nghiệp Ta há là một chim săn mồi,
Ðể kên kên bu lại xé xác sao?
Hãy đi, tập họp các thú đồng lại,
Hãy đem chúng đến để chúng cắn nuốt nó.
10 Nhiều kẻ chăn chiên đã hủy hoại vườn nho của Ta,
Chúng đã giẫm nát phần sản nghiệp của Ta,
Chúng đã biến phần sản nghiệp tốt đẹp của Ta ra một đồng hoang trơ trụi.
11 Chúng đã biến nó thành một nơi hoang vắng tiêu điều,
Nó đã than khóc với Ta, vì nó đã trở thành hoang vắng,
Cả xứ đều đã trở nên hoang vu,
Vì chẳng ai quan tâm đến nó.
12 Quân tàn sát ào ạt tràn qua những ngọn đồi trọc trong đồng hoang,
Gươm của Chúa ăn nuốt từ đầu này đến đầu kia trong xứ,
Không ai thoát khỏi.
13 Chúng đã gieo lúa mì, nhưng chỉ gặt toàn gai góc,
Chúng đã làm lụng vất vả, nhưng thu hoạch chẳng ra gì.
Hãy lấy làm xấu hổ về những gì các ngươi gặt hái được,
Vì cơn giận phừng của Chúa đang đổ xuống trên các ngươi.”

14 Chúa phán thế này, “Về những nước láng giềng xấu xa gian ác, những kẻ đã cướp lấy sản nghiệp Ta ban cho dân I-sơ-ra-ên của Ta: Này, Ta sẽ bứng chúng ra khỏi xứ của chúng, đồng thời Ta cũng sẽ bứng Giu-đa ra khỏi giữa chúng luôn. 15 Nhưng sau khi Ta đã bứng chúng đi rồi, Ta sẽ thương xót chúng lại, Ta sẽ đem tất cả chúng về lại sản nghiệp của chúng, mỗi dân sẽ về lại đất nước của mình. 16 Bấy giờ nếu chúng chăm chỉ học theo cách của dân Ta, lấy danh Ta mà thề nguyện, ‘Nguyện Chúa hằng sống làm chứng,’ như trước kia chúng đã dạy dân Ta nhân danh Ba-anh thề nguyện, thì chúng sẽ được vững lập giữa dân Ta. 17 Nhưng nếu dân nào không chịu nghe theo, Ta sẽ bứng hẳn chúng đi và diệt chúng dứt tiệt,” Chúa phán.

Dây Thắt Lưng

13 Chúa phán với tôi thế này, “Hãy đi và mua cho ngươi một dây thắt lưng bằng vải gai mịn, rồi dùng nó buộc lưng ngươi lại, nhưng chớ để nó bị thấm nước.”

Vậy tôi mua một dây thắt lưng và buộc lưng tôi lại như Chúa đã truyền cho tôi. Bấy giờ có lời của Chúa phán với tôi lần thứ hai rằng, “Hãy lấy dây thắt lưng ngươi đã mua, buộc quanh lưng ngươi, rồi đứng dậy, đi đến Sông Ơ-phơ-rát, và giấu nó trong một hang đá ở đó.”

Vậy tôi đi và giấu nó bên bờ Sông Ơ-phơ-rát như Chúa đã truyền cho tôi.

Sau nhiều ngày Chúa lại phán với tôi, “Hãy đứng dậy, đến Sông Ơ-phơ-rát, lấy dây thắt lưng Ta đã truyền cho ngươi giấu ở đó.”

Vậy tôi đứng dậy, đi đến Sông Ơ-phơ-rát, đào bới, và lấy dây thắt lưng tôi đã giấu ở đó ra; nhưng bấy giờ dây thắt lưng ấy đã mục hết; nó chẳng có thể dùng vào việc chi được nữa.

Kế đó lời của Chúa đến với tôi. Chúa phán thế này, “Cũng vậy, Ta sẽ tiêu hủy niềm kiêu hãnh của Giu-đa và niềm kiêu hãnh quá đáng của Giê-ru-sa-lem. 10 Dân tội lỗi này không chịu nghe lời Ta, nhưng cứ theo sự ương ngạnh của lòng chúng, đi theo các thần khác mà phục vụ và thờ phượng các thần ấy. Cho nên dân này sẽ trở nên giống như dây thắt lưng này, chẳng dùng vào việc chi được cả. 11 Vì giống như dây thắt lưng được buộc vào lưng một người thế nào, Ta đã buộc cả nhà I-sơ-ra-ên và cả nhà Giu-đa vào lưng Ta thể ấy,” Chúa phán, “để chúng trở thành một dân thuộc riêng về Ta, hầu đem lại cho Ta danh tiếng, ca ngợi, và vinh hiển; nhưng chúng chẳng nghe theo.”

Các Vò Rượu

12 Ngươi hãy nói với chúng sứ điệp này: “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này, ‘Vò rượu nào cũng phải chứa đầy rượu.’ Bấy giờ chúng sẽ nói với ngươi, ‘Bộ ông tưởng chúng tôi không biết vò nào cũng phải chứa đầy rượu sao?’ 13 Bấy giờ ngươi hãy nói với chúng, ‘Chúa phán thế này, “Ta sắp sửa làm cho toàn thể dân cư trong xứ này, từ các vua ngồi trên ngai của Ða-vít cho đến các tư tế, các tiên tri, và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem, say bí tỉ. 14 Ta sẽ làm cho chúng đánh nhau tơi bời, ngay cả cha con cũng đánh nhau,” Chúa phán. “Ta sẽ không thương xót, không nương tay, và không thương hại khi Ta tiêu diệt chúng.”’”

Viễn Ảnh Bị Lưu Ðày

15 Xin anh chị em hãy lắng tai và nghe cho rõ,
Ðừng tự cao vì Chúa đã phán.
16 Hãy dâng vinh hiển lên Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em,
Trước khi Ngài cho màn đêm phủ xuống,
Và trước khi chân của anh chị em bị vấp trên núi lúc trời sụp tối.
Anh chị em đã trông đợi ánh sáng,
Nhưng Ngài đã biến nó ra bóng tối mịt mùng và làm cho nó càng thêm đen tối.
17 Nếu anh chị em không nghe theo,
Linh hồn tôi chỉ còn biết khóc thầm cho tính kiêu ngạo của anh chị em;
Mắt tôi sẽ đẫm lệ xót xa và nước mắt tôi sẽ chảy mãi,
Vì đàn chiên của Chúa phải bị dẫn đi lưu đày.

18 “Hãy nói với vua và thái hậu: ‘Xin các ngài bước xuống ghế thấp mà ngồi,
Vì vương miệng đẹp đẽ đã bị cất khỏi đầu các ngài rồi.’
19 Các thành ở miền nam hoàn toàn bị phong tỏa,
Không ai có đủ sức giải vây;
Tất cả dân Giu-đa đều bị bắt đem đi lưu đày,
Ai cũng bị đem lưu đày cả.

20 Hãy ngước mắt lên và xem những kẻ đến từ phương bắc.
Ðâu rồi đàn chiên đã giao cho ngươi chăn dắt,
Ðàn chiên đã đẹp đẽ một thời?
21 Ngươi sẽ nói sao khi những kẻ từng được ngươi huấn luyện nay lên cầm quyền, và chúng xử phạt ngươi?
Há chẳng phải ngươi sẽ đau đớn như sản phụ lúc lâm bồn sao?
22 Nếu trong lòng ngươi tự hỏi,
‘Sao những chuyện ấy lại xảy đến cho tôi?’
Ấy là vì những tội lỗi nặng nề của ngươi, mà ngươi đã bị tốc váy và tiết hạnh của ngươi đã bị xâm phạm.

23 Người Ê-thi-ô-pi có thể thay đổi được màu da mình,
Hay con beo có thể thay đổi được các đốm trên mình nó chăng?
Nếu được thì các ngươi, những kẻ đã quen thói xấu xa tội lỗi, có thể tự mình làm người ngay lành lương thiện được.

24 Ta sẽ tung rải các ngươi ra,
Như rác bị gió sa mạc thổi bay tứ tán.
25 Ðó là phần số của ngươi, phần Ta đã chia cho ngươi,” Chúa phán,
“Bởi vì ngươi đã quên Ta mà tin cậy vào các thần giả dối.

26 Ta sẽ cho tốc váy ngươi lên che phủ mặt ngươi,
Ðể thiên hạ sẽ thấy chỗ đáng mắc cở của ngươi.
27 Ta đã thấy rõ những việc gớm ghiếc của ngươi,
Nào những cuộc ngoại tình, những tiếng ré cười dâm dật, và những trò dâm ô bỉ ổi trên các núi đồi và trong khắp các miền thôn dã.
Hỡi Giê-ru-sa-lem, khốn cho ngươi!
Tình trạng này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa trước khi ngươi được thanh tẩy đây?”

Cơn Ðại Hạn Hán

14 Ðây là lời của Chúa đến với Giê-rê-mi về cơn hạn hán:

“Giu-đa than khóc,
Các cổng nàng than thở âu sầu,
Chúng buồn tủi nằm bẹp mình dưới đất,
Tiếng khóc than của Giê-ru-sa-lem vang thấu trời cao.
Những nhà quyền quý sai các đầy tớ ra đi kiếm nước,
Họ ra giếng tìm nhưng chẳng có giọt nước nào,
Họ trở về với những vò khô trống rỗng,
Họ xấu hổ và thẹn thùng nên trùm kín đầu họ lại,
Bởi vì đất đã khô khan nứt nẻ.
Do chẳng có mưa trong xứ lâu ngày,
Các nông dân hổ thẹn buồn rầu,
Họ trùm kín đầu giấu thẹn.
Trong cánh đồng, nai mẹ đẻ con rồi bỏ mặc,
Vì cỏ không còn để ăn hầu có sữa cho con bú.
Các lừa rừng đứng trên các đồi trọc trụi,
Thở hổn hển như bọn chó hoang,
Mắt chúng lờ đờ vì không có cỏ để ăn.

‘Dù tội lỗi chúng con buộc tội chúng con,
Ôi lạy Chúa, xin Ngài hành động, vì danh thánh của Ngài;
Tội phản nghịch của chúng con thật nhiều quá đỗi,
Chúng con quả đã phạm tội đối với Ngài.
Lạy Niềm Hy Vọng của I-sơ-ra-ên,
Ðấng Giải Cứu của dân ấy trong khi khốn quẫn,
Sao Ngài nỡ lạnh lùng như một người xa lạ trong xứ,
Như khách lữ hành ghé tạm trú qua đêm?
Sao Ngài cứ như người chần chừ chưa dứt khoát,
Như dũng sĩ tài năng nhưng không chịu cứu nguy?
Dù vậy, lạy Chúa, Ngài đang ở giữa chúng con,
Và chúng con được gọi bằng danh Ngài;
Xin đừng bỏ chúng con.’”
10 Chúa phán về dân này thế này,
“Quả thật dân này muốn đi lang thang vô định;
Chúng chẳng kiềm giữ đôi chân chúng lại;
Vì vậy Chúa sẽ không chấp nhận chúng nữa,
Ngài sẽ nhớ lại tội lỗi của chúng và sẽ phạt chúng.”

11 Chúa phán với tôi, “Ngươi đừng cầu nguyện cho dân này được an cư lạc nghiệp. 12 Dù chúng kiêng ăn, Ta cũng không nghe tiếng chúng kêu cầu. Dù chúng dâng các của lễ thiêu và các của lễ chay, Ta cũng không đoái nhậm; nhưng Ta sẽ dùng gươm đao, nạn đói, và ôn dịch để diệt chúng.”

Lên Án Các Tiên Tri Nói Dối

13 Bấy giờ tôi nói, “Ôi, lạy Chúa Hằng Hữu. Ðây là những gì các vị tiên tri đã nói với dân, ‘Các ngươi sẽ không thấy gươm đao, các ngươi cũng sẽ không thấy nạn đói, nhưng Ta sẽ ban cho các ngươi hòa bình thật sự trong xứ này.’”

14 Chúa phán với tôi, “Bọn tiên tri ấy đã nhân danh Ta nói tiên tri dối. Ta không hề sai chúng, Ta đã không truyền cho chúng, và Ta đã không phán với chúng. Chúng đã nói tiên tri với các ngươi về một viễn ảnh giả dối, một lời bói toán hão huyền, một sự lừa bịp do tâm trí chúng nghĩ ra. 15 Vì vậy Chúa phán thế này về bọn tiên tri đã nhân danh Ta nói tiên tri mà Ta không hề sai chúng, tức những kẻ đã nói, ‘Gươm đao và nạn đói sẽ không đến trên xứ này’ rằng chính gươm đao và nạn đói sẽ đến tiêu diệt bọn tiên tri ấy. 16 Còn những người dân đã tin vào lời của bọn tiên tri ấy, những kẻ đó sẽ thành nạn nhân của nạn đói và gươm đao, và thây họ sẽ bị quăng ra các đường phố ở Giê-ru-sa-lem. Rồi đây sẽ không còn ai để chôn cất chúng, tức chúng, vợ chúng, các con trai của chúng, và các con gái của chúng, vì Ta sẽ trút đổ các tội lỗi của chúng lại trên đầu chúng.

17 Ngươi hãy nói với chúng sứ điệp này,
‘Hãy để mắt tôi đổ lệ đêm ngày,
Hãy để lệ rơi không ngớt,
Vì trinh nữ của dân tôi đã bị đánh một đòn khủng khiếp,
Mang thương tích trầm trọng.
18 Nếu tôi đi ra ngoài đồng, kìa, người ta bị giết bằng gươm!
Nếu tôi đi vào trong thành, kìa, người ta yếu lả vì đói!
Bởi giới tiên tri và giới tư tế đi lòng vòng khắp xứ thi hành chức vụ, mà kỳ thật họ chẳng hiểu biết gì.’”

Giê-rê-mi Cầu Thay Cho Dân

19 Chẳng lẽ Ngài đã hoàn toàn loại bỏ Giu-đa rồi sao?
Chẳng lẽ lòng Ngài đã chán ghét Si-ôn lắm sao?
Sao Ngài nỡ đánh hạ chúng con đến độ không còn cách nào chữa lành như vậy?
Chúng con mong mỏi bình an, nhưng an lành chẳng thấy;
Chúng con trông mong đến kỳ được chữa lành, nhưng chỉ thấy toàn nỗi kinh hoàng.
20 Ôi Chúa, chúng con nhìn nhận tội lỗi của chúng con, và tội lỗi của tổ tiên chúng con;
Thật vậy chúng con đã phạm tội chống lại Ngài.
21 Vì danh thánh của Ngài, xin đừng hất hủi chúng con;
Xin đừng làm nhục ngai vinh hiển của Ngài;
Xin nhớ lại và đừng bỏ giao ước của Ngài đã lập với chúng con.
22 Có các thần nào của dân tộc nào làm mưa được chăng?
Hay trời xanh có thể cho mưa rào chăng?
Ôi Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, chẳng phải ấy là do Ngài làm sao?
Chúng con đặt trọn hy vọng của chúng con nơi Ngài,
Vì chính Ngài đã làm nên mọi điều ấy.

II Ti-mô-thê 1

Lời Chào Thăm

Phao-lô, một sứ đồ của Ðức Chúa Jesus Christ bởi ý muốn của Ðức Chúa Trời, theo lời hứa về sự sống trong Ðức Chúa Jesus Christ, gởi cho Ti-mô-thê con yêu dấu của ta. Nguyện xin ân sủng, thương xót, và bình an từ Ðức Chúa Trời là Cha, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, đến với con.

Cảm Tạ và Khích Lệ

Ta cảm tạ Ðức Chúa Trời, Ðấng ta thờ phượng với lương tâm trong sạch như tổ tiên ta đã thờ phượng. Cả ngày lẫn đêm, mỗi khi ta cầu nguyện ta luôn nhớ đến con. Ta nhớ đến nước mắt con; ta mong sớm gặp lại con để được tràn ngập niềm vui. Ta nhớ đến đức tin chân thành của con, đức tin ngày trước ở trong Lô-ít bà ngoại con, và trong Êu-nít mẹ con, và hiện nay ta tin chắc cũng đang ở trong con.

Vì thế ta muốn nhắc con hãy khơi dậy ân tứ của Ðức Chúa Trời đang ở trong con qua sự đặt tay của ta. Vì Ðức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tinh thần nhút nhát, nhưng tinh thần mạnh mẽ, yêu thương, và tự chủ. Vậy con đừng hổ thẹn làm chứng về Chúa chúng ta hay hổ thẹn về việc ta vì Ngài bị tù, nhưng hãy cùng ta chịu khổ cho Tin Mừng, bằng quyền năng của Ðức Chúa Trời. Ngài đã cứu chúng ta và kêu gọi chúng ta bằng sự kêu gọi thánh, không theo những việc chúng ta làm, nhưng theo mục đích riêng của Ngài và ân sủng Ngài ban cho chúng ta trong Ðức Chúa Jesus Christ từ muôn đời về trước,[a] 10 nhưng nay được bày tỏ qua sự xuất hiện của Ðức Chúa Jesus Christ, Ðấng Giải Cứu của chúng ta, Ðấng đã vô hiệu hóa quyền lực của tử thần và dùng Tin Mừng để đem sự sống và sự bất tử ra ánh sáng; 11 về Tin Mừng ấy, ta được lập làm một nhà truyền giảng, một sứ đồ, và một giáo sư.

12 Chính vì lý do đó mà ta phải chịu những khổ đau nầy, nhưng ta không hổ thẹn, vì ta biết ta đã tin ai, và ta tin chắc rằng Ngài có thể bảo vệ những gì Ngài đã ủy thác cho ta[b] cho đến ngày ấy.

13 Con hãy giữ vững những mẫu mực của tín lý lành mạnh mà con đã nghe nơi ta bằng đức tin và tình yêu trong Ðức Chúa Jesus Christ.

14 Nguyện xin Ðức Thánh Linh, Ðấng đang ngự trong chúng ta, giúp con bảo vệ những điều đã ủy thác cho con.

15 Chắc con đã biết rằng tất cả những người ở A-si-a đã bỏ ta, trong đó có Phy-ghê-lu và Hẹt-mô-ghen.

16 Nguyện xin Chúa ban ơn thương xót cho gia đình của Ô-nê-si-phô-ru, vì ông đã nhiều lần làm tươi mới tinh thần ta và không hổ thẹn vì ta bị mang xiềng xích. 17 Không những thế khi đến Rô-ma ông đã sốt sắng đi tìm ta và đã tìm được ta.

18 Nguyện xin Chúa cho ông tìm được ơn thương xót của Chúa trong ngày ấy, và chắc con đã biết rõ, lúc ở Ê-phê-sô ông đã giúp đỡ chúng ta nhiều điều như thế nào.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang