Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Old/New Testament

Each day includes a passage from both the Old Testament and New Testament.
Duration: 365 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Thánh Thi 20-22

Xin Chúa Giúp Ðắc Thắng

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Nguyện Chúa đáp lời bạn trong ngày bạn gặp nguy nan.
Nguyện danh Ðức Chúa Trời của Gia-cốp che chở bạn.
Nguyện Ngài ban ơn giúp đỡ bạn từ nơi thánh.
Nguyện Ngài ban ơn phù hộ bạn từ Si-ôn.
Nguyện Ngài nhớ đến tất cả lễ vật bạn dâng.
Nguyện Ngài nhậm những của lễ thiêu bạn hiến. (Sê-la)

Nguyện Ngài ban cho bạn điều lòng bạn ao ước.
Nguyện Ngài làm cho mọi kế hoạch của bạn được thành công.
Nguyện chúng tôi reo hò mừng rỡ khi bạn được đắc thắng,
Và nhân danh Ðức Chúa Trời chúng ta dựng lên những ngọn cờ.
Nguyện Chúa làm thành mọi điều bạn cầu xin.

Bây giờ tôi biết Chúa cứu người được xức dầu của Ngài;
Ngài đáp lời người từ nơi thánh trên trời,
Và dùng tay phải quyền năng Ngài mà giải cứu người.
Người này cậy vào chiến xa, kẻ kia cậy vào chiến mã;
Nhưng chúng ta cậy vào danh Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta.
Chúng nó sẽ quỵ xuống và ngã nhào;
Nhưng chúng ta sẽ vùng dậy và đứng thẳng lên.

Chúa ôi, xin cứu giúp vua;
Xin nhậm lời chúng con khi chúng con kêu cầu Ngài.[a]

Ca Mừng Vì Ðược Giải Cứu

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Chúa ôi, nhờ sức mạnh Ngài mà vua vui mừng;
Nhờ chiến thắng Ngài ban, người vui vẻ biết bao!
Ngài đã ban cho người điều lòng người ao ước;
Và không giữ lại điều gì môi người cầu xin. (Sê-la)
Ngài đã đón tiếp người bằng biết bao phước hạnh;
Ngài đội trên đầu người một vương miện bằng vàng ròng.
Người cầu xin Ngài được bảo toàn mạng sống,
Ngài cho người được trường thọ đời đời.
Người được vinh hiển lớn nhờ Ngài ban chiến thắng;
Ngài ban cho người cả huy hoàng lẫn uy nghi.
Ngài ban phước hạnh cho người muôn đời không dứt,
Và làm cho người luôn vui thỏa trước mặt Ngài;
Bởi vì vua tin cậy Chúa;
Nhờ tình thương của Ðấng Tối Cao, nên người không bị rúng động.

Tay Ngài sẽ tìm ra tất cả quân thù của Ngài;
Tay phải Ngài sẽ bắt hết những kẻ ghét Ngài.
Trong cơn giận Ngài sẽ biến chúng thành một lò lửa hực;
Trong cơn thịnh nộ Chúa sẽ nuốt chửng chúng, và lửa hừng sẽ thiêu trụi chúng.
10 Ngài sẽ diệt trừ dòng dõi chúng khỏi mặt đất,
Và con cháu chúng khỏi giữa con cái loài người.
11 Dù chúng có lập kế hoạch thâm độc chống lại Ngài,
Dù chúng có toan tính một âm mưu đen tối,
Chúng sẽ không bao giờ thành công;
12 Vì Ngài sẽ làm cho chúng phải quay lưng bỏ chạy,
Khi Ngài giương cung nhắm ngay mặt chúng bắn vào.

13 Chúa ôi, nguyện Ngài được tôn cao vì sức mạnh Ngài.
Chúng con sẽ ca hát và chúc tụng quyền năng Ngài.

Lời Than Khóc Trong Cơn Thống Khổ và Bài Ca Tôn Vinh CHÚA

Thơ của Ða-vít

Cho Trưởng Ban Nhạc

Ðức Chúa Trời của con ôi, Ðức Chúa Trời của con ôi, sao Ngài lìa bỏ con?
Sao Ngài quá xa vời trong khi con kêu van xin cứu giúp?
Ðức Chúa Trời của con ôi, ban ngày con khóc, nhưng Ngài chẳng đáp lời;
Còn ban đêm, con nào có lặng thinh.

Dầu vậy Ngài vẫn là Ðấng Thánh,
Đấng ngự trị trên những lời chúc tụng của I-sơ-ra-ên.

Tổ tiên chúng con đã tin cậy Ngài;
Họ đã tin cậy Ngài, và Ngài đã giải thoát họ.
Họ đã kêu cầu Ngài, và họ đã được giải cứu;
Họ đã tin cậy Ngài, và họ đã chẳng thất vọng.

Nhưng con là sâu bọ chứ nào phải loài người;
Con bị người ta sỉ nhục và bị thiên hạ khinh khi.
Tất cả ai trông thấy con đều mỉa mai con;
Họ trề môi, lắc đầu, và nói rằng,
“Nó tin cậy Chúa, hãy để Ngài giải cứu nó;
Hãy để Ngài giải thoát nó, vì Ngài yêu thích nó kia mà!”

Nhưng Ngài là Đấng đã đem con ra từ dạ của mẹ con;
Ngài đã cho con tin cậy Ngài từ khi còn nằm trên bầu sữa mẹ.
10 Từ khi chào đời, con đã được giao phó cho Ngài;
Từ trong bụng mẹ, Ngài đã là Ðức Chúa Trời của con.
11 Xin Ngài đừng lìa bỏ con, vì nỗi gian truân của con đã cận kề,
Và chẳng ai giúp đỡ con cả.

12 Nhiều bò dữ bao quanh con;
Ðàn bò hung bạo ở Ba-san vây lấy con.
13 Chúng hả miệng rộng toác,
Như sư tử gầm, chực ăn tươi nuốt sống con.

14 Mạng sống con bị đổ ra như nước,
Các xương con rời khớp,
Tim con mềm nhũn như sáp và tan chảy ở trong con.
15 Sức lực con khô khan như một miếng sành,
Lưỡi con dính chặt vào cuống họng;
Ngài để con nếm trải bụi tử vong.

16 Một bầy chó bao quanh con;
Một bọn người hung ác vây lấy con;
Chúng đâm thủng hai tay và hai chân con.
17 Con có thể đếm được các xương mình;
Chúng nhìn con và hả hê ngắm nghía con;
18 Chúng chia nhau y phục con;
Còn áo dài của con, chúng bắt thăm nhau lấy.

19 Nhưng Ngài, Chúa ôi, xin đừng lìa bỏ con;
Nguồn Sức Mạnh của con ôi, xin mau đến giúp đỡ con.
20 Xin giải cứu linh hồn con thoát lưỡi gươm;
Xin giải cứu sinh mạng con khỏi quyền lực của bọn chó.
21 Xin cứu con thoát khỏi mồm sư tử,
Và khỏi các sừng của đàn bò điên.

Ngài đã nhậm lời con!

22 Con sẽ rao truyền danh Ngài cho đồng bào[b] con biết;
Con sẽ ca tụng Ngài giữa đại hội đông người.

23 Hỡi những người kính sợ Chúa, hãy ca ngợi Ngài;
Hỡi các con cháu của Gia-cốp, hãy tôn vinh Ngài;
Hỡi dòng dõi của I-sơ-ra-ên, hãy kính sợ Ngài;
24 Vì Ngài không khinh thường hoặc gớm ghê cảnh khốn cùng của người cùng khốn;
Ngài chẳng ẩn mặt Ngài khỏi người ấy bao giờ;
Nhưng khi người ấy kêu xin giúp đỡ, Ngài đã lắng nghe.

25 Ngài là nguồn cảm hứng cho con ca ngợi Ngài giữa đại hội.

Tôi sẽ trả xong những gì tôi đã hứa nguyện trước sự hiện diện của những người kính sợ Ngài.
26 Những người đói khổ sẽ ăn uống và được no nê.
Những người tìm kiếm Chúa sẽ ca ngợi Ngài.
Nguyện tâm hồn vui thỏa của anh chị em sống đời đời!

27 Người ở mọi chân trời góc bể sẽ nhớ lại và quay về với Chúa;
Mọi dòng họ của muôn dân sẽ thờ phượng trước mặt Ngài,
28 Vì vương quyền thuộc về Chúa;
Ngài trị vì trên các quốc gia.

29 Những người giàu sang ở thế gian sẽ ăn mừng và thờ phượng Ngài;
Mọi kẻ trở thành tro bụi sẽ sấp mình xuống trước mặt Ngài;
Ngay cả kẻ không thể giữ được mạng mình cũng làm như vậy.
30 Một đàn con cháu hậu lai sẽ phụng sự Ngài;
Họ sẽ nói về Chúa cho các thế hệ tương lai.
31 Họ sẽ đến và công bố đức công chính Ngài cho một dân sẽ sinh ra,
Rằng Ngài đã làm những điều ấy.

Công Vụ Các Sứ đồ 21:1-17

Phao-lô tại Ty-rơ

21 Sau khi từ giã họ chúng tôi xuống tàu và giăng buồm đi thẳng đến Ðảo Cốt; hôm sau chúng tôi đến Ðảo Rô-đơ, rồi từ đó đến Pa-ta-ra. Tại đó, khi tìm được một chiếc tàu đi Phô-ni-xi-a, chúng tôi xuống tàu và ra khơi. Khi thấy Ðảo Chíp-rơ, chúng tôi đi bọc về phía nam,[a] nhắm hướng Sy-ri-a tiến tới, và cập bến tại Ty-rơ, vì tàu phải dỡ hàng tại đó. Chúng tôi đi tìm các môn đồ và ở lại đó bảy ngày. Do được Ðức Thánh Linh cảm thúc, họ cứ bảo Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên khi thời gian ở lại đó đã mãn, chúng tôi từ giã họ và tiếp tục cuộc hành trình. Tất cả anh em với vợ con họ tiễn chúng tôi ra tận bên ngoài thành. Chúng tôi cùng quỳ xuống trên bãi biển cầu nguyện, rồi chào giã biệt nhau. Sau đó chúng tôi lên tàu, còn họ trở về nhà.

Phao-lô tại Pơ-tô-lê-mai và Sê-sa-rê

Chuyến hải hành từ Ty-rơ chấm dứt khi chúng tôi đến Pơ-tô-lê-mai. Chúng tôi chào thăm các anh chị em và ở với họ một ngày. Hôm sau chúng tôi từ giã họ và đến Sê-sa-rê. Chúng tôi vào nhà của Phi-líp là nhà truyền giảng Tin Mừng, một trong bảy vị chấp sự đầu tiên, và ở lại đó với ông. Ông có bốn cô gái đồng trinh, cô nào cũng có ơn nói tiên tri. 10 Khi chúng tôi ở đó được mấy ngày, một vị tiên tri tên là A-ga-bút từ Giu-đê đến đó. 11 Ông đến thăm chúng tôi. Ông lấy dây thắt lưng của Phao-lô, dùng nó cột chân và tay của ông lại, rồi nói, “Ðức Thánh Linh phán thế này, ‘Người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem sẽ cột người có dây lưng này như thế này, và họ sẽ bắt nộp người ấy cho dân ngoại.’”

12 Khi chúng tôi nghe những lời ấy, chúng tôi và những anh chị em ở đó nài khuyên Phao-lô đừng đi lên Giê-ru-sa-lem. 13 Nhưng Phao-lô đáp, “Anh chị em làm gì vậy? Anh chị em khóc chỉ làm đau lòng tôi thôi, vì tôi đã sẵn sàng không những để chịu trói, mà còn chịu chết vì danh của Ðức Chúa Jesus tại Giê-ru-sa-lem nữa.” 14 Khi chúng tôi thấy không thể thuyết phục được ông, chúng tôi đành im lặng và chỉ nói, “Xin ý Chúa được nên.”

Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem

15 Sau những ngày ấy, khi đã chuẩn bị xong, chúng tôi đi lên Giê-ru-sa-lem. 16 Một số môn đồ ở Sê-sa-rê cùng đi với chúng tôi; họ đưa chúng tôi đến nhà của Mơ-na-sôn người Chíp-rơ, một môn đồ kỳ cựu, để chúng tôi tạm trú tại đó.

17 Khi chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, chúng tôi được anh chị em vui mừng tiếp đón.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang